Khóa luận Đoàn giỏi – Những đặc trưng phong cách

Không có sự vật nào tồn tại mà không có kết cấu. Ngoài sự quy định về mặt hình thức, mỗi kết cấu còn tạo nên giá trị khác nhau của sự vật. Cái đẹp cũng từ đó được đem lại. Nếu từ bột mì, trứng, bơ và sữa, người thợ bánh làm ra nhiều loại bánh khác nhau thì trong văn chương, tuy cùng hiện thực phản ánh nhưng giá trị của mỗi tác phẩm, mỗi tác giả hoặc các thể loại khác nhau thì khác nhau. Kết cấu, với tác phẩm văn học do đó cũng giữ vai trò quan trọng: là cơ sở hình thức đồng thời là cách thể hiện và bao quát nội dung của tác giả. Với văn bản nghệ thuật ngôn từ, kết cấu có hai bình diện. Kết cấu bên ngoài (kết cấu văn bản trần thuật) được thể hiện qua bố cục của tác phẩm (đầu, giữa, cuối) hay các phiến đoạn nghệ thuật (chương, đoạn, khổ) và kết cấu bên trong (kết cấu hình tượng) bao gồm sự tổ chức hệ thống nhân vật, hệ thống tình tiết – sự kiện trong khung không gian thời gian nghệ thuật qua đó làm nổi rõ giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

pdf50 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2878 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đoàn giỏi – Những đặc trưng phong cách, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khóa luận khoa văn học ĐOÀN GIỎI – NHỮNG ĐẶC TRƯNG PHONG CÁCH DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục tiêu và nhiệm vụ 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6. Đóng góp mới của đề tài 7. Kết cấu của đề tài CHƯƠNG 1. ĐOÀN GIỎI, CUỘC ĐỜI VÀ VĂN NGHIỆP 1.1 Cuộc đời nhà văn Đoàn Giỏi 1.2 Sự nghiệp sáng tác 1.3 Văn xuôi Đoàn Giỏi, nhìn từ vốn sống và cảm hứng nghệ thuật 1.4 Đoàn Giỏi, dòng riêng giữa nguồn chung CHƯƠNG 2. CÁC PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ TRONG VĂN XUÔI ĐOÀN GIỎI 2.1 Không gian nghệ thuật 2.1.1 Không gian lịch sử 2.1.2 Không gian thách thức 2.1.3 Không gian chung sống 2.1.4 Không gian tâm tưởng 2.2 Cách thức tổ chức thời gian nghệ thuật 2.3 Thủ pháp xây dựng nhân vật 2.3.1 Từ ngoại hình đến tính cách 2.3.2 Hành động và những biểu hiện của nhân cách 2.3.3 Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật 2.4 Ngôn từ nghệ thuật trong văn xuôi Đoàn Giỏi 2.4.1 Ngôn ngữ đậm màu sắc địa phương 2.4.2 Sắc thái ngôn ngữ qua đối tượng phản ánh *Tiểu kết CHƯƠNG 3. ĐOÀN GIỎI – NHỮNG ĐẶC TRƯNG PHONG CÁCH 3.1 Văn xuôi Đoàn Giỏi nhìn từ phương diện kết cấu 3.2 Chất thơ trên trang viết 3.2.1 Thơ và chất thơ 3.2.2 Dòng chảy của cảm xúc 3.2.3 Những khúc đoạn trong trẻo và ngọt ngào của cuộc sống 3.3 Hệ thống biểu tượng trong các tác phẩm của Đoàn Giỏi 3.3.1 Hình ảnh con dao và ngọn tầm vông trong tâm thức người Nam bộ 3.3.2 Sức sống người phương Nam qua cây đước, cây mắm 3.4 Thế giới cổ tích và huyền thoại qua một vài tác phẩm *Tiểu kết KẾT LUẬN................................................................................................................................ 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC................................................................................................................................... 106 [1] Chiếc sào phơi (Lê Giang): Lũ giặc đến làng ta/ Rồi cuộc sống gọi người đi chiến đấu/ Chiếc sào phơi làm vũ khí – tầm vông. 3.1 Văn xuôi Đoàn Giỏi nhìn từ phương diện kết cấu Không có sự vật nào tồn tại mà không có kết cấu. Ngoài sự quy định về mặt hình thức, mỗi kết cấu còn tạo nên giá trị khác nhau của sự vật. Cái đẹp cũng từ đó được đem lại. Nếu từ bột mì, trứng, bơ và sữa, người thợ bánh làm ra nhiều loại bánh khác nhau thì trong văn chương, tuy cùng hiện thực phản ánh nhưng giá trị của mỗi tác phẩm, mỗi tác giả hoặc các thể loại khác nhau thì khác nhau. Kết cấu, với tác phẩm văn học do đó cũng giữ vai trò quan trọng: là cơ sở hình thức đồng thời là cách thể hiện và bao quát nội dung của tác giả. Với văn bản nghệ thuật ngôn từ, kết cấu có hai bình diện. Kết cấu bên ngoài (kết cấu văn bản trần thuật) được thể hiện qua bố cục của tác phẩm (đầu, giữa, cuối) hay các phiến đoạn nghệ thuật (chương, đoạn, khổ) và kết cấu bên trong (kết cấu hình tượng) bao gồm sự tổ chức hệ thống nhân vật, hệ thống tình tiết – sự kiện trong khung không gian thời gian nghệ thuật qua đó làm nổi rõ giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Khi thác văn xuôi Đoàn Giỏi trên phương diện kết cấu, chúng tôi tập trung phân tích ở bình diện thứ hai, chủ yếu về phương thức tổ chức tình tiết – sự kiện. Tùy vào nội dung phản ánh, đặc trưng thể loại hay tác giả sáng tác, truyện có thể có một hay nhiều tình tiết. Tình tiết là các sự kiện và biến cố. Hệ thống tình tiết vì vậy có ý nghĩa quan trọng trong sự hình thành và phát triển cốt truyện. Sức sống của sáng tác ngôn từ có một phần không nhỏ những đóng góp của yếu tố này “tác phẩm hay ngoài ý tưởng sâu sắc, nhân vật điển hình… còn cần phải sáng tạo được hệ thống tình tiết độc đáo và mới lạ” [20; 99]. Tái tạo lại trong diễn ngôn một chuỗi hành động cho hấp dẫn và sinh động, ngoài việc nắm bắt các quy luật phát triển nội tại của hiện tượng, nhà văn không thể bỏ qua những thủ pháp kỹ thuật. Sự lựa chọn có tính “chiến lược” này trong các tác phẩm văn xuôi thường được tìm thấy trong đoạn mở đầu. Cuộc truy tầm kho vũ khí của Đoàn Giỏi là một điển hình. “Cuộc họp kéo dài đã quá nửa đêm. Người cần vụ già rón rén bước đến bên bàn, châm thêm dầu vào ngọn đèn bão rồi lặng lẽ quay ra. Như một cái bóng, bác ta lại im lặng đứng về chỗ cũ, bên trong cánh cửa khép hé, chiếu xuống một cầu thang tre. Gian phòng họp trên ngôi nhà gác lợp tranh, ngột ngạt mùi khói thuốc lá, sáng bừng lên theo ngọn lửa cháy rực hình búp sen như cắt bằng một mảnh lụa đỏ, rung rung trong chiếc bóng thủy tinh. Gần hai mươi cán bộ quân sự đủ các cấp thuộc trung đoàn Mười cũ được triệu tập về đây, họp luôn ba ngày rồi mà vấn đề đặt ra vẫn chưa đi đến kết luận. Họ đang ngồi trầm ngâm chung quanh chiếc bàn gỗ mộc bừa bộn đủ các thứ giấy má, chờ nghe ý kiến của đồng chí thành ủy” [49; 679]. Bắt đầu bằng một không khí căng thẳng, nặng nề và những con người đầy âu lo, mệt mỏi, lối dẫn dắt của Cuộc truy tầm kho vũ khí thật sự ấn tượng. Hơn nữa việc tạo nên một tình huống “có vấn đề” ngay từ những dòng đầu truyện như vậy với tác phẩm có ý nghĩa như một nút thắt mà những diễn biến sau đó của mạch truyện là sự gỡ nút. Không giàu kịch tính như Cuộc truy tầm kho vũ khí song câu chuyện trong truyện ký Trần Văn Ơn cũng được tác giả dẫn ra với nhiều độ căng từ bối cảnh: Sài Gòn – Chợ Lớn những ngày giặc Pháp tái chiếm “Những tháng gần đây, một thứ không khí nơm nớp đầy đe dọa bao phủ khắp các học đường Sài Gòn – Chợ Lớn… Hầu hết các giáo sư, sau những giờ tan lớp đều nhanh chóng lặng lẽ ra về. Suốt dọc dài những hành lang thăm thẳm, chỉ trông thấy những cái bóng âm thầm cắm cúi bước mau… Từ trên cao các khung cửa sổ tối om, thấp thoáng bóng dáng anh em học sinh nội trú vừa trở về buồng. Họ đều như lắc lư trong dáng điệu mệt mỏi và chán ngán. Nhiều người tì tay vào cằm đứng ngó ra đường, gương mặt lầm lì trong điệu bộ bình thản tẻ ngắt vốn quen thuộc hầu như không còn ai chú ý” [39; 60]. Cái ồn ào, náo nhiệt của thành phố lúc này như chết lặng, nhường chỗ cho sự im lìm đến đáng sợ. Trong quang cảnh ngột ngạt gần như tức thở ấy, dường như báo trước với chúng ta tất sẽ có một điều gì đó bất thường gây chấn động sẽ xảy ra. Bên cạnh hiệu ứng thẩm mỹ, tình tiết khai đoan tuy quan trọng nhưng chưa phải là yếu tố quyết định đối với mạch vận động cốt truyện. Các sự kiện, biến cố mới chính là những yếu tố chi phối đến quá trình phát triển đó. Sau khi tìm được Dũng và Ninh – hai người còn lại trong chiến dịch Là Ngà 1948 còn nắm được những thông tin về con đường đến kho vũ khí số 5, phòng chính trị của trung đoàn Mười mặt trận miền Đông Nam bộ 1952 đã phái đi một tiểu đội gồm mười người, hy vọng sớm tìm ra mục tiêu. Ngay từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc, cuộc hành trình của đội quân truy tầm đã vượt qua vô vàn gian nan và trắc trở. Trong 142 trang truyện, hiện thực ấy được Đoàn Giỏi xây dựng rất nhiều những biến cố khác nhau. Mỗi biến cố với nhân vật là một thách thức, thách thức cần sự chiến thắng. Chiến thắng trước âm mưu của bọn giặc, trước sự đe dọa của thiên nhiên và cả với chính mình. Nếu như ba ngày đầu chuyến đi trôi qua trong thuận lợi thì đến ngày thứ tư, khó khăn đến với Ninh và anh em khi họ phải vượt qua vùng địch kiểm soát và bất ngờ bị phục kích “Trong con đường ngoằn nghèo từ hông rừng bên trái, một toán giặc mặc quần áo ka-ki vàng hực chạy ra. Ba bốn loạt súng máy nổ rền liên tiếp… Tiểu đội không kịp bắn lại. Ninh dắt anh em chạy vượt lên. Chị Năm vướng chân vào bụi gai mắc cỡ ngã quỵ xuống. Dũng dừng lại kéo chị dậy, đẩy chạy tới. Giữa lúc Dũng vừa chớm chân, bỗng nghe nhói một cái dưới gót” [49; 703]. Dũng bị thương và lạc dấu đồng đội, đây là biến cố đầu tiên và đồng thời là biến cố có ảnh hưởng lớn nhất đến toàn bộ thiên truyện: đội quân truy tầm mất đi một người dẫn đường quan trọng nhất, Dũng rơi vào tay giặc ở trạm dân y vì không kịp chạy thoát. Càng trớ trêu hơn khi anh gặp lại Khả, tên phản bội cách mạng bắt anh phải làm chỉ điểm cho địch và bị bêu rếu là đầu hàng chính phủ quốc gia. Không được minh oan với anh em, càng không thể thoát ra vòng kìm kẹp của địch, Dũng chấp nhận đưa chúng đi đến kho vũ khí với những dự toán riêng cho một cuộc chạy trốn. Khó khăn nối tiếp khó khăn, trước mắt đội quân truy tầm luôn là những chặng đường đầy vất vả. Con đường đến với kho 5 thật không dễ dàng. Bởi vậy nếu không có ý chí, bản lĩnh và sự quyết tâm, đội quân truy tầm khó có thể vượt qua tất cả. Khéo léo “thôi miên” người đọc vào câu chuyện được kể bằng sự dồn đuổi liên tục của hoàn cảnh, Đoàn Giỏi đồng thời tạo được “dung môi” cho các nhân vật thử nghiệm và “bung mình”. Đoạn tìm đường trở lại ngã ba Xoài Cóc của đội quân truy tầm trong những ngày mưa mịt mù nơi núi rừng hoang vắng là một minh chứng “Mưa ào ào giội nước ngày đêm xuống những rừng tre gai góc bịt bùng. Anh em trong đội đã có một vài người thấm mệt nhưng tất cả đều cố gắng đi tới. Họ lội đi như vậy có khi hàng bốn năm ngày không thấy ánh mặt trời. Trong cái đại dương mênh mông một sắc lá cây không thể dò này, mặt trời là cực duy nhất để con người tìm ra phương hướng. Nhưng họ không thấy mặt trời đâu cả” [49; 727]. Mỗi biến chuyển là một trở ngại, thiên nhiên như chỉ muốn ngấu nát họ qua từng bước đi có thể. Hành trình vượt thoát của Ninh và tám đồng chí đến sông Xoài Cóc từ rừng thẳm mênh mông quả thật không đơn giản. Sự kiện và biến cố là những biểu hiện của việc xây dựng tình tiết truyện, song giá trị nghệ thuật của tình tiết trong tác phẩm không dừng lại ở sự sắp xếp, bố trí. Trong tương quan giữa kể và tả, bên cạnh tính chất gợi hình của ngôn ngữ không gian, nhịp điệu trần thuật cũng tạo nên sự vận động của truyện. Trên trời mây đen vần vũ, phía trước dòng thác kinh hoàng, bên dưới, cơn lũ gầm rít, tình thế đầy hiểm nguy khi chiếc bè của đội quân xuôi sông có sự kết hợp cả hai yếu tố đó: “Mây đen cuồn cuộn bay lướt trên ngọn cây đe dọa một cơn giông khủng khiếp kéo tới đè sập xuống đầu mọi người. Và điều đó họ đã không tránh khỏi. Một tiếng sét nổ chát tai như xé toạc lớp mây dày, tuôn xuống cả một biển nước lơ lửng trên tầng cao… Thình lình mọi người nghe Ninh hét lên một tiếng khủng khiếp. Trước mắt họ vài ngàn thước, mặt sông bỗng như bị một lưỡi dao vô hình khổng lồ chặt ngang, biến mất. - Buộc dây an toàn vào người. Gặp thác đằng kia rồi! Chiếc bè lao như một mũi tên, dần dần chúi xuống và bất thình lình đổ ụp một cái. Chị Năm rú lên một tiếng thất thanh, nhắm hai mắt lại. Nước trút chiếc bè quay lộn, từ trên hơn mười thước cao ném xuống. Tất cả mọi người bị hất văng ra khỏi bè, dìm trong bọt sóng sôi réo sùng sục” [49; 734]. Như một thước phim quy chậm, ông ghi lại từng hành động, cử chỉ của nhân vật trong những chuyển dịch nhỏ nhất. Xu hướng cô đọng về mặt thời gian khi tả về những tình cảnh nguy biến vì vậy luôn tạo được những độ căng nhất định trong truyện Đoàn Giỏi. Độ căng đó ngoài tính hấp dẫn, với nhân vật còn thể hiện được sự dồn đuổi không ngừng qua mỗi bước đi. Song đó chưa phải là tất cả sức ép với đội quân truy tầm trên đường tìm kiếm kho vũ khí. Gây cấn và hồi hộp, không khí tấn công, truy đuổi và ứng phó trong cuộc chạm trán giữa hai phe được tác giả dàn trải qua 76 trang văn đầy kịch tính. Đặt nhân vật vào hoàn cảnh tới hạn, nhà văn Đoàn Giỏi để họ được thể hiện mình một cách tự nhiên song rất đỗi chân thực. Truyện ký Chim bay trên trời Hà Nội bên cạnh âm hưởng trữ tình man mác, đầy lắng đọng cũng có sự gấp gáp, thôi thúc về mặt tiết tấu truyện. Đó là đoạn tái hiện lại không khí chiến đấu sục sôi, đầy quyết liệt của nhân dân Hà Nội trong những ngày Mỹ đánh phá điên cuồng năm 1966 “… Còi báo động rúc ngày đêm. Tiếng gầm rú như điên của những Con Ma. Thần Sấm, Kẻ Đột Nhập… có ngày chúng tấn công Hà Nội đến sáu, bảy trận, mỗi trận ba bốn đợt liên tiếp. Tiếng bom từ các tầng mây cao ào ào rối loạn tuôn xuống, và tiếng pháo cao xạ từ mặt đất thiêng giòn giã tỉnh táo đánh trả lên, các cỡ liên thanh súng trường ran ran khắp các nóc nhà, sân thượng đan thành một lưới lửa dày đặc, những bựng khói vàng da cam của tên lửa phóng những con rồng lửa đuổi theo bọn giặc chạy ngoắt ngoéo trên bầu trời… cùng những chiếc dù vừa bung ra từ những chiếc máy bay giặc bị bắn cháy rừng rực đâm đầu chúc xuống, giữa tiếng hò reo vang dậy của đồng bào thành phố. Lửa dựng. Khói bay. Đất trời mù mịt. Ầm ầm, đùng đùng, đinh tai nhức óc” [8; 65]. Bốn câu văn cuối với sự thu gọn đến mức có thể về mặt ngữ pháp: một chủ ngữ - một vị ngữ như diễn tả hết cái đỉnh điểm dữ dội trong những phút trận chiến đang ở giai đoạn cao trào. Ở Đất rừng phương Nam, Đoàn Giỏi cũng đã ghi lại một cách chi tiết nhất mọi sự thay đổi của sự vật, hiện tượng và con người trong những khúc đoạn nguy biến. Trong đó, biến cố lưu lạc lần ba: đụng độ với vợ chồng Việt gian Tư Mắm là một trong những sự kiện được ông đặc biệt chú trọng (ở tính nguy kịch). Vượt tuyến, Hoa hướng dương, Trần Văn Ơn, Chuyến xe thổ mộ ngày giáp tết, Chuyện rừng thuở ấy,… cũng là những tác phẩm được ông khá dụng công trong xây dựng tình tiết truyện. Hành trình tìm kiếm Thị Lụa với Tám Mun trong Chuyện rừng thuở ấy diễn ra trong ba ngày. Là dân xứ này nhưng rừng sâu với Tám Mun hãy còn là sự bí hiểm. Để đặc tả những gian khó, hiểm nguy trên mỗi bước đường, để làm nổi bật lên tinh thần hào hiệp, trượng nghĩa của con người Nam bộ mà Tám Mun là nhân vật điển hình, một không gian trắc trở đã được Đoàn Giỏi dựng nên. Ngay màn đầu, truyện đã tạo được điểm nhấn riêng đầy thuyết phục bởi sự tĩnh tại của sự vật cũng như nhịp điệu “Rừng im như nín thở. Như phút im lặng trước cơn bão. Như phút im lặng đột ngột giữa chiến trường. Kẻ thù nguy hiểm đã cận kề” [49] trong từng hành động rất khẽ của nhân vật “Tám Mun bước tới một bước, chong ngọn mác lên ngang tầm mắt. Không phải beo, không phải cọp. Nó giấu sao được mùi khét lẹt tỏa ra quanh nó chí ít cũng mươi thước. Vậy là con gì?Gã đảo mắt quanh một vòng, vẫn chưa phát hiện ra. Con Đốm bỗng vươn lên, nhìn thẳng vào vòm cây, gầm gừ” [49; 266]. Những câu văn ngắn, gọn xô đẩy nhau, bên cạnh biện pháp so sánh và điệp cấu trúc được sử dụng liền kế, minh họa cho những gian khó chất chồng. Như một sự ngẫu nhiên đồng thời là một tất yếu, một dụng ý trong xây dựng kết cấu, ngày thứ hai với Tám Mun, từ sáng đến giữa trưa và chiều, có thể nói là giai đoạn thử thách nhất. Vì vậy, tác giả đã dành sáu trang để miêu thuật lại những bước đi đó so với ba trang của ngày một. Mỗi ngày Đoàn Giỏi để Tám Mun đánh vật ý chí và sức mạnh của mình với những trở lực khác nhau, theo thứ tự rắn hổ mây và tiếp là bầy chim. Với ông đây đều là những cảnh tượng hiếm thấy và có đôi phần ghê rợn. Cái hay của tác giả là ông luôn biết tạo ra hoàn cảnh nhưng hiếm khi để những hoàn cảnh trong các truyện đi theo một mô thức chung (bên cạnh sự cụ thể của mô hình diễn tiến). Đó là sự linh hoạt trong sáng tạo, được thể hiện cụ thể qua nghệ thuật xây dựng tình tiết trong kết cấu. Nếu cao trào của hành động trong Cuộc truy tầm kho vũ khí, Trần Văn Ơn được đặt ở tình huống cuối truyện thì cao trào của Chuyện rừng thuở ấy, Chuyến xe thổ mộ ngày giáp tết, Hoa hướng dương được ông đặt ở giữa truyện. Ngày thứ ba của Tám Mun do đó cũng “dễ thở” hơn, y như nốt bè trầm trong một bản nhạc vậy. Có lẽ thiên nhiên đã thôi làm khó con người và khuất phục trước họ. Văn xuôi Đoàn Giỏi ngoài sức hút từ những sự kiện lịch sử sinh động (có thật hoặc hư cấu), còn hấp dẫn người đọc ở phương thức tổ chức tình tiết – sự kiện đầy thú vị. Ông tạo ra những tình huống riêng bên cạnh những tình huống chung, biết tạo mạch cho truyện vận động và phát triển liên tục qua các biến cố. Đồng thời xây dựng được biến cố (hoặc sự kiện) trung tâm qua đó nhân vật được bộc lộ chính mình. Truyện Đoàn Giỏi thỏa mãn được tâm lý người đọc ở kết thúc có hậu nhưng tác giả thường để văn bản “mở” hơn là đóng khung nó bằng những nhận định. Không những đa giọng điệu trong cách xây dựng nhân vật mà trong cách thức trần thuật, văn của ông cũng bao gồm nhiều cung bậc. Dữ dội nhưng cũng hiền hòa, như thiên nhiên Nam bộ vậy. 3.2 Chất thơ trên trang viết Văn học là một hình thái ý thức xã hội, bởi vậy sự vận động của xã hội tác động đến sự vận động của nền văn học. Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 gắn liền với hai cuộc đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ, phục vụ cách mạng do đó là nhiệm vụ quan trọng được đặt lên hàng đầu. Cùng với sự ra đời của Đề cương văn hóa năm 1943 theo phương châm “Văn học cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận đó”, hướng ngòi bút các nhà văn thời kỳ này gần như đi theo một mô thức nhất định trong sáng tác: “Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền” (Sóng Hồng). Hòa mình trong dòng chảy ấy của văn học, thơ văn Đoàn Giỏi vì thế cũng mang đậm cảm hứng sự thật bên cạnh cảm hứng ngợi ca, phê phán (đặc biệt là văn xuôi). Song sự hấp dẫn của trang văn Đoàn Giỏi không chỉ dừng lại ở những dữ dội, gay gắt của hiện thực; những căng thẳng, hồi hộp của hoàn cảnh; những dồn đuổi, gấp gáp của sự kiện;… mà còn ở chất thơ trong trẻo, ngọt ngào và nồng hậu như nhà văn Anh Đức từng nhận định “Văn anh Đoàn Giỏi vừa mang chất trữ tình lại vừa mang tính chất lạ kỳ, sôi động” [1]. Bàn về khái niệm chất thơ, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học cho đó là “những sáng tác văn học bằng văn vần hay văn xuôi giàu cảm xúc, nội dung cô đọng, ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhạc điệu” [18]. Hay tác giả bài viết Chất thơ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) thì cho rằng chất thơ là “tính chất trữ tình – tính chất được tạo nên từ sự hòa quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn” [1]. Với Đoàn Giỏi, chất thơ trong văn xuôi được thể hiện trên ba phương diện sau. 3.2.1 Thơ và chất thơ Sau truyện ngắn đầu tay Nhớ cố hương năm 1943, những năm sau 1945, Đoàn Giỏi vẫn tiếp tục giấc mộng văn chương với những trang văn và qua những trang thơ. Bởi vậy mà dù đời sống hoạt động thực tiễn còn nhiều gian khó, bận bịu nhưng trên các báo của vùng tạm chiếm, thơ Đoàn Giỏi vẫn được đăng: Tư lương dân (Dân báo) và Mười hai bến nước (Ánh sáng) (theo Đoàn Giỏi, Đất và rừng phương Nam). Số lượng không nhiều, nội dung không mới nhưng nhờ “âm hưởng thơ chuyên chở được một tâm trạng thực và kĩ thuật khá điêu luyện” [31; 114], thơ ông vẫn tràn sức sống. Thơ trong văn xuôi Đoàn Giỏi phong phú và đa dạng về thành phần sáng tác, trong đó chiếm số lượng lớn nhất vẫn là những bài ca dao, dân ca quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Thơ, vì vậy vừa đem lại cái trữ tình đằm thắm, vừa có ý nghĩa như một loại gia vị thêm vào món ăn là những trang văn ông sự hấp dẫn, lôi cuốn với hương vị đậm đà của quê hương Nam bộ: “Bao giờ hết đước Năm Căn Ông Trang hết cá, Viên An hết rừng Khai Long hết xác cá đường Mũi Cà Mau đó… ta nhường cho bây!” [8; 625]. Vang vọng khắp đầu sông cuối rừng Nam bộ, giọng hò mộc mạc, bay bổng ấy với những tự hào và quyết tâm đã theo người dân Cà Mau đi vào hai cuộc chiến đấu chống Pháp và chống Mỹ. Và giờ đây, theo những con chữ của Đoàn Giỏi đi vào trái tim bao người. Ngoài Người và đất Cà Mau, bốn câu thơ này còn xuất hiện trong truyện ký Cây đước Cà Mau qua giọng nói thơ Bạc Liêu trong vắt, lan dài trên sông với sự đi kèm của ngữ điệu “Tặng tăng tắng tẳng tăng tằng”. Âm điệu vui tươi, rộn rã thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời của bà con đất Mũi dù rằng thực tại hãy còn nhiều gian khổ. Chất thơ của cuộc sống tan chảy trong sự trong trẻo, ngọt ngào ấy, để dần thành hình là chất thơ của văn xuôi. Ca dao trong văn xuôi Đoàn Giỏi còn được dùng như một hình thức liên tưởng thú vị. Mượn kinh nghiệm đã được ông bà đúc kết về đặc điểm thiên nhiên vùng đất “Anh về để áo lại đây/ Đêm khuya an