Hội nhập quốc tế đã và đang trở thành một xu thế tất yếu, không thể
đảo ngƣợc đƣợc. Trong xu thế đó, hệ thống tài chính nói chung và hệ thống 
Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam nói riêng không chỉ là huyết mạch của nền 
kinh tế quốc dân mà còn mang trong mình vận hội vƣơn rộng ra phạm vi khu 
vực và thế giới. Khi tiến hành hội nhập, các Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam 
phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các ngân hàng nƣớc ngoài mà không có sự
bảo hộ của nhà nƣớc trong khả năng cạnh tranh của các ngân hàng này còn 
yếu. Vì vậy, nhiệm vụ trƣớc mắt của các ngân hàng là nâng cao năng lực tài 
chính, cải tổ hoạt động và hiện đại hóa ngân hàng một cách toàn diện, triệt để
và mạnh mẽ để đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế hội nhập. 
Là một trong bốn Ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, Ngân hàng 
Ngoại thƣơng Việt Nam trong nhiều nă m qua luôn giữ vững thế mạnh, đi đầu 
trong hoạt động huy động vốn, thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi, đáp ứng nhu 
cầu vốn cho đầu tƣ phát triển nền kinh tế. Trong điều kiện cạnh tranh mạnh 
mẽ từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các ngân hàng cổ phần, các ngân 
hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài, thị phần huy động 
vốn của Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam đang có nguy cơ sụt giả m. Bên 
cạnh đó, cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng Ngoại thƣơng thể hiện sự bất hợp 
lý khi vốn ngoại tệ chiế m tỷ trọng lớn, vốn VND nhỏ, trong khi nhu cầu sử
dụng vốn ngoại tệ nhỏ, vốn VND đang cần để tài trợ trong nƣớc. Hơn nữa, 
tiền gửi không kỳ hạn lớn ảnh hƣởng đến tính ổn định của nguồn, gây khó
khăn cho ngân hàng trong cho vay trung và dài hạn. Do đó, việc tăng cƣờng 
huy động vốn để có cơ cấu vốn hợp lý trong điều kiện cạnh tranh hiện nay là
rất cần thiết đối với Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 106 trang
106 trang | 
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2456 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn của ngân hàng ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG 
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG 
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP 
Đề tài: 
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY 
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI 
THƯƠNG VIỆT NAM 
Sinh viên thực hiện : CAO PHƯƠNG LIÊN 
Lớp : Anh 4 K41- KTNT 
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS NGUYỄN NHƯ TIẾN 
Hà Nội, 11/2006 
 1 
LỜI MỞ ĐẦU 
1 - Tính cấp thiết của đề tài 
Hội nhập quốc tế đã và đang trở thành một xu thế tất yếu, không thể 
đảo ngƣợc đƣợc. Trong xu thế đó, hệ thống tài chính nói chung và hệ thống 
Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam nói riêng không chỉ là huyết mạch của nền 
kinh tế quốc dân mà còn mang trong mình vận hội vƣơn rộng ra phạm vi khu 
vực và thế giới. Khi tiến hành hội nhập, các Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam 
phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các ngân hàng nƣớc ngoài mà không có sự 
bảo hộ của nhà nƣớc trong khả năng cạnh tranh của các ngân hàng này còn 
yếu. Vì vậy, nhiệm vụ trƣớc mắt của các ngân hàng là nâng cao năng lực tài 
chính, cải tổ hoạt động và hiện đại hóa ngân hàng một cách toàn diện, triệt để 
và mạnh mẽ để đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế hội nhập. 
Là một trong bốn Ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, Ngân hàng 
Ngoại thƣơng Việt Nam trong nhiều năm qua luôn giữ vững thế mạnh, đi đầu 
trong hoạt động huy động vốn, thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi, đáp ứng nhu 
cầu vốn cho đầu tƣ phát triển nền kinh tế. Trong điều kiện cạnh tranh mạnh 
mẽ từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các ngân hàng cổ phần, các ngân 
hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài, thị phần huy động 
vốn của Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam đang có nguy cơ sụt giảm. Bên 
cạnh đó, cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng Ngoại thƣơng thể hiện sự bất hợp 
lý khi vốn ngoại tệ chiếm tỷ trọng lớn, vốn VND nhỏ, trong khi nhu cầu sử 
dụng vốn ngoại tệ nhỏ, vốn VND đang cần để tài trợ trong nƣớc. Hơn nữa, 
tiền gửi không kỳ hạn lớn ảnh hƣởng đến tính ổn định của nguồn, gây khó 
khăn cho ngân hàng trong cho vay trung và dài hạn. Do đó, việc tăng cƣờng 
huy động vốn để có cơ cấu vốn hợp lý trong điều kiện cạnh tranh hiện nay là 
rất cần thiết đối với Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam. 
 2 
Nhƣ vậy, có thể nói huy động vốn không phải là vấn đề mới nhƣng 
luôn là vấn đề sống còn trong hoạt động ngân hàng và là vấn đề cấp thiết đối 
với Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam. Xuất phát từ thực tế đó, ngƣời viết đã 
lựa chọn đề tài “ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN 
CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM ” để làm đề tài 
nghiên cứu cho khoá luận của mình. 
2 - Mục đích nghiên cứu 
Khóa luận tập trung nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích thực trạng hoạt 
động huy động vốn tại Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam trong thời gian 
qua, tìm ra những ƣu điểm và những vƣớng mắc còn tồn tại trong hoạt động 
huy động vốn, từ đó đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn 
cho Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam trong thời gian tới. 
3 - Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 
Khoá luận nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về hoạt 
động huy động vốn tại Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam trong giai đoạn 
2001 - 2005. 
4 - Phƣơng pháp nghiên cứu 
Khoá luận sử dụng tổng hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau 
nhƣ phƣơng pháp tổng hợp và phân tích, phƣơng pháp thống kê, liệt kê, so 
sánh và đối chiếu làm cơ sở phân tích và kết hợp những kết quả thống kê với 
việc vận dụng lý thuyết để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. Mặt khác, ngƣời 
viết còn sử dụng các chính sách, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc nói chung 
cũng nhƣ Ngân hàng Nhà nƣớc nói riêng để khái quát một cách hệ thống và 
khẳng định kết quả mang lại. 
5 - Bố cục của khoá luận 
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khoá luận đƣợc trình 
bày trong 3 chƣơng: 
 3 
Chƣơng I: Vài nét về vốn và huy động vốn tại Ngân hàng Ngoại 
thƣơng Việt Nam 
Chƣơng II: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Ngoại 
thƣơng Việt Nam 
Chƣơng III: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng 
Ngoại thƣơng Việt nam. 
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Nhƣ Tiến - 
Giảng viên trƣờng Đại học Ngoại thƣơng, ngƣời đã cho em những kinh 
nghiệm bổ ích trong phƣơng pháp nghiên cứu khoa học cũng nhƣ đã giành 
thời gian quý báu chỉ bảo, giúp đỡ em tận tình trong quá trình hoàn thành 
khoá luận tôt nghiệp. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong 
nhà trƣờng, các anh chị công tác tại phòng vốn Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt 
Nam, cùng những ngƣời bạn đã giúp đỡ em thực hiện đề tài. 
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhƣng do sự phức tạp của đề tài và sự 
hạn chế về thời gian nghiên cứu nên chắc chắn em không thể tránh khỏi 
những thiếu sót trong khoá luận của mình. Em rất mong nhận đƣợc sự đóng 
góp ý kiến từ thầy cô và bạn bè để em có thể hoàn thiện tốt hơn khoá luận của 
mình. 
 4 
CHƢƠNG I 
VÀI NÉT VỀ VỐN VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN 
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 
I. SƠ LƢỢC VỀ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 
1. Khái niệm và vai trò của NHTM 
 Khái niệm NHTM 
Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự 
phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện 
và đỏi hỏi sự phát triển của NH; đến lƣợt mình, sự phát triển của hệ thống NH 
trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. 
Trong nền kinh tế thị trƣờng, thị trƣờng tài chính và các trung gian tài 
chính thực hiện chức năng lƣu thông vốn từ những nơi, những cá nhân có vốn 
nhàn rỗi đến những cá nhân, tổ chức cần vốn cho các hoạt động của mình. 
Trong các kênh dẫn vốn đó thì hệ thống NH đóng vai trò chủ đạo cả về quy 
mô lẫn nghiệp vụ. 
NH là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. 
NH bao gồm nhiều hình thức tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói 
chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thƣờng chiếm tỷ trọng 
lớn nhất về quy mô và số lƣợng các NH. 
Khi nghiên cứu về NHTM, các nhà kinh tế học, các tổ chức tài chính đã 
đƣa rất nhiều khái niệm về NHTM. Theo Fredic Miskin thì “ Ngân hàng 
Thƣơng mại là một trung gian tài chính, các trung gian tài chính này thu hút 
vốn bằng cách phát hành: tiền gửi có thể phát séc (tiền gửi không kì hạn), các 
tiền gửi tiết kiệm (là các món tiền gửi có kì hạn thanh toán định trƣớc), sau đó 
họ dùng vốn vay này để thực hiện cho vay: cho vay thƣơng mại, cho vay tiêu 
dùng, cho vay thế chấp và để mua các chứng khoán của chính phủ, các chứng 
khoán của chính quyền địa phƣơng.” 
 5 
Còn Peter Rose thì cho rằng: “ Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung 
cấp một danh mục dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết 
kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với 
bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.” 
Theo luật Các Tổ chức Tín dụng của Việt Nam thì “ Ngân hàng là tổ 
chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thƣờng xuyên là nhận tiền 
gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, 
thực hiện nghiệp vụ chiết khấu là làm phƣơng tiện thanh toán.” 
Nhƣ vậy trong quá trình hình thành và phát triển, các nhà kinh tế học 
cũng nhƣ các tổ chức đã đƣa ra rất nhiều khái niệm về NHTM. Thật khó có 
thể để đƣa ra một khái niệm chính xác và đầy đủ về NHTM trong mọi giai 
đoạn. Sở dĩ có điều này là do hoạt động của NHTM rất đa dạng, các thao tác 
trong từng nghiệp vụ lại rất phức tạp và luôn luôn biến động theo sự biến đổi 
chung của nền kinh tế. Mặt khác, do trình độ phát triển của nền kinh tế, phong 
tục tập quán, hệ thống pháp luật… mỗi nƣớc khác nhau đã dẫn đến quan niệm 
về NHTM không đồng nhất. Nhƣng một điều không thể phủ nhận là sự ra đời 
của hệ thống NHTM đã đánh dấu một bƣớc phát triển quan trọng trong đời 
sống kinh tế xã hội loài ngƣời. 
 Vai trò của NHTM 
NHTM là một trung gian tài chính không thể thiếu đƣợc của một nền 
kinh tế. Nó đóng vai trò cầu nối giữa cung và cầu tiền tệ thông qua hoạt động 
huy động vốn của những cá nhân, tổ chức thặng dƣ trong chi tiêu tức là thu 
nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá dịch vụ và do đó 
họ có tiền để tiết kiệm. Sau đó, NHTM chuyển các khoản tiết kiệm này thành 
đầu tƣ bằng cách cho các tổ chức và cá nhân có nhu cầu về vốn vay lại. Đó là 
những tổ chức, cá nhân tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu 
dùng và đầu tƣ vƣợt quá thu nhập; do vậy, họ cần bổ sung thêm vốn. Hoạt 
động này giúp đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất 
 6 
kinh doanh. Tình hình hoạt động của NH phản ánh rất chính xác mức độ phát 
triển của nền kinh tế. Do vậy, NH có vai trò quan trọng trong sự phát triển của 
nền kinh tế, cụ thể nhƣ sau: 
 - Vai trò trung gian: NHTM với hoạt động huy động vốn và cho vay 
đã nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Nói cách khác, NHTM là 
cầu nối giữa những ngƣời tạm thời dƣ thừa vốn và những ngƣời đang cần vốn 
bổ sung cho tiêu dùng hay đầu tƣ. Với các hoạt động này, NHTM thực sự 
đem lại lợi ích trọn vẹn và đầy đủ cho cả ngƣời có vốn, ngƣời cần vốn, cho cả 
nền kinh tế xã hội và cho cả bản thân các tổ chức tài chính trung gian. Hoạt 
động với tƣ cách là một trung gian tài chính, NHTM đã có những tác động 
tích cực đối với nền kinh tế nhƣ: NHTM đáp ứng đầy đủ, chính xác và kịp 
thời yêu cầu giữa ngƣời cần vốn và ngƣời có vốn do sự chuyên môn hoá và 
thành thạo trong nghiệp vụ; NHTM cũng góp phần giảm bớt những chi phí, 
thông tin và giao dịch cho mỗi cá nhân, tổ chức và toàn bộ nền kinh tế. 
 - Vai trò thanh toán: Ngày nay, NH đã trở thành trung gian thanh toán 
lớn nhất ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Thay mặt khách hàng, NHTM 
thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ dƣới nhiều hình thức nhƣ thanh 
toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, thanh toán bằng L/C, phát triển hệ thống chuyển 
tiền điện tử… Ngoài ra, các NH còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau 
thông qua hệ thống ngân hàng đại lý. Các hình thức thanh toán đang ngày 
càng đƣợc chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất không chỉ trong thanh toán 
nội bộ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên 
toàn thế giới. Nhƣ vậy, NHTM đã khắc phục đƣợc những bất cập về khoảng 
cách địa lý giữa các quốc gia, giúp đẩy nhanh thời gian cũng nhƣ tốc độ 
thanhtoán. Kết quả là, quá trình thanh toán đƣợc thực hiện với thời gian và chi 
phí hợp lý nhất. 
 - Vai trò ngƣời bảo lãnh: NHTM là tổ chức có tiềm lực tài chính rất 
lớn. Vì vậy, NH có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Nghiệp vụ bảo lãnh 
 7 
của NHTM đang ngày càng phát triển khi xu thế hội nhập đang diễn ra trên 
toàn thế giới trong những năm gần đây. Đây là việc các NH cam kết sẽ thanh 
toán cho khách hàng khi ngƣời đƣợc bảo lãnh mất khả năng thanh toán (ví dụ 
nhƣ phát hành thƣ tín dụng ). NH thƣờng bảo lãnh cho khách hàng của mình 
mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán... Vai trò này đặc 
biệt quan trọng trong mua bán quốc tế, nó giúp thúc đẩy sự hợp tác xuyên 
quốc gia. 
 - Vai trò thực hiện chính sách: các NHTM thực hiện các chính sách 
phát triển kinh tế của Nhà nƣớc thông qua các chính sách về đầu tƣ vốn, chính 
sách về tín dụng, về lãi suất... Ví dụ nhƣ, Ngân hàng Nông nghiệp và phát 
triển nông thôn có những chính sách ƣu đãi về lãi suất đối với các hộ nông 
dân. Lãi suất cho vay của ngân hàng này áp dụng cho các tổ chức, cá nhân 
thông thƣờng là 1%/tháng, trong khi đó lãi suất cho ngƣời nghèo vay vốn để 
thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, làm kinh tế nông nghiệp chỉ có 
0,8%/ tháng. Thông qua vai trò này, NHTM đã góp phần điều tiết sự tăng 
trƣởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội. 
2. Các hoạt động cơ bản của NHTM 
NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ thực hiện các hoạt động cơ 
bản nhƣ: huy động vốn, tín dụng, thanh toán... Các hoạt động này có mối 
quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, và bổ trợ cho nhau cùng hoạt 
động một cách hiệu quả hơn. 
 Hoạt động huy động vốn 
Đây là hoạt động cơ bản nhất của NHTM. Không một NH nào có thể 
tồn tại và phát triển mà không có hoạt động huy động vốn. Nguồn vốn của 
NHTM là một yếu tố quyết định đến quy mô hoạt động, uy tín và khả năng 
cạnh tranh trên thị trƣờng tài chính. Hoạt động huy động vốn đƣợc ví nhƣ đầu 
vào cho quá trình tạo ra các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. 
Một NHTM có thể sử dụng một trong bốn hình thức huy động vốn sau: 
 8 
- Nhận tiền gửi : NH nhận tiền gửi từ các cá nhân, hộ gia đình, các tổ 
chức tín dụng khác dƣới hình thức tiền gửi có kì hạn, không kì hạn và các loại 
tiền gửi khác. NH áp dụng các mức lãi suất khác nhau tuỳ theo yêu cầu của 
khách hàng đến gửi tiền. Thông thƣờng, thời gian gửi tiền càng dài thì lãi suất 
càng cao, tức là tiền gửi theo kỳ hạn năm có lãi suất cao hơn tiền gửi theo kỳ 
hạn tháng và tiền gửi không kỳ hạn thƣờng có lãi suất thấp nhất. Tiền gửi 
không kỳ hạn cho phép khách hàng có thể rút tiền bất cứ thời điểm nào trong 
thời gian giao dịch của ngân hàng. 
- Phát hành các giấy tờ có giá : NHTM cũng cũng nhƣ các tổ chức tín 
dụng khác, khi đƣợc Thống Đốc NHNN chấp nhận, thì đƣợc phép phát hành 
các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu cùng các giấy tờ có giá khác để huy động 
vốn từ các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nƣớc. 
- Vay vốn của TCTD khác : Khi NHTM không đủ vốn để phục vụ 
khách hàng và thực hiện hoạt động kinh doanh của mình thì NHTM có thể 
vay vốn từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nƣớc. 
- Vay vốn của NHNN : Thực chất đây là việc NHTM vay vốn ngắn 
hạn từ NHNN dƣới hình thức tái cấp vốn. NHNN thực hiện việc tái cấp vốn 
theo các nghiệp vụ sau: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết 
khấu thƣơng phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay có bảo đảm 
bằng việc cầm cố thƣơng phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác (Theo 
điều 17, điều 20 Luật NHNN Việt Nam). 
 Hoạt động tín dụng 
Tín dụng là một hoạt động chủ chốt của NHTM để tạo ra tiền. Đây là 
nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của NH. Chỉ có lãi suất thu từ nghiệp vụ tín dụng 
mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi 
phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tƣ... Nhìn chung, 
các khoản mục thuộc tài sản có của NH, nghiệp vụ tín dụng chiếm tỷ trọng 
 9 
lớn nhất, có thể lên tới 70 đến 80% tài sản có. Các nghiệp vụ tín dụng của 
NHTM có thể có các hình thức sau: 
 - Căn cứ vào thời gian cấp tín dụng: có tín dụng có kỳ hạn và tín dụng 
không kỳ hạn. 
 - Căn cứ theo lĩnh vực đầu tƣ: có tín dụng sản xuất kinh doanh và tín 
dụng tiêu dùng. 
 - Căn cứ theo thành phần kinh tế: có Tín dụng doanh nghiệp Nhà nƣớc, 
tín dụng kinh tế tập thể, tín dụng kinh tế tƣ nhân, tín dụng kinh tế cá thể, kinh 
tế hỗn hợp. 
 - Căn cứ theo phƣơng thức hoàn trả: có cho vay hoàn trả một lần và 
cho vay trả góp. 
 - Căn cứ vào kỹ thuật cấp tín dụng: có tín dụng thấu chi, chiết khấu 
thƣơng phiếu, tín dụng thuê mua, tín dụng trả góp, tín dụng bảo lãnh, tín dụng 
vãng lai, tín dụng cầm đồ ... 
 Hoạt động thanh toán 
Đây là việc NHTM đại diện cho khách hàng thanh toán những khoản 
hàng hoá và dịch vụ mà khách hàng đã tiêu dùng theo lệnh của khách hàng. 
Có hai hình thức thanh toán dùng tiền mặt và không dùng tiền mặt. Thanh 
toán không dùng tiền mặt là sự vận động của tiền tệ qua chức năng phƣơng 
tiện thanh toán giữa các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế thông qua vai trò 
trung gian của ngân hàng bằng cách trích chuyển tiền từ tài khoản của ngƣời 
này sang tài khoản của ngƣời khác. Trong đó bao gồm các hình thức thanh 
toán sau: 
 - Thanh toán bằng séc: Séc là một lệnh trả tiền do chủ tài khoản ký 
phát hoặc ngƣời đƣợc uỷ quyền giao trực tiếp cho ngƣời thụ hƣởng để thanh 
toán tiền hàng hoá dịch vụ hoặc để trả nợ. 
 - Uỷ nhiệm chi: Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản giao 
trực tiếp cho ngân hàng để thanh toán tiền hàng hoặc dịch vụ đã nhận. Uỷ 
 10 
nhiệm chi đƣợc dùng để thanh toán các khoản hàng hoá và dịch vụ hoặc 
chuyển tiền giữa hai đơn vị tín nhiệm lẫn nhau. 
 - Uỷ nhiệm thu: Uỷ nhiệm thu là chứng từ ngƣời bán nhờ ngân hàng 
thu hộ tiền hàng hoá dịch vụ đã cung cấp cho ngƣời mua. Khi nhận đƣợc giấy 
uỷ nhiệm thu, ngân hàng bên mua phải trích tài khoản của bên mua để thanh 
toán trong một ngày làm việc nếu bên mua không đủ tiền trả thì bên mua sẽ 
phải chịu một khoản tiền phạt. 
 - Thanh toán bằng L/C: là một hình thức thanh toán có bảo đảm của 
ngân hàng đối với cả ngƣời mua và ngƣời bán. Ngƣời bán nhận đƣợc tiền nếu 
cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho ngƣời mua theo đúng hợp đồng. Ngƣời mua 
chỉ phải trả tiền khi nhận đƣợc hàng hoá theo đúng hợp đồng. 
 - Thanh toán bằng thẻ: Đây là một hình thức thanh toán hiện đại có 
nhiều tiện ích dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, giúp khách hàng có thể 
gửi tiền ở một nơi và rút tiền ở bất kỳ máy rút tiền nào trong hệ thống đƣợc 
ATM cho phép. Khách hàng cũng có thể sử dụng thẻ thanh toán để chi trả cho 
các dịch vụ hàng ngày của mình. 
Ngoài các hoạt động kể trên, NHTM còn thực hiện các hoạt động bảo 
lãnh, tài trợ, môi giới… 
II. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG 
MẠI 
1. Vốn và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM 
 Khái niệm về vốn 
Sự phát triển kinh tế luôn gắn liền với vốn. Trong bất cứ thời kỳ phát 
triển kinh tế nào cũng vậy, vốn là điều kiện không thể thiếu đƣợc để thành lập 
một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn đối 
với sự phát triển kinh tế trƣớc hết là tiền, nhƣng không phải chỉ là vốn bằng 
tiền. Mặc dù vốn bằng tiền có ý nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế hàng 
hoá tiền tệ 
 11 
Nhƣ vậy, xét theo nghĩa rộng, vốn là toàn bộ những tài sản tồn tại dƣới 
tất cả các hình thái mà một xã hội, một đất nƣớc có đƣợc ở một thời điểm hay 
một thời kỳ nhất định, có thể chi phối và sử dụng đƣợc cho việc xây dựng, 
phát triển đất nƣớc, hoạt động của doanh nghiệp và nhu cầu của hộ gia đình. 
Vốn tiền tệ, đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp, là là biểu hiện bằng tiền giá trị 
của các tài sản hữu hình, tài sản vô hình, tài sản tài chính đƣợc đầu tƣ vào các 
hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại, trong đó chủ yếu là 
đầu tƣ vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ nhằm tạo ra lợi 
nhuận. 
NHTM là một tổ chức tài chính thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, 
lấy tiền tệ làm đối tƣợng kinh doanh. Do vậy, vốn của NHTM chủ yếu là vốn 
bằng tiền. Vốn của NHTM có mối quan hệ hữu cơ, có tác động qua lại với các 
loại vốn khác trong nền kinh tế. Điều này thể hiện rõ nét trong điều kiện nền 
kinh tế thị trƣờng - một nền kinh tế mà tại đó quan hệ hàng hoá - tiền tệ phát 
triển ở mức cao chƣa từng có trong lịch sử nhân loại. Ngoài nguồn vốn tự có 
của mình, doanh nghiệp phải đi vay số vốn còn thiếu mà trong đó phần quan 
trọng là vay vốn tại các NHTM. Vậy, vốn của NHTM là những hình thái giá 
trị do NHTM tạo lập và sử dụng trong quá trình kinh doanh tiền tệ, tín dụng 
và các dịch vụ ngân hàng khác. 
Xuất phát từ yêu cầu quản lý và mục đích nghiên cứu, các nhà kinh tế 
học đã đƣa ra nhiều tiêu chí để phân loại vốn trong NHTM. Căn cứ vào thời 
hạn của vốn, vốn đƣợc chia thành vốn ngắn hạn (thời hạn dƣới 12 tháng), vốn 
trung hạn (thời hạn từ 1 đến 5 năm) và vốn dài hạn (thời hạn trên 5 năm); căn 
cứ vào đối tƣợng huy động vốn, vốn gồm có vốn từ dân cƣ, vốn từ các TCKT 
và vốn từ thị trƣờng liên NH; căn cứ theo loại tiền có vốn nội tệ và vốn ngoại 
tệ; căn cứ vào nguồn gốc của vốn có vốn tự có của NH và vốn huy động từ 
các nguồn khác. 
 Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM 
 12 
Đối tƣợng kinh doanh của NHTM chính là tiền tệ. NHTM thực hiện 
các nghiệp vụ tập trung, huy động vốn; sau đó cho vay, phân bổ lại vốn dƣới 
hình thức tiền tệ. Nhƣ vậy, nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và 
có vai trò quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM. Vốn có 
một số vai trò cơ bản sau trong hoạt động của NHTM. 
 Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức hoạt động kinh doanh 
Giống nhƣ bất kì một doanh nghiệp nào khác, NHTM muốn thực hiện 
các hoạt động kinh