Khi thị trƣờng chứng khoán tập trung đầu tiên của Việt Nam đi vào
hoạt động ngày 20 tháng 7 năm 2000 thì đã có một nghề mới đƣợc xuất
hiện, đó là nghề môi giới chứng khoán. Có thể nói một trong những đặc
trƣng của TTCK là hoạt động theo nguyên tắc trung gian, theo nguyên tắc
này các giao dịch trên TTCK bắt buộc phải đƣợc thực hiện qua các công ty
môi giới chứng khoán và nhân viên môi giới. Môi giới chứng khoán là một
trong những hoạt động nghiệp vụ đặc trƣng và cơ bản trong thị trƣờng
chứng khoán. Khác với nghề môi giới trong các lĩnh vực khác, môi giới
chứng khoán là một loại hoạt động chuyên nghiệp mang tính nhà nghề cao,
đòi hỏi phải có kỹ năng, nghiệp vụ, đạo đức, đồng thời đòi hỏi một môi
trƣờng hỗ trợ tƣơng đối phức tạp.
Cùng với sự ra đời cách đây chƣa lâu của TTCK Việt Nam, nghề
môi giới chứng khoán cũng đã hình thành và đang trên đà phát triển. Đây là
kết quả của nỗ lực nhằm rút ngắn khoảng thời gian cần thiết để tạo lập kênh
huy động vốn trung và dài hạn cho công cuộc tăng trƣởng kinh tế đất nƣớc.
Thị trƣờng tài chính phát triển ở trình độ cao là tiền đề để nghề môi giới
chứng khoán có thể đảm nhận tốt chức năng cung cấp các dịch vụ và sản
phẩ m tài chính. Tuy nhiên, khi trƣờng thị trƣờng tài chính còn phát triển ở
mức độ thấp, sự xuất hiện và phát triển của hoạt động môi giới chứng
khoán sẽ có tác động ngƣợc lại, trở thành một nhân tố thúc đẩy sự phát
triển và hoàn thiện của thị trƣờng chứng khoán nói riêng và thị trƣờng tài
chính nói chung. Chính vì thế, nghề môi giới chứng khoán cần đƣợc nhậ n
thức một cách đầy đủ từ mọi khía cạnh pháp lý, đạo đức, cá nhân và cộng
đồng, tích cực và tiêu cực để từ đó có thể hoạch định một chƣơng trình
xây dựng và phát triển nghề môi giới chứng khoán nhƣ một bộ phận quan
trọng của chiến lƣợc phát triển tổng thể ngành chứng khoán.
132 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2292 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Định hướng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA: KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
-----------------------------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGHỀ MÔI
GIỚI CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Nguyên Dung
Lớp : Anh 3
Khoá : K41A - KTNT
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Đình Thọ
Hà Nội, tháng 11 năm 2006
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Khi thị trƣờng chứng khoán tập trung đầu tiên của Việt Nam đi vào
hoạt động ngày 20 tháng 7 năm 2000 thì đã có một nghề mới đƣợc xuất
hiện, đó là nghề môi giới chứng khoán. Có thể nói một trong những đặc
trƣng của TTCK là hoạt động theo nguyên tắc trung gian, theo nguyên tắc
này các giao dịch trên TTCK bắt buộc phải đƣợc thực hiện qua các công ty
môi giới chứng khoán và nhân viên môi giới. Môi giới chứng khoán là một
trong những hoạt động nghiệp vụ đặc trƣng và cơ bản trong thị trƣờng
chứng khoán. Khác với nghề môi giới trong các lĩnh vực khác, môi giới
chứng khoán là một loại hoạt động chuyên nghiệp mang tính nhà nghề cao,
đòi hỏi phải có kỹ năng, nghiệp vụ, đạo đức, đồng thời đòi hỏi một môi
trƣờng hỗ trợ tƣơng đối phức tạp.
Cùng với sự ra đời cách đây chƣa lâu của TTCK Việt Nam, nghề
môi giới chứng khoán cũng đã hình thành và đang trên đà phát triển. Đây là
kết quả của nỗ lực nhằm rút ngắn khoảng thời gian cần thiết để tạo lập kênh
huy động vốn trung và dài hạn cho công cuộc tăng trƣởng kinh tế đất nƣớc.
Thị trƣờng tài chính phát triển ở trình độ cao là tiền đề để nghề môi giới
chứng khoán có thể đảm nhận tốt chức năng cung cấp các dịch vụ và sản
phẩm tài chính. Tuy nhiên, khi trƣờng thị trƣờng tài chính còn phát triển ở
mức độ thấp, sự xuất hiện và phát triển của hoạt động môi giới chứng
khoán sẽ có tác động ngƣợc lại, trở thành một nhân tố thúc đẩy sự phát
triển và hoàn thiện của thị trƣờng chứng khoán nói riêng và thị trƣờng tài
chính nói chung. Chính vì thế, nghề môi giới chứng khoán cần đƣợc nhận
thức một cách đầy đủ từ mọi khía cạnh pháp lý, đạo đức, cá nhân và cộng
đồng, tích cực và tiêu cực… để từ đó có thể hoạch định một chƣơng trình
xây dựng và phát triển nghề môi giới chứng khoán nhƣ một bộ phận quan
trọng của chiến lƣợc phát triển tổng thể ngành chứng khoán.
1
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu nghề môi giới chứng khoán cũng nhƣ phân
tích thực trạng nghề môi giới chứng khoán ở Việt Nam, đề tài “Định
hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán ở Việt Nam” có ý nghĩa
thiết thực cả về mặt lý luận và mặt thực tiễn, nhằm góp phần củng cố và
thúc đẩy nghề môi giới chứng khoán nói riêng và thị trƣờng chứng khoán
Việt Nam nói chung phát triển ổn định hơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận:
- Làm rõ bản chất của nghề môi giới chứng khoán qua việc phân tích
chức năng, bản chất, đặc trƣng và các loại môi giới chứng khoán cũng nhƣ
mâu thuẫn nội tại của nó trong nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn phát
triển ban đầu của thị trƣờng chứng khoán Việt Nam, từ đó phân tích vai trò
của nghề môi giới chứng khoán trong nền kinh tế nói chung và trên thị
trƣờng chứng khoán nói riêng.
- Xem xét cơ cấu tổ chức và vận hành của các công ty môi giới
chứng khoán; các kỹ năng cần thiết của ngƣời môi giới chứng khoán và
những chuẩn mực nghề nghiệp của họ với tƣ cách là những cá nhân hành
nghề, đặt trong xu hƣớng phát triển của thế giới hiện đại.
- Đánh giá thực trạng thị trƣờng chứng khoán Việt Nam và nghề môi
giới chứng khoán của Việt Nam trong giai đoạn đầu hoạt động.
- Đề xuất một số giải pháp cho việc xây dựng và phát triển nghề môi
giới chứng khoán ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:
Khoá luận nghiên cứu nghề môi giới chứng khoán nói chung, đồng
thời nghiên cứu thực trạng nghề môi giới chứng khoán ở Việt Nam nhằm
tìm ra một hƣớng phát triển cho nghề môi giới chứng khoán Việt Nam
trong thời gian tới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
2
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
Khoá luận sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu lý luận, phân tích,
so sánh để rút ra đƣợc các đánh giá, nhận xét tổng quát và đƣa ra các nhận
định, kiến nghị nhằm xây dựng và phát triển nghề môi giới chứng khoán
Việt Nam.
5. Bố cục khoá luận:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận đƣợc bố cục thành ba chƣơng:
Chƣơng 1. Tổng quan về nghề môi giới chứng khoán
Chƣơng 2.Thực trạng hoạt động môi giới chứng khoán ở Việt
Nam hiện nay
Chƣơng 3. Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán
ở
Việt Nam
Do những hạn chế về thời gian và nguồn tài liệu nên khóa luận
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Những khuyến nghị đƣa ra chắc chắn
còn nhiều khiếm khuyết và chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của ngƣời đọc. Vì
vậy, ngƣời viết rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp của các thầy cô và bạn
đọc để khóa luận đƣợc hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Đình Thọ đã tận tình hƣớng
dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận tốt
nghiệp của mình.
3
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGHỀ MÔI GIỚI
CHỨNG KHOÁN
I. VÀI NÉT VỀ NGHỀ MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN
1. Khái quát về thị trƣờng chứng khoán
1.1. Khái niệm và chức năng của thị trƣờng chứng khoán
1.1.1. Khái niệm thị trƣờng chứng khoán
Trong xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa ngày càng phát triển nhƣ hiện
nay, TTCK đã trở thành một yếu tố căn bản, không thể thiếu đƣợc của một
nền kinh tế hiện đại. TTCK đã và đang trở thành một định chế tài chính
quan trọng nhất đối với những nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển. Về
định nghĩa TTCK thì từ trƣớc tới nay cũng có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về TTCK.
Theo tiếng Latin, TTCK có nghĩa là BURSA hay còn gọi là “sở giao
dịch chứng khoán”, nghĩa đen là ví đựng tiền, là một tổ chức hoạt động có
điều khiển. Theo chữ Hán, TTCK là giao dịch sở, sở có nghĩa là nơi chốn,
còn giao dịch có nghĩa là mua bán, đổi chác.
Từ điển Longman Dictionary of Business English, năm 1985, định
nghĩa TTCK nhƣ sau: “An organized market where securites are bought
and sold under fixed rules1”, dịch sang tiếng Việt có nghĩa là “TTCK là
một thị trƣờng có tổ chức, là nơi mà các chứng khoán đƣợc mua và bán
theo những nguyên tắc nhất định”. Cũng theo The America Heritage
Dictionary of the English Languahe, Dell, 1971, trong tiếng Anh, thì
securites có nghĩa là written evidence of ownership, có nghĩa tiếng Việt là
“chứng từ sở hữu bằng văn bản”2
Tuy nhiên trong đời sống hàng ngày thì TTCK đã thoát ly định nghĩa
ban đầu và có thêm nhiều nội dung mới. “TTCK là một thị trƣờng mà ở
1 Longman Dictionary os Business English, 1985
2 The American Heritage Dictionary of the English Language, Dell, 1971, T.633
4
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
nơi đó ngƣời ta mua bán chuyển nhƣợng, trao đối chứng khoán nhằm
mục đích kiếm lời”3.
Nghị định 48/CP – NĐ ngày 11/7/1998, khoản 19 điều 2, quy định: “
Thị trƣờng giao dịch tập trung là địa điểm hoặc hệ thống thông tin, tại đó
các CK đƣợc mua bán hoặc là nơi tham khảo để thực hiện các giao dịch
chứng khoán”4
1.1.2 Chức năng chủ yếu của TTCK
TTCK có các chức năng chủ yếu sau:
Thứ nhất, TTCK là một kênh huy động vốn đầu tƣ hiệu quả cho nền
kinh tế. Khi các nhà đầu tƣ mua chứng khoán của các tổ chức phát hành,
điều đó có nghĩa là số tiền nhàn rỗi của họ đƣợc huy động và sử dụng để
đầu tƣ cho các hoạt động sản xuất cũng nhƣ kinh doanh dịch vụ, điều này
giúp phần quan trọng trong việc phát triển đầu tƣ cho cở sở hạ tầng và xây
dựng cơ sở vật chất kinh tế xã hội góp phần phát triển nền kinh tế.
Thứ hai, TTCK cung cấp môi trƣờng đầu tƣ cho công chúng thông
qua TTCK, các nhà đầu tƣ có thể lựa chọn một loại hình chứng khoán phù
hợp để đầu tƣ nhằm nâng cao hiệu quả đầu tƣ và thu lợi nhuận.
Thứ ba, TTCK tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Nhờ
có TTCK mà các nhà đầu tƣ có thể chuyển cổ phiếu họ đang sở hữu thành
tiền mặt hoặc các loại chứng khoán một cách dễ dàng. TTCK càng hoạt
động hiệu quả càng nâng cao đƣợc tính thanh khoản của các loại chứng
khoán và thu hút càng nhiều nhà đầu tƣ tham gia thị trƣờng.
Thứ tƣ, TTCK là thƣớc đo đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp đƣợc phản ánh một cách tổng hợp và
chính xác trên TTCK. Điều này tạo môi trƣờng cạnh tranh giữa các doanh
3 GS. NGƢT Đinh Xuân Trình và PGS.TS. Nguyễn Thị Quy, “Giáo trình thị trƣờng chứng khoán” của
Trƣờng ĐH Ngoại Thƣơng, NXB Giáo Dục, T.8
4 Nghị định số 48/ 1998/ NĐ - CP ngày 11/ 7/ 1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trƣờng chứng
khoán
5
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
nghiệp, là động lực cho doanh nghiệp phát triển. Các doanh nghiệp vì vậy
phải luôn nỗ lực, đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lƣợng hoạt động,
nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng.
Thứ năm, TTCK giúp cho chính phủ thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh
tế. Chúng ta có thể thấy rằng TTCK với tính nhạy cảm vốn có, thì những
động thái trên TTCK phản ánh các biến động của nền kinh tế, qua đó chính
phủ có thể đƣa ra các quyết định nhanh chóng và hợp lý. Thông qua TTCK
thì chính phủ có thể mua bán các loại trái phiếu, điều chỉnh cán cân ngân
sách, điều tiết lƣợng cung tiền và quản lý lạm phát.
1.2 Các chủ thể tham gia TTCK
1.2.1 Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện việc huy động vốn thông qua
thị trƣờng chứng khoán bằng cách phát hành và bán các CK trên thị trƣờng
sơ cấp, nhƣ cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tƣ… “Tổ chức phát
hành là tổ chức thực hiện việc phát hành chứng khoán ra công chúng”.5
Nhà phát hành là ngƣời cung cấp chứng khoán - hàng hoá của TTCK. Nhà
phát hành chứng khoán có thể là chính phủ, các cơ quan chính phủ, các tổ
chức tài chính, các doanh nghiệp và các công ty cổ phần. Trong đó nhà phát
hành ở Việt Nam chủ yếu là chính phủ và các công ty cổ phần.
Chính phủ và chính quyền địa phƣơng là nhà phát hành các trái phiếu
chính phủ và trái phiếu địa phƣơng. Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu
và trái phiếu công ty. Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài
chính nhƣ các trái phiếu, chứng chỉ thụ hƣởng… phục vụ cho hoạt động
của họ.
1.2.2 Nhà đầu tƣ
Đầu tƣ chứng khoán chỉ là việc bỏ vốn, tiền tệ ra mua chứng khoán
để kiếm lời, việc kiếm lời trong đầu tƣ chứng khoán có thể là do thu nhập
5 Luật chứng khoán 22 tháng 6 năm 2006, điểu6 khoản 13
6
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
từ cổ tức, trái tức, nhƣng cũng có thể là từ chênh lệch giá do kinh doanh
chứng khoán đem lại.
Nhà đầu tƣ chứng khoán là những ngƣời có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền
đầu tƣ vào TTCK bằng cách thực sự mua các CK đang đƣợc phát hành trên
TTCK nhằm hƣởng lãi và lợi nhuận. Có thể chia nhà đầu tƣ chứng khoán
thành hai loại đó là:
Nhà đầu tƣ cá nhân: nhà đầu tƣ cá nhân chính là công chúng, là
khối lƣợng công chúng đông đảo có thể cung cấp một lƣợng tiền tệ rất lớn,
từ những nguồn thu nhập thƣờng xuyên của mình. Đầu tƣ từ công chúng là
một nguồn cung cấp rất quan trọng và có xu hƣớng ngày càng gia tăng
cùng với sự tăng trƣởng GDP của mỗi quốc gia.
Các tổ chức đầu tƣ: các quỹ hƣu bổng, quỹ tƣơng hỗ, các công ty
bảo hiểm, các ngân hàng thƣơng mại, các công ty đầu tƣ quốc gia, các quỹ
tài chính công, các quỹ bảo hiểm xã hội, các quỹ cứu trợ…Đây là những
nhà đầu tƣ có tiềm lực tài chính dồi dào, có kinh nghiệm và có những ảnh
hƣởng không nhỏ đến hoạt động của thị trƣờng chứng khoán.
Ở Việt Nam, “nhà đầu tƣ là tổ chức cá nhân Việt Nam và tổ chức cá
nhân nƣớc ngoài tham gia đầu tƣ trên TTCk”6
1.2.3 Các trung gian chứng khoán
Trung gian là đƣa đƣờng dẫn lối để hai bên có thể gặp nhau. Nhà trung
gian chứng khoán có thể với tƣ cách là: nhà trung gian cá nhân hay các tổ
chức trung gian (pháp nhân) nhƣ các công ty chứng khoán.
Vai trò chủ yếu của nhà trung gian chứng khoán là: kinh doanh, môi
giới và bảo lãnh chứng khoán. TTCK hoạt động hiệu quả một phần là nhờ
sự thực hiện tốt vai trò của các trung gian chứng khoán. Hầu hết các công
ty chứng khoán đều vừa có hoạt động môi giới vừa có hoạt động kinh
6 Luật chứng khoán ngày 22 rháng 6 năm 2006, điều 6 khoản 10
7
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
doanh chứng khoán, tuy nhiên trong giao dịch để đảm bảo tính trung thực,
công bằng và uy tín của ngành, hai hoạt động này đƣợc lƣu ý tổ chức và
giám sát tách bạch.
1.2.4 Ngƣời quản lý, giám sát và điều chỉnh hoạt động của TTCK
Là ngƣời có nghĩa vụ đảm bảo cho TTCK hoạt động theo đúng các
quy định của pháp luật, nhằm đảm bảo cho việc mua bán chứng khoán trên
thị trƣờng diễn ra một cách công khai, công bằng, tránh những yếu tố tiêu
cực có thể xảy ra, từ đó bảo vệ lợi ích cho những ngƣời đầu tƣ.
Vai trò quản lý, giám sát và điều chỉnh hoạt động của TTCK thuộc về
nhà nƣớc. Để thực hiện vai trò này, phải hình thành một cơ quan quản lý
giám sát và điều chỉnh thị trƣờng – cơ quan đó gọi là hội đồng chứng khoán
quốc gia (mà ở nƣớc ta gọi là Ủy Ban Chứng Khoán Quốc Gia). Thành
viên của cơ quan này thƣờng là những quan chức của: Bộ tài chính, ngân
hàng trung ƣơng, Bộ thƣơng mại, Bộ tƣ pháp và đại diện của sở giao dịch
chứng khoán.
II. NGHỀ MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN
1. Nghề môi giới chứng khoán là gì?
1.1 Thế nào là môi giới chứng khoán
Có thể nói, hoạt động MGCK là hạt nhân của TTCK, hoạt động
MGCK phát triển sẽ tạo đà phát triển cho TTCK. Điều này bắt nguồn từ
nguyên tắc chủ đạo đối với hoạt động của TTCK là chỉ dựa vào các hoạt
động giao dịch đƣợc cấp phép giữa những ngƣời trung gian làm nghề
MGCK. Luật Chứng Khoán Việt Nam 2006 định nghĩa MGCK nhƣ sau:
“Môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực
hiện việc mua bán chứng khoán cho khách hàng” 7
MGCK là một hoạt động kinh doanh CK trong đó một công ty CK đại
diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở
7 Luật chứng khoán ngày 22 tháng 6 năm 2006, điều 6 khoản 20
8
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
giao dịch chứng khoán hay thị trƣờng OTC mà chính khách hàng sẽ phải
chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.[ 8]
Với cách tiếp cận nhƣ vậy, ngƣời môi giới chứng khoán, hiểu theo
nghĩa rộng, là những ngƣời trung gian mua bán CK cho khách hàng để
hƣởng hoa hồng; trung gian mua bán CK bằng vốn của mình; và là ngƣời
bảo lãnh phát hành cho những tổ chức phát hành CK. Đó có thể là các tổ
chức tài chính quốc doanh, hoặc tổ chức tài chính thuộc khu vực kinh tế tƣ
nhân với hai hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Ở Việt Nam, khái niệm MGCK còn khá mới mẻ, nhiều ngƣời vẫn coi
môi giới chứng khoán nhƣ một loại trung gian, hay một loại “cò” nhƣ là cò
nhà, cò đất, cò xe... mà không hiểu bản chất của Môi giới chứng khoán là
một tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc nhất định. Để trở thành một nhà
MGCK giỏi, có tiếng tăm và có nhiều khách hàng chỉ có thể làm đƣợc
nếu nhƣ khách hàng của nhà môi giới đó thu đƣợc nhiều lợi nhuận. ở các
TTCK có tổ chức, các nhà MGCK không hoạt động với tƣ cách cá nhân
độc lập. Mỗi cá nhân ngƣời MGCK dù hoạt động trong lĩnh vực nào cũng
thƣờng đại diện cho công ty chứng khoán. Vì vậy, các công ty chứng khoán
phải chọn ngƣời môi giới có phẩm chất đạo đức, có kiến thức chuyên môn
về TTCK nói chung và về MGCK nói riêng.[ 9]
Có thể nói việc hình thành và phát triển nghề môi giới chứng khoán là
một tất yếu khi TTCK phát triển ở trình độ cao, khi sản phẩm và dịch vụ
ngày càng đa dạng về số lƣợng và phong phú về chủng loại. Khi đó nhà đầu
tƣ sẽ ngày càng cần hơn những ngƣời môi giới có thể cung cấp cho họ
những thông tin cần thiết, những ý tƣởng đầu tƣ mới mẻ, những lời khuyên
mang tính chiến lƣợc và giúp cho họ đầu tƣ theo hƣớng có hiệu quả nhất.
Từ yêu cầu thực tế đó, đòi hỏi hoạt động môi giới chứng khoán phải phát
8 PTS. Đinh Xuân Hạ, “Quản lý và các nghiệp vụ giao dịch trên thị trƣờng chứng khoán”, NXB Thống
kê, Hà Nội 1999, T. 328
9 Bùi Nguyên Hoàn, “Thị trƣờng chứng khoán và các công ty cổ phần”, NXB Chính trị quốc gia, năm
2001, T. 101
9
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
triển ở trình độ cao, mang tính chuyên nghiệp, nói cách khác là trở thành
nghề môi giới chứng khoán. Nhƣ vậy, có thể hiểu nghề môi giới chứng
khoán là hoạt động nghiệp vụ trong sự tƣơng tác giữa công ty môi giới, nơi
cung cấp phƣơng tiện vật chất, tổ chức và pháp lý, và nhân viên môi giới,
ngƣời trực tiếp giao dịch với khách hàng.
1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của nghề môi giới chứng khoán
Nghề môi giới chứng khoán xuất hiện trƣớc đây khá lâu, lâu hơn nghề
tƣ vấn tài chính độc lập chuyên về hoạt động bảo hiểm rất nhiều. Ngay từ
trƣớc năm 1773 năm mà TTCK đƣợc hình thành, những ngƣời môi giới đã
tiến hành giao dịch cổ phiếu của các công ty tại các quán cafê của Anh.
Khi nhu cầu tài chính tăng lên, việc giao dịch các tài sản tài chính thƣờng
diễn ra trong các phòng trà trƣớc khi Sở giao dịch chứng khoán London
đƣợc thành lập. Tài sản tài chính ở đây chủ yếu là các cổ phiếu. Các công
ty thu hút vốn đầu tƣ bằng cách phát hành cổ phiếu và bán ở Sở giao dịch
chứng khoán. Trong khi đó, các nhà đầu tƣ chứng khoán thì kiếm tiền bằng
cách bán cổ phiếu ở mức giá cao hơn mức họ mua vào. Ban đầu, Sở giao
dịch chứng khoán London vận hành dựa vào hai đối tƣợng là các nhà môi
giới (stockbroker) và những ngƣời chạy việc (jobber). Những ngƣời chạy
việc chạy quanh sàn giao dịch để mua và bán cổ phiếu cho các nhà môi
giới. Họ kiếm tiền bằng khoản chênh lệch giữa mức mà nhà môi giới đồng
ý bỏ ra để mua cổ phiếu với mức mà họ mua vào. Trong khi các nhà môi
giới kiếm tiền bằng khoản phí hoa hồng họ đƣợc trả khi tiến hành giao dịch
mua bán cổ phiếu cho các nhà đầu tƣ.
Hệ thống vận hành nói trên của Sở giao dịch chứng khoán London
không thay đổi suốt từ những năm 1800 cho đến những năm 1980. Nhu cầu
sở hữu cổ phiếu của công chúng bắt đầu tăng lên. Các con số thống kê cho
thấy nếu những năm 1960, 30 tổ chức tài chính nắm giữ hầu hết các cổ
phiếu giao dịch trên thị trƣờng thì đến năm 1981 họ chỉ còn chiếm 58%
lƣợng cổ phiếu. Mà nhƣ thế nghĩa là Sở giao dịch chứng khoán London
10
Định hƣớng phát triển nghề môi giới chứng khoán tại việt Nam
phải giải quyết một khối lƣợng lớn các giao dịch. Thực tế nhƣ vậy đòi hỏi
Sở giao dịch chứng khoán London phải thay đổi lại cách thức hoạt động.
Những ngƣời chạy việc-jobber- đƣợc phép mua và bán chứng khoán nhƣ
các nhà môi giới trong khi vẫn có thể tiếp tục làm việc cho các nhà môi
giới. Nhờ thế mà có thể giải quyết đƣợc số lƣợng giao dịch ngày càng tăng.
Nghề môi giới chứng khoán phát triển không đồng đều giữa các quốc
gia và ở mỗi quốc gia, quá trình phát triển nghề môi giới lại có sự khác
biệt. Ở Mỹ, vào ngày 17/05/1792 tại New York, một nhóm gồm 24 ngƣời
đã ký một hiệp định thoả thuận chỉ bán chứng khoán cho ngƣời trong nhóm
và đƣa ra mức hoa hồng cố định là 1 USD. Đến năm 1863, các thành viên
trong nhóm này – Uỷ ban giao dịch chứng khoán New York- chuyển hoạt
động đến nơi mà ngày nay chính là Sở giao dịch chứng khoán New York.
Khi cuộc cách mạng công nghiệp nổ ra, Wall Street trở nên nhộn nhịp
hơn với các hoạt động mua bán chứng khoán. Chứng khoán đƣợc mua đi
bán lại bởi những ngƣời không phải là thành viên trong Uỷ ban, và diễn ra
ngay trên đƣờng phố vì rất ít ngƣời có đủ khả năng tài chính để mở văn
phòng. Những ngƣời này đƣợc gọi là các “nhà môi giới đá lát đƣờng”-
Curbstone stockbrokers.
Nghề môi giới chứng khoán ở Mỹ cũng bắt đầu phát triển mạnh kể từ
đó. Thị trƣờng mua bán mà những ngƣời môi giới này tạo nên gọi là “thị
trƣờng lề đƣờng” – Curb M