Tiếp tục kế hoạch phát triển kinh tế giai đoạn 1991-2000, mở rộng đa dạng hoá thị trường vẫn là một trong những khâu then chốt của chiến lược phát triển xuất nhập khẩu cho thời kỳ 2001-2010. Trong đó, đẩy mạnh tìm kiếm các thị trường mới là quan điểm chủ đạo, xuyên xuốt. Trong khi nhiều thị trường đã trở nên bão hoà thì Châu Phi lại nổi lên như một thị trường thật sự mới mẻ và tiềm năng.
Trong số 54 quốc gia tại Châu Phi, Cộng hoà Nam Phi là nước có nền kinh tế phát triển nhất, với diện tích 1.228 triệu km, dân số 43,2 mở ra nhiều tiềm năng và cơ hội cho Việt Nam, đóng một vai trò quan trọng trong hợp tác kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Châu Phi nói chung.
Hơn thế nữa, Nam Phi có một nền kinh tế khá mạnh, vị trí địa lý thuận lợi, cơ sở hạ tầng rất phát triển, với hệ thống cảng biển hiện đại ngang tầm với các nước phát triển khác trên thế giới. Nam Phi được coi là thị trường đầu mối hết sức quan trọng ở Châu Phi. Thông qua đó, chúng ta có thể nhập khẩu rồi tái xuất đi các thị trường khác ở Châu Phi, thậm chí sang cả các thị trường phát triển như EU, Mỹ.
Tuy nhiên, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Cộng hoà Nam Phi còn ở mức độ rất khiêm tốn, thực sự chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên. Năm 2002, xuất khẩu của Việt Nam sang Nam Phi đạt 50 triệu USD, kim ngạch này chỉ chiếm chưa đầy 0,2% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nhập khẩu của Việt Nam từ Nam Phi lại càng thấp, chỉ đạt 5,07 triệu USD, chiếm 0,08% kim ngạch nhập khẩu của Nam Phi.
Bên cạnh đó, quan hệ hợp tác giữa nước ta và Châu Phi trên các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ đang ở mức không đáng kể.
Chính vì thế, để tăng cường quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Cộng hoà Nam Phi nói riêng và toàn Châu Phi nói chung, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng buôn bán hai chiều trong thời kỳ 2001-2010, cũng như mở rộng quan hệ trên các lĩnh vực dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Việc nghiên cứu và tìm hiểu thị trường Nam Phi, nắm bắt thực trạng mối quan hệ thương mại hiện nay giữa Việt Nam với thị trường này, từ đó đề ra những giải pháp trở nên hết sức cần thiết. Nhận thấy tầm quan trọng, tính mới mẻ và cũng đầy hấp dẫn này của vấn đề, tác giả xin phép được nghiên cứu đề tài "Cộng hoà Nam Phi, giải pháp phát triển cho quan hệ kinh tế – thương mại giữa Việt Nam và Cộng hoà Nam Phi trong thời gian tới".
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách kinh tế thương mại của Cộng hoà Nam Phi với thế giới và với Việt Nam, chính sách của Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với Cộng hoà Nam Phi, quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Nam Phi thời kỳ 1991-2001 và quan hệ hợ tác trên các lĩnh vực khác.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được thực hiện trên 4 lĩnh vực: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Các kiến nghị, giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Cộng hoà Nam Phi trong thời gian tới.
Bằng việc sử dụng các phương pháp biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử làm nền tảng, đồng thời kết hợp các phương pháp khác như thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, tác giả mong muốn được giới thiệu những thông tin mới mẻ, cần thiết về nước Cộng hoà Nam Phi và thị trường Nam Phi, thực trạng quan hệ giữa Việt Nam và đất nước tuy mới mẻ nhưng đầy tiềm năng này. Từ đó xây dựng cơ sở khoa học để đề ra một số kiến nghị, giải pháp góp phần phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam Cộng hoà Nam Phi nói riêng và giữa Việt Nam với Châu Phi nói chung trong giai đoạn tới.
Xuất phát từ những phân tích trên, khoá luận bao gồm 3 chương sau:
CHƯƠNG I : Tổng quan về nước Cộng hoà Nam Phi
CHƯƠNG II: Quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam-CH Nam Phi
CHƯƠNG III: Các giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Cộng hoà Nam Phi
79 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2617 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Cộng hòa Nam Phi: Giải pháp phát triển cho quan hệ kinh tế - Thương mại giữa Việt Nam và cộng hòa Nam Phi trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Tiếp tục kế hoạch phát triển kinh tế giai đoạn 1991-2000, mở rộng đa dạng hoá thị trường vẫn là một trong những khâu then chốt của chiến lược phát triển xuất nhập khẩu cho thời kỳ 2001-2010. Trong đó, đẩy mạnh tìm kiếm các thị trường mới là quan điểm chủ đạo, xuyên xuốt. Trong khi nhiều thị trường đã trở nên bão hoà thì Châu Phi lại nổi lên như một thị trường thật sự mới mẻ và tiềm năng.
Trong số 54 quốc gia tại Châu Phi, Cộng hoà Nam Phi là nước có nền kinh tế phát triển nhất, với diện tích 1.228 triệu km, dân số 43,2 mở ra nhiều tiềm năng và cơ hội cho Việt Nam, đóng một vai trò quan trọng trong hợp tác kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Châu Phi nói chung.
Hơn thế nữa, Nam Phi có một nền kinh tế khá mạnh, vị trí địa lý thuận lợi, cơ sở hạ tầng rất phát triển, với hệ thống cảng biển hiện đại ngang tầm với các nước phát triển khác trên thế giới. Nam Phi được coi là thị trường đầu mối hết sức quan trọng ở Châu Phi. Thông qua đó, chúng ta có thể nhập khẩu rồi tái xuất đi các thị trường khác ở Châu Phi, thậm chí sang cả các thị trường phát triển như EU, Mỹ...
Tuy nhiên, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Cộng hoà Nam Phi còn ở mức độ rất khiêm tốn, thực sự chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên. Năm 2002, xuất khẩu của Việt Nam sang Nam Phi đạt 50 triệu USD, kim ngạch này chỉ chiếm chưa đầy 0,2% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nhập khẩu của Việt Nam từ Nam Phi lại càng thấp, chỉ đạt 5,07 triệu USD, chiếm 0,08% kim ngạch nhập khẩu của Nam Phi.
Bên cạnh đó, quan hệ hợp tác giữa nước ta và Châu Phi trên các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ đang ở mức không đáng kể.
Chính vì thế, để tăng cường quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Cộng hoà Nam Phi nói riêng và toàn Châu Phi nói chung, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng buôn bán hai chiều trong thời kỳ 2001-2010, cũng như mở rộng quan hệ trên các lĩnh vực dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Việc nghiên cứu và tìm hiểu thị trường Nam Phi, nắm bắt thực trạng mối quan hệ thương mại hiện nay giữa Việt Nam với thị trường này, từ đó đề ra những giải pháp trở nên hết sức cần thiết. Nhận thấy tầm quan trọng, tính mới mẻ và cũng đầy hấp dẫn này của vấn đề, tác giả xin phép được nghiên cứu đề tài "Cộng hoà Nam Phi, giải pháp phát triển cho quan hệ kinh tế – thương mại giữa Việt Nam và Cộng hoà Nam Phi trong thời gian tới".
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách kinh tế thương mại của Cộng hoà Nam Phi với thế giới và với Việt Nam, chính sách của Nhà nước Việt Nam trong quan hệ với Cộng hoà Nam Phi, quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Nam Phi thời kỳ 1991-2001 và quan hệ hợ tác trên các lĩnh vực khác.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được thực hiện trên 4 lĩnh vực: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Các kiến nghị, giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Cộng hoà Nam Phi trong thời gian tới.
Bằng việc sử dụng các phương pháp biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử làm nền tảng, đồng thời kết hợp các phương pháp khác như thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, tác giả mong muốn được giới thiệu những thông tin mới mẻ, cần thiết về nước Cộng hoà Nam Phi và thị trường Nam Phi, thực trạng quan hệ giữa Việt Nam và đất nước tuy mới mẻ nhưng đầy tiềm năng này. Từ đó xây dựng cơ sở khoa học để đề ra một số kiến nghị, giải pháp góp phần phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam Cộng hoà Nam Phi nói riêng và giữa Việt Nam với Châu Phi nói chung trong giai đoạn tới.
Xuất phát từ những phân tích trên, khoá luận bao gồm 3 chương sau:
CHƯƠNG I : Tổng quan về nước Cộng hoà Nam Phi
CHƯƠNG II: Quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam-CH Nam Phi
CHƯƠNG III: Các giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Cộng hoà Nam Phi
Trong khi làm luận văn này, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ từ phía các Thầy, các Cô, cũng như các Cơ quan, gia đình, bạn bè. Em đặc biệt cảm ơn Thầy giáo Tô Trọng Nghiệp, người đã chỉ bảo rất tận tình cùng những lời động viên giúp em hoàn thành được khoá luận này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới chú Nguyễn Anh Tuấn, Vụ phó Vụ Châu Phi Tây Nam Á; anh Tạ Đức Minh, chuyên viên Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Thương mại, những người đã cung cấp cho em có được nhiều tài liệu quý giá.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ NƯỚC CỘNG HOÀ NAM PHI
I/ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN :
1/ Điều kiện địa lý-khí hậu:
1.1/ Điều kiện địa lý:
Đất nước Cộng hoà Nam Phi nằm ở phía dưới cùng của Châu Phi với 1.219.912 km2, bao gồm cả hải đảo Prince Edward, thuộc vĩ độ 22-35o về phía Nam và 17-33o về phía Đông. Nam Phi chiếm 4% diện tích toàn Châu Phi, lớn gấp năm lần diện tích của Anh, gấp đôi Pháp và gần bằng diện tích của Đức, Pháp, Italia cộng lại.
Nam Phi có đường biên giới chung với nước Namibia, Botswana và Zimbabue, trong khi Vương quốc Lesotho nằm hoàn toàn trong Nam Phi. Phía Đông Bắc giáp ranh với Mozambique và Swaziland. Phía Tây, Nam, Bắc có biển Đại Tây Dương và biển Ấn Độ Dương bao bọc, chính vì thế phía Tây được bao bọc bởi dòng nước lạnh Benguela từ biển Atlantic, phía Đông là dòng nước ấm từ Ấn Độ Dương. Bờ biển của Nam Phi dài tới 2.954 km với rất nhiều đồng cỏ, thảo nguyên và rừng.
Địa hình của Nam Phi bao gồm một vùng cao nguyên đá cổ được chia cắt với vùng đồng bằng hẹp ven biển bởi dãy núi Great Esscarpment. Vùng cao nguyên chiếm khoảng 2/3 diện tích đất nước. Tuy nhiên, số đất trồng lớn, chỉ chiếm 10% tổng diện tích đất đai, rừng và rừng tái sinh chiếm 7%. Bên cạnh đó lại không có sông hồ cho tầu bè đi lại. Đa phần sông ngòi nằm ở vùng khô, chỉ chảy vào mùa mưa.
Một điểm quan trọng là đất nước Nam Phi cố một trữ lượng khoáng sản hết sức dồi dào và đa dạng. Ví dụ như vàng, crôm, antimon, than, quặng thép, mangan, kền, phân lân, thiếc, urani, đá quý, kim cương, bạch kim, đồng, muối, khí đốt thiên nhiên...
1.2. Khí hậu:
Vị thế địa lý đã tạo ra cho Nam Phi có khí hậu ôn hoà với nhiều nắng. Trung bình nắng chiếu khoảng 7,5 đến 9,5 giờ một ngày, so với 3,8 giờ tại Luân Đôn và 6,9 giờ tại Niu Óoc. Tuy nhiên tại vùng núi cao cũng có tuyết rơi.
Ở đây mưa ít hơn 464 mm, bằng khoảng hơn một nửa so với lượng mưa trung bình của thế giới. Trừ hai vùng Cape và Mediterranê là có mưa quanh năm, còn lại 80% lượng mưa tập trung vào các tháng mùa hè từ tháng 10 tới tháng 3. Ngoài ra Nam Phi thường xuyên bị ảnh hưởng bởi hạn hán nặng và kéo dài, hơn 65% diện tích đất ở tình trạng khô cằn hoặc nửa khô cằn.
Tuy vậy, hai dòng nước trên và dải bờ biển tại ba phía đã tạo cho Nam Phi có lượng thực vật đa dạng và phong phú.
Nhìn chung, so với các nước Châu Phi, khí hậu Nam Phi tương đối ôn hoà, không quá lạnh vào mùa đông và cũng không quá nóng vào mùa hè.
2/ Dân số:
Nam Phi có một lượng dân số đông và trẻ. Theo thống kê năm 2002, dân số Nam Phi là 43, 8 triệu dân, chiếm khoảng 6% tổng dân số Châu Phi. Bao gồm phần lớn là người da đen, trên 5 triệu người da trắng và có khoảng 2 triệu người gốc Á. Tốc độ tăng dân số là 60.000 người/tháng. Số người ở độ tuổi lao động (từ 15-64) là 14,4 triệu và tăng lên theo mức 2,8% hàng năm. Bên cạnh đó, cũng có tới 54% dân số ở độ tuổi dưới 24, trong đó tỷ lệ dưới 14 là 32,01% tổng dân số.
II/ ĐIỀU KIỆN XÃ HỘI-CHÍNH TRỊ-KINH TẾ :
1/ Điều kiện xã hội :
1.1. Lịch sử:
Từ thế kỷ 16 trở về trước, trên lãnh thổ Nam Phi chỉ có người Phi thuộc các bộ lạc Bantu, Khoi-Khoi và Hottentotes sinh sống. Thế kỷ 17 và 18, người Hà Lan và người Anh đến đây xâm chiếm, đẩy lùi người dân bản xứ vào sâu nội địa. Sau cuộc chiến tranh diễn ra từ năm 1899 đến 1902, người Hà Lan buộc phải chấp nhận sự bảo hộ của Thực dân Anh.
Ngày 31/5/1910, sau khi sát nhập 4 tỉnh Cape, Orange, Transval và Natal, Vương quốc Anh thành lập Liên bang Nam Phi tự trị. Năm 1948, Đảng Quốc gia của người da trắng lên nắm quyền ở Nam Phi, thi hành chính sách Apacthai và các đạo luật phân biệt chủng tộc, đàn áp, bóc lột người bản xứ.
Ngày 31/5/1961, sau khi đơn phương trưng cầu dân ý trong những người da trắng, chính quyền Nam Phi rút ra khỏi Khối Liên hiệp Anh và tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Nam Phi độc lập. Các tầng lớp tư sản Nam Phi khai thác tài nguyên thiên nhiên giầu có, bóc lột người Phi và cấu kết với người tư bản nước ngoài, tạo nên “thần kì kinh tế” trong những năm 20-60, xây dựng cơ sở hạ tầng tương đối phát triển ở Nam Phi.
Từ cuối những năm 80, trước sức ép của cộng đồng quốc tế và sức mạnh của đấu tranh nhân dân, chính quyền Nam Phi đã buộc phải tiến hành cải cách, trả tự do cho các nhà hoạt động chính trị, trong đó có Nelson Mandela, đối thoại với các đảng phái đối lập, xoá bỏ chế độ phân biệt chủng tộc Aparthai. Năm 1994, Nam Phi tiến hành cuộc tổng tuyển cử đa sắc tộc đầu tiên, đảng ANC (Đảng Dân tộc) giành thắng lợi, ông Nelson Mandela được cử làm Tổng thống. ANC thành lập Chính phủ đoàn kết dân tộc bao gồm các đảng đối lập. Dưới thời Tổng thống N. Mandela, hàng loạt các chính sách, đường lối cải cách tiến bộ xuất hiện và đã thực sự những tiến bộ đáng kể ở Nam Phi. Từ những việc đấu tranh chống nạn phân biệt chủng tộc đến những cải cách tiến bộ về kinh tế, du lịch, đầu tư cho đến y tế, văn hoá, giáo dục,... đã đem đến cho Nam Phi một bộ mặt mới mẻ, sôi động và phát triển.
Tháng 6/1999, tại cuộc bầu cử đa sắc tộc lần thứ hai, ông Thabo Mbeki, Chủ tịch đảng ANC, nguyên Phó Tổng thống, giành được trên 66% phiếu bầu, trở thành Tổng thống mới của Nam Phi.
Thabo Mbeki đã tỏ ra là một vị tổng thống có tài, tuy nhiên vị trí của ông trong chính sách đối nội và đối ngoại đã không đạt được sự ủng hộ vì ông từ chối việc kết án các quan điểm chính trị cực đoan về Zimbabwe của Robert Mugabe và những phát biểu thiếu hiểu biết của ông về bệnh AIDS. Sự khủng hoảng về sức khỏe do đại dịch AIDS gây ra đang tác động đến 4,2 triệu người Nam Phi . Chính các đe dọa nghiêm trọng này có thể làm lu mờ tất cả những vấn đề khác thuộc về Nam Phi.
1.2. Văn hoá:
Nam Phi là một nước đa chủng tộc, được coi là cái nôi văn hoá của nhiều dân tộc ở Châu Phi, với nhiều nền văn hoá truyền thống đặc sắc, đi kèm theo những phong tục tập quán đa dạng. Tuy nhiên, ở các vùng nội thành của Nam Phi cũng có sự pha trộn về văn hoá. Việc nền văn hoá cổ truyền bị cấm đoán trong suốt thời kỳ Aparthai khiến cho lối sống cũ cũng dần trở nên phai nhạt dần.
Bên cạnh những người dân gốc Phi da đen, còn có một bộ phận không nhỏ người dân da trắng gốc Anh, Hà Lan... Những người này sống tập trung ở các khu vực thành thị, có đời sống văn hoá thoải mái và tiện nghi như ở các nước phương Tây.
1.3. Đời sống:
Trải qua thời kỳ mông muội, nghèo đói của một Châu Phi lạc hậu và giai đoạn hà khắc của chế độ phân biệt chủng tộc Aparthai, đời sống của người dân Nam Phi đã thay đổi nhanh chóng. Năm 2002, với mức thu nhập bình quân đầu người trên 3000 USD, Nam Phi đã được xếp vào hàng có thu nhập cao trong số các nước đang phát triển (theo phương pháp PPP, GDP/người năm 2002 lên đến 9.400USD).
Mặc dù vậy, chính sách phân biệt chủng tộc đã được xoá bỏ cách đây gần một thập niên, hiện nay khoảng cách giữa mức sống của người da đen và người da trắng vẫn còn rất xa. Thậm chí, đối với một số người, Nam Phi là hai nước chứ không phải một: một nước là của người da trắng, với mức sống tương đương với người dân những quốc gia phát triển nhất thế giới, và một nước của người da đen, có thể xếp vào những quốc gia nghèo nhất thế giới.
Bên cạnh đó Nam Phi còn tồn tại rất nhiều vấn đề nóng bỏng. Theo số liệu năm 2000, tỷ lệ lạm phát là 5,3%, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 30%, tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo khổ là 50%, chủ yếu là người da đen.
Một trong những vấn nạn nghiêm trọng nhất của xã hội Nam Phi hiện nay là sự bành trướng của dịch bệnh AIDS. Nam Phi hiện là nước có số dân nhiễm virus HIV nhiều nhất thế giới. Theo số liệu của Liên Hiệp Quốc, có hơn 4 triệu 200 ngàn người Nam Phi là nạn nhân của căn bệnh thời đại này. Riêng trong nữ giới, cứ 4 người phụ nữ trong độ tuổi từ 20 đến 29 là có 1 người nhiễm HIV.
Thiếu hiểu biết về sự lây lan của căn bệnh, ăn ở thiếu vệ sinh và thiếu điều kiện chăm sóc sức khoẻ là những nguyên nhân gây ra sự lây lan nhanh chóng của bệnh AIDS ở Nam Phi. Căn bệnh tai ác này còn là mối đe doạ chính cho dân số Nam Phi. Bởi nếu không có bệnh AIDS, dân số Nam Phi, từ khoảng gần 44 triệu hiện nay sẽ có thể tăng lên 52 triệu vào năm 2015.
2/ Chính trị :
Nước Cộng hoà Nam Phi là một nước dân chủ, có hệ thống quản lý ba cấp độ. Trong đó, nghị viện là cơ quan pháp lý của Chính phủ, có quyền tạo luật phù hợp với Hiến pháp. Chính quyền trung ương và 9 chính quyền địa phương: Estern Cape, Free State, Gauteng, KwaZulu-Natal, Mpumalanga, North-West, North Cape, Northe Province, Western Cape.
Nước Cộng hoà Nam Phi sử dụng Luật La Mã-Hà Lan, theo luật của Anh và Hiến pháp năm 1996. Hiến pháp mới được tổng thống Mandela ký vào ngày 10/12/1996 và có hiệu lực từ 03/2/1997 đảm bảo cho sự thống nhất của Chính phủ và cơ cấu tại quốc gia, tỉnh lỵ và địa phương. Mọi người dân đủ 18 tuổi đều được quyền đi bầu cử.
Cơ quan lập pháp của Nam Phi bao gồm 2 Viện, trong đó 400 ghế cho Quốc hội và 90 ghế cho Hội đồng Quốc gia các tỉnh.
Hiện nay Đảng Đại hội dân tộc Phi (ANC-African National Congress) nắm quyền giữ 266 số ghế. Đảng Dân Chủ (Dp-Democratic Party) chiếm 38 ghế, Đảng Tự do Inkatha chiếm 34 ghế, Đảng Quốc gia mới chiếm 28 ghế và một số đảng phái khác nắm giữ số ghế còn lại của Quốc Hội.
Cơ cấu Chính phủ được thể hiện như sau:
3. Kinh tế :
3.1. Tăng trưởng kinh tế :
Mặc dù là một nước đang phát triển, Cộng hoà Nam Phi là nước có nền kinh tế lớn nhất, đa dạng nhất và tiên tiến nhất ở Châu Phi. GDP của Nam Phi năm 2002 đạt 148 tỷ USD, lớn gấp 3 lần Ai Cập, gấp 4 lần Nigeria, là những nước có nền kinh tế mạnh nhất của Châu Phi.
Nhìn chung, mức tăng trưởng GDP bình quân trong giai đoạn 1995-2000 đạt 874 tỷ Rand (đồng tiền của Nam Phi) tức là khoảng 127 tỷ USD, đạt 2.3%, trong đó nông nghiệp tăng 5%, công nghiệp tăng 37%, dịch vụ tăng 58%. GDP bình quân đầu người năm 2000 lên đến 2.896 USD. Động lực cho sự phát triển chủ yếu nhờ sự thay đổi trong chính sách của Chính phủ trong việc chuyển từ tập trung vào thị trường nội địa sang nền kinh tế hướng ra xuất khẩu. Nguyên nhân thứ hai là do việc thay đổi cơ cấu của nền kinh tế sang sản xuất và xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thay vì chỉ dựa chủ yếu vào khai thác nguyên liệu khoáng sản.
GDP tính theo loại hình hoạt động kinh tế với giá hiện hành và giá cơ bản (tỉ rand)
Giai đoạn
Nông lâm ngư nghiệp
Khai thác mỏ
Chế biến
Xây dựng
điện, ga và nước
Thông tin liên lạc và v.chuyển
Thương mại
Ngành khác
Tổng GDP ở mức giá cơ bản
1997
25.325
40.524
124.604
19.386
20.386
57.765
85.858
251.570
625.481
1998
24.453
43.445
129.057
20.682
20.964
63.499
89.222
229.061
670.383
1999
24.555
44.187
135.952
21.262
21.304
71.340
95.159
309.384
723.247
2000
25.375
51.563
148.875
22.352
22.995
80.062
103.923
339.042
793.993
2001
25.689
51.756
151.169
23.389
24.268
89.626
113.569
349.458
832.158
2002
25.897
52.468
159.654
25.469
28.459
93.156
189.457
353.458
864.157
Nguồn Niên giám Nam Phi 2001 - 2002
3.2. Cơ cấu nền kinh tế :
Nam Phi là một nước rất giầu tài nguyên, khoáng sản, công nghiệp, nông nghiệp phát triểm có khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Nam Phi có thế mạnh về sản xuất hàng công nghiệp, điện năng, khai khoáng, dịch vụ, thương mại.
3.2.1/ Nông nghiệp:
Vị trí địa lý thuận lợi với bờ biển dài tới 3000km, đã tạo nên một khí hậu khá ôn hoà với 2 mùa mưa nắng, nhiệt độ trung bình từ 20-250C, hình thành nên một môi trường cho cây trái quanh năm xanh tốt. Nam Phi là một trong số không nhiều nước trên thế giới có nền nông nghiệp phát triển đa dạng sản phẩm như lúa mì, ngô, mía đường, thuốc lá, hạt hướng dương, hoa quả nhiệt đới... chẳng những đảm bảo được an ninh lương thực mà hàng năm còn xuất khẩu với một khối lượng đáng kể.
Riêng năm 2001, nông nghiệp đóng góp khoảng 3% vào GDP của Nam Phi và thu hút khoảng 9% lực lượng lao động. Hiện nay, Nam Phi không chỉ tự túc được về hầu hết các nông sản chủ yếu mà còn là một nhà xuất khẩu nông sản. Mặc dù nông nghiệp có xu hướng giảm tỷ trọng trong GDP, nhưng nông sản và nông sản chế biến đóng góp khoảng 4% kim ngạch xuất khẩu của Nam Phi khoảng trên dưới 1 tỷ USD/năm.
3.2.2/ Lâm nghiệp :
Nam Phi có ngành lâm nghiệp phát triển, tạo ra khoảng 280.000 việc làm, sản lượng hàng năm khoảng 24 triệu m3 gỗ, mang lại doanh thu hàng năm khoảng 2 tỷ USD. Ngành lâm nghiệp của Nam Phi sản xuất và cung cấp nhiều loại sản phẩm khác nhau, có thể đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
3.2.3/ Ngư nghiệp:
Nam Phi có trên 1500 km bờ biển trải dài, cung cấp hàng năm với lượng cá không nhỏ. Sản lượng cá đánh bắt hàng năm của Nam Phi khá cao, đạt trên 600.000 tấn (gần bằng khoảng 1% sản lượng đánh bắt của thế giới). Ngành này sử dụng tới trên 30.000 lao động với số đội tầu đánh cá lên tới 4000 chiếc.
Tuy nhiên, nhìn về tổng thể nền kinh tế, sản lượng của cả 3 ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp trên đây mới chỉ đóng góp khoảng 5% GDP.
3.2.4/Công nghiệp :
Công nghiệp khai khoáng:
Một điểm quan trong khi nói đến đất nước Nam Phi, đó là một trong những nước sản xuất và xuất khẩu khoáng sản lớn nhất thế giới và là nước có trữ lượng lớn nhất thế giới của nhiều loại khoáng sản như vàng, crôm, platin, vanadium, mangan... Ngoài ra, Nam Phi còn có trữ lượng quan trọng của nhiều loại khoáng sản khác, chủ yếu là than đá, uranium, kim cương, sắt, titan, flourit, niken, photphát.
Sau đây là những con số thống kê thể hiện tầm quan trọng của ngành công nghiệp khai khoáng Nam Phi đối với thế giới nói chung.
BẢNG: QUY MÔ SẢN XUẤT CỦA CÁC NGÀNH KHAI KHOÁNG CỦA NAM PHI VÀ THỨ HẠNG THẾ GIỚI
Tên khoáng sản
Đơn vị
Sản lượng
(năm 2002)
Tỷ lệ % trong tổng sản lượng toàn thế giới
Thứ hạng trên thế giới
Nhôm
Nghìn tấn
172
1
22
Nhôm-silicat
Nghìn tấn
188
32
1
Antimoan
Tấn
4 534
12
4
Asbestos
Nghìn tấn
104
4
7
Quặng Chrome
Nghìn tấn
3 600
37
1
Than đá
Nghìn tấn
195 800
6
4
Đồng
Nghìn tấn
173
2
13
Kim cương
Nghìn cara
10 324
10
5
Sắt-chrom
Nghìn tấn
1 104
35
1
Sắt-mangan
Nghìn tấn
662
10
3
Sắt-silicon
Nghìn tấn
99
3
6
Flourspar
Nghìn tấn
218
6
4
Vàng
Tấn
580
25
1
Quặng sắt
Nghìn tấn
32 300
3
8
Quặng-mangan
Nghìn tấn
2 851
12
3
Nicken
Nghìn tấn
30
3
7
Đá phosphat
Nghìn tấn
2 466
2
9
Kim loại nhóm Platin
Tấn
184
53
1
Kim loại silicon
Nghìn tấn
38
6
7
Bạc
Tấn
192
1
14
Khoáng titan
Nghìn tấn
751
20
2
Uran
Tấn
1 703
5
7
Vanadium
Tấn
27 948
51
1
Vermiculite
Nghìn tấn
214
43
1
Kẽm
Nghìn tấn
76
1
17
Khoáng zirconi
Nghìn tấn
240
30
2
Nguồn: Niên giám Nam Phi năm 2002
Công nghiệp chế tạo :
Tuy nhiên, những nguồn thu từ khoáng sản chỉ chiếm tỷ trọng đáng kể vào những năm 70, 80, vì từ thập niên 90 thì Nam Phi đã chuyển mạnh sang ngành công nghiệp chế tạo. Giá trị ngành mới này hiện chiếm trên 24% GDP (khoảng 40 tỷ USD), gấp hơn hai lần giá trị ngành khai khoáng.
Các sản phẩm cơ bản gồm :
Hoá chất.
Thực phẩm
Phương tiện giao thông vận tải
Sắt thép
3.2.5/ Đầu tư:
Cùng với sự gia tăng của quá trình toàn cầu hoá, đầu tư trực tiếp ở Nam Phi cũng phát triển một cách nhanh chóng.Từ năm 1995-1998, riêng 5 nước đầu tư lớn nhất ở Nam Phi đã chiếm tới 80% tổng lượng đầu tư (theo bảng). Trong đó, Mỹ được coi là nhà đầu tư khổng lồ. Từ năm 1994-1998, khối lượng đầu tư lên tới 14,3 tỷ rand. Tiếp đó, dù khủng hoảng tài chính tiền tệ xẩy ra ở Châu á, đi kèm theo n