Khóa luận Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước

Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam được coi là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đưa nước ta trở thành một nước tiên tiến nhanh chóng hoà nhập vào dòng tiến hoá chung của nhân loại, chúng ta chỉ có một con đường là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Đảng ra cũng xác định rằng để thực hiện được những mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, không chỉ bằng nhiệt tình và lòng dũng cảm như trước đây mà cần phải phát huy hoạt động trí tuệ và tài năng sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân. Đội ngũ trí thức là đại biểu tập trung cho trí tuệ dân tộc. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta thì trí thức tham gia trực tiếp và chủ yếu vào nâng cao dân trí, là bộ phận nguồn lực khoa học kỹ thuật, trí thức góp phần lớn lao vào việc phát triển lực lượng sản xuất. Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên không phải mọi cấp, mọi người dân hay một bộ phận không nhỏ trí thức chưa nhận thức được đầy đủ và sâu sắc vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Đây là một thực trạng đã và đang tồn tại ở nước ta. Vì vậy, để làm rõ hơn vai trò của đội ngũ trí thức là một nhân tố cơ bản trong việc thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, em xin chọn đề tài “Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.

doc63 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2333 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam được coi là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đưa nước ta trở thành một nước tiên tiến nhanh chóng hoà nhập vào dòng tiến hoá chung của nhân loại, chúng ta chỉ có một con đường là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Đảng ra cũng xác định rằng để thực hiện được những mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, không chỉ bằng nhiệt tình và lòng dũng cảm như trước đây mà cần phải phát huy hoạt động trí tuệ và tài năng sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân. Đội ngũ trí thức là đại biểu tập trung cho trí tuệ dân tộc. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta thì trí thức tham gia trực tiếp và chủ yếu vào nâng cao dân trí, là bộ phận nguồn lực khoa học kỹ thuật, trí thức góp phần lớn lao vào việc phát triển lực lượng sản xuất. Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên không phải mọi cấp, mọi người dân hay một bộ phận không nhỏ trí thức chưa nhận thức được đầy đủ và sâu sắc vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Đây là một thực trạng đã và đang tồn tại ở nước ta. Vì vậy, để làm rõ hơn vai trò của đội ngũ trí thức là một nhân tố cơ bản trong việc thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, em xin chọn đề tài “Đội ngũ trí thức Việt Nam với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Tầm quan trọng của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, lý luận, các học giả ở nước ta. Đã có những công trình liên quan đến đề tài này được công bố - Đỗ Mười, Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. - Phạm Tất Dong, Trí thức Việt Nam tiến và triển vọng, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1995. - Phan Thanh Khôi, Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1992. - Nguyễn Thanh Tuấn : Đặc điểm và vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1995. - Ngô Đình Xây, Những yêu cầu đối với trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Tạp chí Cộng sản số 27-2002. - Phan Tất Dong, Xu thế phát triển của đội ngũ trí thức, Tạp chí Triết học số 10-1998 -Ngô Thị Phượng, Vai trò của tầng lớp trí thức Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước, Luận án Ths Triết học , Hà Nội 1997 - Nguyễn Đắc Hưng, Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005 -Nguyễn Quốc Bảo, Đảng Cộng sản cầm quyền và vấn đề trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS Lịch sử, Hà Nội, 2005 -Nguyễn Văn Khánh, Trí thức với Đảng, Đảng với trí thức trong sự nghiệp gải phóng và xây dựng đất nước, NXB Thông tấn, Hà Nội, 2004 3. Mục đích và nhiệm vụ của khoá luận + Mục đích:Xác định rõ vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự ngiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Từ đó đề xuát một số giải pháp để đội ngũ này thực hiện rõ vai trò của mình. + Nhiệm vụ: -Làm rõ khái niệm trí thức. -Phân tích thực trạng của đội ngũ trí thức Việt Nam. -Làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. + Đề xuất một số giải pháp để đội ngũ trí thức nước ta thực hiện tốt vai trò của mình. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu + Khoá luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. + Khoá luận đã sử dụng và tham khảo số sách, báo, bài viết, luận án về vấn đề trí thức. + Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của khoá luận là: phân tích tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, đi từ trừu tượng đến cụ thể. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khoá luận - Góp phần nhỏ vào nghiên cứu trí thức, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam. - Ý nghĩa thực tiễn, từ những điểm rút ra trong khoá luận có thể góp phần nhận thức một cách rõ nét hơn vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. 6. Kết cấu Luận văn ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính gồm 2 chương và 5 tiết. NỘI DUNG CHƯƠNG 1.TRÍ THỨC VÀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC VIỆT NAM 1.1.Trí thức với sự phát triển của xã hội 1.1.1. Vài nét khái quát về phạm trù trí thức Tầng lớp trí thức là đại biểu cho trí tuệ của cả dân tộc. Trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì nhưng trí thức tiến bộ những nhà lý luận của giai cấp vô sản đã góp phần thức tỉnh quần chúng nhân dân giác ngộ về lý tưởng cách mạng. Trong xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa trí thức tham gia trực tiếp và chủ yếu vào nâng cao dân trí. Và quan trọng hơn là trí thức tham gia vào việc phát triển lực lượng sản xuất khoa học công nghệ. Do vậy V.I.Lênin đa từng nói " không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và có kinh nghiệm, thì không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tính chất quần chúng để đi tìm một năng xuất lao dộng cao hơn năng suất lao động của chủ nghĩa tư bản trên cơ sở những kết quả mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được"[16, tr. 217] Trong tất cả các chế độ xã hội trí thức đều cơ bản phục vụ cho giai cấp thống trị, chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị. Theo V.I.Lênin “Trí thức không hợp thành một giai cấp độc lập về kinh tế” mà là một tầng lớp xã hội xuất thần từ nhiều giai cấp V.I.Lênin “Trí thức được gọi là trí thức chính nhưng nó phản ánh và thể hiện sự phát triển của các lợi ích giai cấp và các nhóm phản chính trị trong toàn bộ xã hội một cách có ý thức hơn cả, kiên quyết hơn cả, chính xác hơn cả” [14,tr. 416] Như vậy chúng ta có thể hiểu trí thứ không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp đặc biệt trong xã hội. Từ vị trí của mình trong phân công lao động xã hội, trí thức không có quan hệ riêng với tư liệu sản xuất -cái dấu hiệu quan trọng nhất để phân biệt giai cấp, do đó không có thể đại biểu cho phương thức sản xuất nào cả, cũng không cóhệ tư tưởng độc lộc. Cho nên trí thức phải luôn gắn bó với một tầng lớp nhất định. Tầng lớp trí thức có thể tự giác hoặc không tự giác phục vụ cho chế độ và giai cấp thống trị. Quá trình đấu tranh giai cấp tác động về nhiều mặt về lợi ích đã làm cho tầng lớp trí thức phân hoá thành nhưng bộ phận khác nhau. Nhưng bộ phận khác nhau đó sẽ ngả theo lực lượng này hay lực lượng khác, giai cấp này hay giai cấp khác. Tính giai cấp của tầng lớp trí thức phụ thuộc vào giai cấp mà nó phục vụ, giai cấp đã sinh ra nó và truyền sức mạnh cho nó. Lênin luôn phê phán những ai coi trí thức là "siêu giai cấp " hoặc đứng trên giai cấp. Ngưòi nói "Nếu không nhập cục với một giai cấp thì thì giới trí thức chỉ là một con số không mà thôi" [12,tr. 552]. Như vậy khi phân tích các luận điểm về khái niệm trí thức ở nước ta, chúng ta cần phải vận dụng định nghĩa của V.I. Lênin về giai cấp, để tiếp cận đúng đắn phạm trù trí thức. V.I.Lênin “gọi là các giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội. Và như vậy là khác nhau về cách hưởng thụ và về phần của cải xã hội, ít hay nhiều mà họ được hưởng”. (17,tr. 17-18) Tầng lớp trí thức khác với những người lao động chân tay trước hết chính là ở chỗ phân công lao động xã hội quy định. Sự phân công lao động xã hội quy định sự hình thành và phát triển của tầng lớp trí thức. Vì vậy trí thức không chỉ là một phạm trù xã hội mà còn là một phạm trù lịch sử. Trên cơ sở của sự phân công lao động (phân công lao động vật chất, phân công lao động tinh thần) đã làm cho sự phân công lao động trên các lĩnh vực hoạt động sản xuất và tinh thần được tăng cường, năng xuất lao động ngày càng cao hơn, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, mở rộng việc trao đổi. Như vậy trí thức là kết quả và sản phẩm của quá trình phân công lao động vật chất và tinh thần tức là sự phân chia lao động trí óc và lao động chân tay. Sự phân công lao động đó như Mác-Anghen đã chỉ rõ sẽ dẫn tới phạm vi hoạt động "độc chuyên" của "mỗi người trong xã hội và người đó phải nhận thấy và không thể thoát được"[25,tr. 43]. Như vậy trí thức nói riêng hay tầng lớp trí thức nói chung trong phân công lao động xã hội đó chính là vị trí của những người hoạt động trên lĩnh vực "lao động tinh thần " khác với đại đa số quần chúng nhân dân lao động chân tay trên lĩnh vực "sản xuất vật chất ". Chính xuất phát từ vị trí do phân công lao động xã hội quy định mà chức năng lao động xã hội quy định trí thức khác với người lao động chân tay. Do đó cũng đòi hỏi người trí thức phỉ có trình độ học vấn chuyên môn cao mới thực hiện được chức năng vai trò của họ trong phân công lao động xã hội. Ở đây đặc biệt phải chú ý đến tiêu chuẩn đầu tiên là vị trí của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội trong hệ thống sản xuất xã hội. Các tính chất như mối quan hệ đối với tư liệu sản xuất. Vai trò trong tổ chức lao động xã hội và cách thức hưởng thụ đều là tiền đề quy định vị trí của các giai cấp hay tầng lớp xã hội trong nền tảng của xã hội. Vai trò của trí thức là sản xuất, truyền bá ứng dụng tri thức khoa học (chứ không phải là tri thức kinh nghiệm hay tri thức thông thường). Từ bản chất xã hội đặc thù này mà trí thức luôn tồn tại và phát triển như một tầng lớp xã hội độc lập tương đối trong một chế độ xã hội. Như vậy từ những điều rút ra được từ các quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu về phạm trù trí thức là: Những người sản xuất, truyền bá ứng dụng tri thức khoa học (chứ không phải tri thức kinh nghiệm hay tri thức thường ngày) trong hệ thống sản xuất xã hội. Do khoa học - công nghệ trở thành một yếu tố độc lập và xuất hiện ở tất cả các yếu tố khác nhau của lực lượng sản xuất xã hội và do hàm lượng trí tuệ trong sản phẩm hàng hóa và trong công tác lãnh đạo, quản lý ngày càng cao cho nên trí thức có quan hệ gián tiếp và cả trực tiếp đối với tư liệu sản xuất. Quá trình xích lại gần nhau và phân hóa xã hội trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ không dẫn đến chỗ đồng nhất xã hội thành một bên là những người lao động trí óc, một bên là những người lao động chân tay. Quá trình này sẽ càng ngày càng làm đa dạng hóa cơ cấu xã hội trong đó có đội ngũ trí thức. Tính đặc thù của đội ngũ trí thức là ở chỗ các nhóm xã hội của nó gắn bó khăng khít với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Bởi vì, ở mọi lĩnh vực sản xuất đều có hoạt động truyền bá, ứng dụng tri thức khoa học. Đội ngũ trí thức có 6 chức năng xã hội là: nhận thức khoa học (lý luận), dự báo khoa học; ứng dụng tri thức khoa học và triển khai công nghệ vào thực tiễn; giáo dục và đào tạo; chăm sóc y tế, chấn hưng văn hóa, tạo lập cơ sở lý luận và giải pháp công nghệ cho công tác lãnh đạo và quản lý. Do đó có thể hiểu trí thức là một tầng lớp xã hội đặc thù, độc lập tương đối, chuyên làm các nghề lao động trí óc phức tạp và sáng tạo và có học vấn chuyên môn cần thiết cho lĩnh vực lao động đó. Nếu hoạt động trong lĩnh vực đòi hỏi trình độ cao đẳng hay đại học thì đó không phải là đặc trưng duy nhất của tầng lớp này vì trong các giai cấp và tầng lớp xã hội khác cũng có nhiều người có trình độ học vấn đó. Đặc trưng quyết định nhất của tầng lớp trí thức là sáng tạo khoa học và nghệ thuật. Trong quá trình lao động họ phải chủ quan hóa khách quan và khách quan hóa chủ quan để tạo ra sự chuyển hóa tri thức khoa học từ lượng thành chất và ngược lại nhằm khám phá, nhận thức ngày càng rộng và sâu hơn các quy luật tự nhiên và xã hội và bản thân con người. Do không phải tất cả lao động đều nắm được kiến thức chuyên môn một cách có hệ thống, nhất là ở các chuyên ngành khoa học hiện đại, cũng như không phải ai cũng nắm được đặc trưng cơ bản của phương pháp nghiên cứu khoa học, sáng tạo văn chương, nghệ thuật cho nên trí thức là một tầng lớp xã hội cần thiết cho mọi chế độ xã hội và độc lập tương đối trong mọi thời đại. Tóm lại có thể hiểu trí thức là một tầng lớp xã hội đặc thù, độc lộc tương đối, chuyên làm các công việc có tính chất lao động trí óc phức tạp và sáng tạo, có trính độ, học vấn chuyên môn cần thiết cho lĩnh vực lao động đó. Đặc trưng nổi bật của trí thức là sáng tạo truyền bá khoa học nghệ thuật trên cơ sở quan niệm triết học riêng với kiến thức có hệ thống và phương pháp lao động sáng tạo 1.1.2. Vai trò của trí thức với sự phát triển của xã hội Chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá cao vai trò của trí thức đối với sự phát triển của xã hội loài người, thông qua cống hiến sáng tạo của họ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vai trò của họ thể hiện trước hết thông qua vai trò của những tư tưởng, đặc biệt là những tư tưởng triết học. Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, sự thống trị của giai cấp bóc lột không chỉ bằng sự chiếm hữu của cải hàng hoá tiền tệ, nô lệ mà còn cả sức mạnh tinh thần. Giai cấp thống trị độc quyền đã lợi dụng chủ nghĩa duy tâm tôn giáo làm công cụ áp bức tinh thần. Các nhà triết học cổ đại đồng thời là những nhà khoa học tự nhiên, sự cống hiến của họ đã góp phần làm cho nền văn minh thế giới thêm rực rỡ và phát triển. Nhiều nhà trí thức đã anh dũng hy sinh trên dàn lửa hoả thiêu, trước toà án giáo hội để đấu tranh cho chân lý, cho tiến bộ xã hội, cho khoa học trong đêm trường trung cổ. Họ đã góp phần làm chôn vùi thời kỳ trung cổ bạo tàn, tạo nên sự đảo lộn tiến bộ mà trước đó nhân loại chưa từng trải qua. Ở thời kỳ Khai sáng những nhà triết học duy vật đã chuẩn bị cho tư tưởng, cho cuộc cách mạng Tư sản thế kỷ XVIII. Trong xã hội hiện đại, V.I. Lênin đã chỉ rõ: “Công nhân trước đây không có ý thức dân chủ xã hội được. ý thức này chỉ có thể từ bên ngoài đưa vào. Lịch sử tất cả các nước chứng thực rằng chỉ do lực lượng của độc bản thân mình thôi, thì giai cấp công nhân chỉ có thể đi đến ý thức công liên chủ nghĩa. Còn học thuyết xã hội chủ nghĩa thì phải sinh ra từ lý luận triết học lịch sử, kinh tế do những người có học thức trong giai cấp hữu sản, những trí thức xây dựng nên” [13,tr. 38]. Bản thân những tư tưởng trên, những tư tưởng tiến tiến không thể đánh bại sự thống trị, nhưng nó trở thành vũ khí tinh thần không thể thiếu được của giai cấp vô sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Trong quá trình vận động cách mạng xã hội, trí thức tiên tiến đã đưa những tư tưởng cách mạng tiên tiến vào phong trào cách mạng của quần chúng vào tham gia tích cực góp phần tạo nên những thắng lợi của cách mạng xã hội. Vai trò của những người trí thức không chỉ thể hiện ở những việc sáng tạo những tư tưởng nói trên mà còn thể hiện rất rõ trên các lĩnh vực lao động tinh thần nói chung. Vai trò của họ được thực hiện trên các lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục, văn hoá, nghệ thuật… họ đã góp phần mở mang trí tuệ, giải phóng loài người khỏi sự áp bức tinh thần mang lại cho con người những tư tưởng tình cảm cao đẹp, làm cho đời sống tinh thần của con người thêm phong phú, lành mạnh, thông qua lao động sáng tạo trên các lĩnh vực hoạt động của họ. Vị trí của người trí thức, do phân công lao động xã hội hoạt động trên lĩnh vực sản xuất tinh thần. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là trí thức không có vai trò trên lĩnh vực sản xuất vật chất. Đánh giá vai trò của trí thức trong việc phát triển lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản V.I. Lênin nói: “ Không có những người này thì sản xuất tư bản hiện đại là điều không thể có được” [15,tr. 162] Đóng góp rõ nhất của trí thức là thông qua cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đi kèm với nó là cuộc cách mạng lực lượng sản xuất. Vai trò của các nhà trí thức khoa học kỹ thuật trong việc sáng tạo ra công cụ mới ngày càng hoàn thiện hơn để nâng cao năng suất lao động xã hội. Trong lĩnh vực sản xuất vật chất, vai trò của những trí thức, tổ chức, quản lý, điều khiển cũng không thể phủ nhận được. Họ đã góp phần cho sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và như Mác - Ănghen đã chỉ rõ: “do có những lực lượng sản xuất mới loài người đã thay đổi phương thức sản xuất của mình… loài người thay đổi tất cả các mối quan hệ của mình” [22,tr. 380]. Tri thức là một kết quả của tiến bộ xã hội, mặt khác, sự phát triển của trí thức đã góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, góp phần giải phóng con người khỏi sự chi phối của những lực lượng tự phát trong tự nhiên và trong xã hội. Điều kiện đầu tiên và cũng là tiền đề quan trọng đối với sự xuất hiện của tầng lớp trí thức là sản phẩm của sự phân công lao động trong xã hội do nhu cầu xã hội quyết định. Hoạt động của tầng lớp trí thức luôn luôn góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua 6 chức năng xã hội sau: "Sản xuất những tri thức khoa học, trong đó phải kể đến những tư tưởng triết học tiên tiến, nhất là triết học duy vật biện chứng, để nhân loại nhận thức ngày càng đúng hơn các quy luật tự nhiên, xã hội, tư duy và chính con người như một nhân cách. Dự báo khoa học. Hoạt động ứng dụng tri thức khoa học nhằm biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong quá trình phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất xã hội. Hoạt động giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng trí lực, chăm sóc và bồi dưỡng thế lực cho nhân dân. Kế thừa, tích lũy và phát triển các giá trị văn hóa, khoa học, nghệ thuật v.v… của dân tộc và nhân loại để ngày càng nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Góp phần vào sự lãnh đạo quản lý xã hội, kinh tế bằng tri thức khoa học và công nghệ"[2,tr. 35,36] Từ khi hình thành nền văn minh loài người cho đến nay phải khẳng định rằng những tri thức khoa học do những người trí thức sản xuất cùng với kho tàng rộng lớn những tri thức kinh nghiệm, tri thức thường ngày của các tầng lớp nhân dân lao động khác nhau đã được vật chất hóa thành những công cụ sản xuất phục vụ đời sống con người. Công nghệ sản xuất ngày càng hiện đại cùng những công trình kiến trúc và cơ sở hạ tầng để con người tác động và cải tạo thế giới tự nhiên. Nhờ đó, lực lượng sản xuất phát triển hơn, năng suất lao động cao hơn, sự phân công lao động xã hội sâu sắc hơn. Kết quả tất yếu của sự phát triển ấy là sự chuyển biến của xã hội lên một trình độ cao hơn. Song vai trò của trí thức đối với tiến bộ xã hội không chỉ thể hiện trong lĩnh vực sáng tạo ra của cải vật chất, mà còn cả trong lĩnh vực đời sống tinh thần. Mặc dù trong các xã hội có áp bức, bóc lột, giai cấp thống trị thường lợi dụng khoa học, nghệ thuật để áp bức nhân dân về mặt tinh thần, nhưng cũng không cản được sự phát triển của khoa học kỹ thuật, văn hóa, giáo dục theo hướng dân chủ và nhân đạo. Những tri thức này góp phần tích cực vào việc xua tan bức màn tăm tối về trí tuệ, khắc phục tình trạng dốt nát và bệnh tật. Văn hóa, khoa học và nghệ thuật thông qua những phương tiện thông tin đại chúng ngày càng hiện đại đã giúp con người mở mang trí tuệ, giao lưu văn hóa và hấp thụ những tinh hoa của nền văn minh nhân loại. Trí thức khoa học và nghệ thuật mang nội dung tiến bộ, tình cảm cao đẹp đã góp phần làm cho đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng thêm phong phú. Những tư tưởng nhân văn, tiến bộ không phải là kết quả tư duy tư biện của các trí thức tiên tiến, mà là sự phản ánh khách quan đời sống xã hội hiện thực. Chúng tạo ra cơ sở nhận thức mới, những quan điểm mới trong quá trình cải tạo và phát triển không ngừng thế giới tự nhiên, xã hội và cả bản thân con người. Tất cả những cái đó khẳng định vai trò to lớn của trí thức, các đại biểu sáng tạo của loài người đối với tiến bộ xã hội. Tuy nhiên trong sự phát triển của xã hội không phải lúc nào trí thức cũng thực hiện được đầy đủ các chức năng xã hội của mình. Tầng lớp trí thức thường bị phân hóa và không thể không phụ thuộc vào giai cấp thống trị ở mức độ này hay mức độ khác. Trong những trường hợp ấy, giai cấp thống trị phản động và bảo thủ thường lợi dụng một bộ phận trí thức cùng tri thức khoa học, nghệ thuật kìm hãm và chống lại sự tiến bộ của