Xóa án tích là một chế định quan trọng thể hiện nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự Việt Nam – nguyên tắc nhân đạo. Với chế định này, Nhà nước ta đã ghi nhận sự nỗ lực cải tạo của người phạm tội nhằm xóa bỏ đi vết nhơ đã từng bị kết án của mình, từ đó, giúp xóa bỏ thành kiến của xã hội đối với người phạm tội, giúp họ sớm hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Vì vậy, quy định về xóa án tích có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với người phạm tội mà còn giúp xã hội ngày càng phát triển và văn minh.
Kế thừa và phát triển Bộ luật hình sự 1985, Bộ luật hình sự 1999 là bước phát triển mới trong việc giải quyết vấn đề án tích và xóa án tích trong luật hình sự nước ta. Nhiều quy phạm của chế định xóa án tích đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho các cơ quan áp dụng pháp luật đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả như phân định lại đối tượng áp dụng, thời hạn xóa án tích trong từng trường hợp xóa án tích. Tuy nhiên, một số quy định về chế định xóa án tích trong Bộ luật hình sự hiện hành, ở những mức độ khác nhau, bộc lộ những thiếu sót và chưa rõ ràng như thiếu văn bản hướng dẫn về xóa án tích, quy định về thời hạn xóa án tích. dẫn đến việc nhận thức và áp dụng quy định về xóa án tích không thống nhất giữa các Tòa án.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chế định xóa án tích, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp để tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự hiện hành và giải quyết những vướng mắc của thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự là việc rất cần thiết, không những có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa cả về thực tiễn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
58 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5025 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Chế định xóa án tích trong luật hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Xóa án tích là một chế định quan trọng thể hiện nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự Việt Nam – nguyên tắc nhân đạo. Với chế định này, Nhà nước ta đã ghi nhận sự nỗ lực cải tạo của người phạm tội nhằm xóa bỏ đi vết nhơ đã từng bị kết án của mình, từ đó, giúp xóa bỏ thành kiến của xã hội đối với người phạm tội, giúp họ sớm hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Vì vậy, quy định về xóa án tích có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với người phạm tội mà còn giúp xã hội ngày càng phát triển và văn minh.
Kế thừa và phát triển Bộ luật hình sự 1985, Bộ luật hình sự 1999 là bước phát triển mới trong việc giải quyết vấn đề án tích và xóa án tích trong luật hình sự nước ta. Nhiều quy phạm của chế định xóa án tích đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho các cơ quan áp dụng pháp luật đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả như phân định lại đối tượng áp dụng, thời hạn xóa án tích trong từng trường hợp xóa án tích... Tuy nhiên, một số quy định về chế định xóa án tích trong Bộ luật hình sự hiện hành, ở những mức độ khác nhau, bộc lộ những thiếu sót và chưa rõ ràng như thiếu văn bản hướng dẫn về xóa án tích, quy định về thời hạn xóa án tích... dẫn đến việc nhận thức và áp dụng quy định về xóa án tích không thống nhất giữa các Tòa án.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chế định xóa án tích, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp để tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự hiện hành và giải quyết những vướng mắc của thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự là việc rất cần thiết, không những có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa cả về thực tiễn trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Vì vậy, em lựa chọn vấn đề "Chế định xóa án tích trong luật hình sự Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho Khóa luận tốt nghiệp của mình.
Tình hình nghiên cứu
Trong giới khoa học luật hình sự, chế định xóa án tích chưa thực sự được quan tâm nghiên cứu. Hiện nay, mới có một số tác phẩm hướng tới nghiên cứu chế định xóa án tích như:
"Chế định xóa án tích trong Bộ luật hình sự năm 1999" của Nguyễn Thị Minh Phương, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân năm 2001.
"Chế định xóa án tích trong luật hình sự Việt Nam" của Nguyễn Thị Lan, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân năm 2003, Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
Cũng như một số bài viết trong Giáo trình Luật Hình sự và các cuốn bình luận khoa học Bộ luật hình sự do các tác giả khác nhau thực hiện. Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đưa ra những bàn luận và giải quyết được một số vấn đề mà lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đặt ra. Tuy nhiên, một số quy định về xóa án tích vẫn chưa đạt đến sự đồng thuận và gây ra nhiều tranh cãi trong giới khoa học luật hình sự hiện nay.
Mục đích, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích: Mục đích của khóa luận là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của chế định xóa án tích theo pháp luật hình sự Việt Nam, xác định những bất cập trong thực tiễn để đề xuất những giải pháp tiếp tục hoàn thiện chế định trong thời gian tới và nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu chế định xóa án tích theo luật hình sự Việt Nam dưới góc độ Luật hình sự. Đồng thời, cũng đề cập đến một số quy phạm của Luật tố tụng hình sự, Luật Lý lịch tư pháp nhằm phân tích rõ quy định về xóa án tích. Khóa luận tập trung chỉ ra quy định về xóa án tích theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành nhưng trên cơ sở có đối chiếu, so sánh với quy định về xóa án tích theo pháp luật hình sự trước kia nhằm thấy rõ sự phát triển cũng như những điểm hạn chế còn tồn tại của quy định về xóa án tích hiện hành.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của khóa văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp hệ thống, lịch sử, lôgíc, phân tích, so sánh, tổng hợp… để nghiên cứu khóa luận.
Kết cấu của Khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về xóa án tích
Chương 2: Chế định xóa án tích theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÓA ÁN TÍCH
1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự chế định Xóa án tích
Thời kỳ trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985
Vấn đề án tích mặc dù được định hình từ rất sớm trong hệ tư tưởng của người dân Việt Nam nhưng để được pháp điển hóa trong hệ thống pháp luật thì vấn đề án tích cũng như xóa án tích chưa được quan tâm trong thời kỳ trước khi ban hành BLHS năm 1985. Tuy vậy, vấn đề xóa án tích cũng được đề cập rải rác trong một số văn bản pháp luật như Sắc lệnh 21/SL ngày 14 tháng 2 năm 1946 quy định về xóa án tích đối với người được hưởng án treo. Tại Điều 10 Sắc lệnh 21/SL có quy định: “Nếu trong 05 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị Tòa án quân sự làm tội một lần nữa về một việc mới thì bản án đã tuyên sẽ hủy đi, coi như không có”. Tinh thần của điều luật này chính là người phạm tội đương nhiên được coi như chưa can án nếu họ không bị kết án bằng một bản án mới trong thời gian thử thách là 05 năm kể từ ngày tuyên án cũ. Tinh thần này tiếp tục được ghi nhận tại Thông tư 2308/NCLP ngày 1/12/1961 của Tòa án nhân dân Tối cao về xóa án đối với người được hưởng án treo với nội dung: “Nếu hết thời gian thử thách mà người bị phạt án treo không phạm tội gì mới thì sẽ coi như không có tiền án. Những hình phạt phụ mà Tòa án có thể đã tuyên như cấm cư trú hoặc cư trú bắt buộc cũng đương nhiên được xóa bỏ. Nếu phạm tội mới không cùng tính chất và nhẹ hơn tội cũ thì khi hết thời gian thử thách, bản án treo cũ cũng vĩnh viễn không phải chấp hành nữa”. Công văn số 1082/NCLP của Tòa án nhân dân tối cao ngày 5/7/1963 cũng đã khẳng định: “Tòa án không thể coi một người đã bị án treo nhưng đã được xóa bỏ, nay lại phạm tội mới, như là tái phạm”. Như vậy, từ rất sớm, xóa án tích đã được ghi nhận là một trong những nguyên tắc xử lý hình sự quan trọng trong Luật hình sự Việt Nam. Theo các quy phạm hình sự trong thời kỳ này thì xóa án tích đối với người được hưởng án treo được hiểu chính là xóa đi bản án cũ đã tuyên, coi như bản án không có nếu người bị kết án không phạm tội mới trong thời gian thử thách và sẽ không bị áp dụng tình tiết tái phạm trong lần phạm tội sau.
Thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
Đến lần pháp điển hóa pháp luật hình sự lần đầu tiên của nước ta, vấn đề án tích và xóa án tích đã được ghi nhận chính thức trong văn bản pháp lý có hệ thống và có giá trị pháp lý cao – Bộ luật Hình sự năm 1985 từ Điều 52 đến Điều 56 tại Chương “Việc quyết định hình phạt, miễn, giảm hình phạt” với tên gọi là “Xóa án”. BLHS năm 1985 đã quy định cụ thể các trường hợp xóa án, điều kiện xóa án, thời hạn xóa án cũng như cách tính thời hạn xóa án. Có bốn trường hợp xóa án gồm đương nhiên xóa án (Điều 53), xóa án theo quyết định của Tòa án (Điều 54), xóa án trong trường hợp đặc biệt (Điều 55), xóa án trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội (Điều 67). Việc phân định người phạm tội sẽ phải xin xóa án theo trường hợp nào không chỉ phụ thuộc vào loại tội phạm mà người đó đã phạm mà còn căn cứ vào loại và mức hình phạt đã tuyên với người phạm tội. Theo đó, đương nhiên xóa án chỉ được áp dụng đối với những người bị kết án về tội không phải là tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia (Mục A Chương I Phần các tội phạm BLHS năm 1985) hoặc các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (Chương XII Phần các tội phạm BLHS năm 1985) và án không phải phạt tù như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc án phạt tù nhưng cho hưởng án treo và án phạt tù đến năm năm. Còn mọi tội phạm nếu bị tuyên áp dụng hình phạt trên năm năm tù và tội phạm thuộc Mục A Chương I và Chương XII Phần các tội phạm BLHS năm 1985 đều phải có quyết định của Tòa án thì mới được xóa án. Trong mỗi trường hợp xóa án đều có quy định hai phân mức thời hạn xóa án: ba năm hoặc năm năm đối với trường hợp đương nhiên xóa án; năm năm hoặc mười năm đối với trường hợp xóa án theo quyết định của Tòa án. Trong trường hợp xóa án theo trường hợp đặc biệt, người bị kết án phải bảo đảm được từ một phần ba đến một nửa thời hạn quy định. Thời hạn để xoá án đối với người chưa thành niên là một nửa thời hạn xóa án quy định ở các Điều từ 53 đến Điều 55 của BLHS năm 1985. Thời hạn xóa án được tính từ ngày chấp hành xong bản án hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành án và nếu chưa xoá án mà phạm tội mới thì thời hạn để xoá án cũ tính từ ngày chấp hành xong bản án mới.
Năm 1986, Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã ban hành Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 01/8/1986 (được sửa đổi bổ sung tại Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 15/7/1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ) về việc xóa án, hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền xóa án, điều kiện cụ thể xóa án, thủ tục xóa án trong từng trường hợp xóa án và trong một số trường hợp đặc biệt cụ thể. Theo đó, người phạm tội muốn xin xóa án thì phải nộp đơn xin xóa án cho Tòa án đã xử sơ thẩm hoặc xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm tội phạm cũ của mình, kèm theo các giấy tờ chứng minh về việc chấp hành xong bản án và không phạm tội mới trong thời hạn xóa án tích của mình. Trong trường hợp xóa án theo quyết định của Tòa án hoặc trong trường hợp đặc biệt thì cần thêm giấy tờ nhận xét về thái độ chấp hành pháp luật của người phạm tội tại địa phương. Tòa án sẽ tiến hành xác minh và cấp Giấy chứng nhận xóa án hoặc Quyết định xóa án.
Mặc dù là đây là lần pháp điển hóa đầu tiên nhưng có thể nói, BLHS năm 1985 và các văn bản hướng dẫn đã tạo một hành lang pháp lý tương đối đầy đủ và rõ ràng về việc xóa án, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xóa án của những người phạm tội. Điều này thể hiện sự đánh giá đúng mức vai trò, vị trí của chế định xóa án trong pháp luật hình sự của Nhà nước ta, thể hiện sự ghi nhận của Nhà nước đối với những cố gắng cải tạo hoàn lương của người phạm tội, khuyến khích người phạm tội nhanh chóng xóa bỏ mặc cảm lỗi lầm, hòa nhập cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, điểm hạn chế của chế định “Xóa án” là chưa đưa ra được khái niệm pháp lý về án tích và xóa án, đồng thời sự phân hóa về tội phạm trong quy định thời hạn xóa án chưa rõ rệt.
Thời kỳ từ khi ban hành Bộ Luật hình sự năm 1999 đến nay
Đến BLHS năm 1999 - lần pháp điển hóa pháp luật hình sự lần thứ hai, quy định về xóa án tích đã được ghi nhận với sự đổi mới toàn diện hơn, cụ thể:
Điều đóng góp đáng ghi nhận trước hết của Bộ luật hình sự năm 1999 trong quy định về xóa án tích là việc thay đổi thuật ngữ “Xóa án” trong BLHS năm 1985 bằng thuật ngữ “Xóa án tích”. Điều này không những có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn. Bởi, thuật ngữ “Xóa án” dễ gây ra cách hiểu xóa án tích chính là xóa đi bản án mà Tòa án đã tuyên đối với người phạm tội. Trong khi đó, thuật ngữ “Xóa án tích” lại khẳng định bản chất của xóa án tích là chỉ xóa đi vết tích từng bị kết án của người phạm tội chứ không thể xóa đi bản án mà Tòa án đã tuyên đối với người phạm tội như quan điểm truyền thống về xóa án tích trước kia.
Hơn nữa, từ việc quy định xóa án tích trong chế định “Việc quyết định hình phạt, miễn và giảm hình phạt” thì đến BLHS năm 1999, án tích đã trở thành một chế định riêng biệt: Chương IX “Xóa án tích” – chương tách từ chương “Việc quyết đinh hình phạt, miễn và giảm hình phạt” trong BLHS năm 1985, với 05 điều từ Điều 63 đến Điều 67 và Điều 77 quy định riêng đối với người chưa thành niên. Sự thay đổi này cho thấy sự quan tâm của Nhà nước, đề cao vai trò, vị trí quan trọng của chế định “Xóa án tích” trong pháp luật hình sự Việt Nam. Điều này cũng xuất phát từ chính bản chất của án tích. Án tích là giai đoạn cuối cùng của việc xử lý hình sự với tội phạm. Nó không được thực hiện trong giai đoạn xét xử như việc quyết định hình phạt, cũng không thuộc giai đoạn thi hành án như việc hoãn hay miễn chấp hành hình phạt. Vì vậy, việc tách xóa án tích thành chế định riêng so với “Quyết định hình phạt, miễn và giảm hình phạt” là điều hợp lý về kỹ thuật lập pháp.
BLHS năm 1999 vẫn giữ nguyên bốn trường hợp xóa án tích chính, tuy nhiên đã có sự mở rộng phạm vi với nhiều mức độ thời hạn và đối tượng được áp dụng các trường hợp xóa án tích. So với quy định tại Điều 53 BLHS năm 1985 về đương nhiên được xóa án thì quy định tại Điều 64 BLHS năm 1999 cho thấy tất cả các mức án về các tội không phải là những tội quy định tại Chương XI “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia” và Chương XXIV “Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh” đều thuộc diện đương nhiên được xóa án tích. Trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án chỉ dành riêng cho những tội phạm thuộc chương XI và chương XXIV của BLHS năm 1999. Như vậy, việc người bị kết án được xóa án tích theo trường hợp nào chỉ phụ thuộc vào loại tội phạm mà họ đã thực hiện mà không phụ thuộc vào loại và mức hình phạt mà họ phải gánh chịu. Quy định này xuất phát từ quan điểm việc quyết định hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố, không chỉ là tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà còn là nhân thân người phạm tội,vai trò đồng phạm, yếu tố tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự… Còn việc quy định thời hạn xóa án tích – chính là khoảng thời gian thử thách mà người phạm tội phải vượt qua để chứng minh sự cải tạo, tinh thần nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và thực sự hoàn lương lại cần căn cứ nhiều vào tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà người phạm tội đã thực hiện. Việc có ý thức phạm tội các tội phạm thuộc Chương XI và Chương XXIV – những tội phạm có tính nguy hiểm cao đối với an ninh quốc gia, xã hội và loài người cho thấy việc xóa án tích cho những tội phạm này cũng cần phải nghiêm ngặt, chặt chẽ hơn so với các tội phạm khác.
Đồng thời, Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng rút ngắn thời hạn xóa án tích trong các trường hợp so với trước đây. Theo BLHS năm 1985 (sửa đổi, bổ sung năm 1989), đối với người bị phạt tù nhưng được hưởng án treo phải sau ba năm kể từ ngày hết thời hạn thử thách mới được xóa án tích thì nay thời hạn này chỉ còn một năm. Thời hạn một năm cũng được áp dụng để xóa án tích đối với những người bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ thay cho quy định là ba năm như luật cũ. Thời hạn để xóa án tích trong trường hợp xóa án tích đặc biệt cũng được rút xuống từ cần “đảm bảo ít nhất từ một phần ba đến một phần hai thời hạn” xuống còn cần “đảm bảo ít nhất một phần ba thời hạn” quy định. Quy định này thể hiện rõ sự đề cao tính chất nhân đạo trong chính sách hình sự của Việt Nam.
Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng quy định cụ thể từng mức thời hạn xóa án tích phụ thuộc vào từng loại tội và mức hình phạt. Đối với trường hợp đương nhiên được xóa án tích, thời hạn xóa án tích có thể là một năm, ba năm, năm năm hoặc bảy năm. Còn đối với trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án, thời hạn này là ba năm, bảy năm hoặc mười năm. Điều này phù hợp với chính sách phân hóa tội phạm được quy định tại khoản 2 Điều 8 BLHS năm 1999 cũng như tạo khả năng để những người phạm tội ít nghiêm trọng sớm hòa nhập cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội.
Cách tính thời hạn xóa án tích của BLHS năm 1999 đã được kế thừa từ quy định tính thời hạn xóa án trong BLHS năm 1985.
Đến năm 2009, BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung nhưng những quy định về án tích và xóa án tích vẫn được giữ nguyên.
Như vậy, trong lần pháp điển hóa pháp luật hình sự lần thứ hai này, chế định xóa án tích đã được quy định một cách toàn diện, chặt chẽ và hợp lý hơn. Điều này không chỉ thể hiện sự nâng cao trong kỹ thuật lập pháp mà còn thể hiện chính sách nhân đạo cũng như sự phân hóa tội phạm ngày càng cao trong pháp luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, BLHS năm 1999 vẫn chưa đưa ra được khái niệm pháp lý chuẩn mực về án tích và xóa án tích cũng như một số quy định chưa thực sự hoàn thiện, đã gây nhiều khó khăn cho việc áp dụng thống nhất quy định của pháp luật.
Lý luận chung về xóa án tích
Khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý của án tích
Khái niệm và bản chất của án tích
Án tích là chế định quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam, đã được pháp điển hóa lần đầu tiên trong Bộ luật Hình sự năm 1985 bằng chế định “Xóa án” và được tiếp tục ghi nhận tại chế định “Xóa án tích” trong Bộ luật Hình sự năm năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Tuy vậy, cho đến nay, khái niệm án tích chưa bao giờ được ghi nhận trong pháp luật hình sự của Việt Nam. Việc BLHS không đưa ra một khái niệm án tích đã dẫn đến không ít những cách hiểu khác nhau về khái niệm án tích cũng như bản chất pháp lý của án tích trong khoa học luật hình sự.
Quan điểm thứ nhất cho rằng “Án tích là hậu quả pháp lý mà người phạm tội phải chịu khi bị Tòa án kết án (tuyên một bản án buộc tội) theo đó người này có thể trở thành đối tượng bị áp dụng tình tiết tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm khi phạm tội mới”. Quan điểm này đã nêu lên được hậu quả pháp lý của án tích chính là người mang án tích có thể bị áp dụng tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Điều 49 BLHS năm 1999. Tuy nhiên, quan điểm này chưa thực sự hợp lý vì án tích không phải luôn luôn là hậu quả pháp lý của việc bị kết án. Trong một số trường hợp, án tích vẫn có thể được loại bỏ khi người bị kết án không phải chịu hình phạt như trường hợp được miễn hình phạt hoặc chỉ bị áp dụng biện pháp tư pháp.
Quan điểm thứ hai khẳng định “Án tích là khoảng thời gian nhất định buộc người phạm tội sau khi chấp hành xong bản án phải phấn đấu tu dưỡng để được xóa bỏ mặc cảm của xã hội, xóa bỏ lai lịch rằng mình đã can án và trường hợp nếu họ phạm tội mới thì không bị coi là tái phạm, tái phạm nguy hiểm”. Quan điểm này mới chỉ nhấn mạnh được ý nghĩa pháp lý của án tích mà chưa chỉ rõ được các đặc điểm pháp lý của án tích như bản chất án tích, đối tượng của án tích…
Quan điểm thứ ba cho rằng