Khóa luận Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam chi nhánh Cửa Lò

Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, nền kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực theo hướng công nghiệp hoỏ - hiện đại húa nhằm đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 trong đó phát huy nội lực trong nước là chính đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ từ bên ngoài. Như vậy nền kinh tế đòi hỏi phải cần một lượng vốn rất lớn bởi vốn là yếu tố quan trọng góp phần vào thành quả chung của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, dần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, tụt hậu, từ đó tiến nhanh, tiến chắc ngang với các nước trong khu vực và thế giới. Điều này được thể hiện trong văn kiện đại hội đảng IX “Chúng ta không thể thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nếu không huy động được nhiều nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn trong nước mà “nòng cốt” để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng này phải là các NHTM, các công ty tài chính ”. NHTM với vai trò là trung gian tài chính trong việc huy động vốn để tái cấp vốn cho nền kinh tế là quan trọng nhất. Tuy nhiên NH là một loại hình doanh ngiệp đặc biệt kinh doanh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ cho nên bắt buộc phải hoạt động có hiệu quả để vừa đảm bảo mục tiêu an toàn trong hoạt động vừa có thể đứng vững trong nên kinh tế thị trường và qua đó thực hiện có hiệu quả vai trò dẫn vốn của mình. NHTMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Cửa Lò là một chi nhánh thành viên của NHTMCP Công thương Việt Nam. Cũng giống như các NHTM khác Chi nhánh rất quan tâm tới nguồn vốn huy động từ nền kinh tế để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với hoạt động của Chi nhánh, trong quá trình thực tập và nghiên cứu hoạt động của Chi nhánh em chọn đề tài khúa luận tốt nghiệp: “ Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHTMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Cửa Lò”. Khúa luận tốt nghiệp của em gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại NHTMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Cửa Lò Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHTMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Cửa Lò

doc103 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2010 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam chi nhánh Cửa Lò, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, nền kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực theo hướng công nghiệp hoỏ - hiện đại húa nhằm đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 trong đó phát huy nội lực trong nước là chính đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ từ bên ngoài. Như vậy nền kinh tế đòi hỏi phải cần một lượng vốn rất lớn bởi vốn là yếu tố quan trọng góp phần vào thành quả chung của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, dần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, tụt hậu, từ đó tiến nhanh, tiến chắc ngang với các nước trong khu vực và thế giới. Điều này được thể hiện trong văn kiện đại hội đảng IX “Chúng ta không thể thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nếu không huy động được nhiều nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn trong nước mà “nòng cốt” để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng này phải là các NHTM, các công ty tài chính ”. NHTM với vai trò là trung gian tài chính trong việc huy động vốn để tái cấp vốn cho nền kinh tế là quan trọng nhất. Tuy nhiên NH là một loại hình doanh ngiệp đặc biệt kinh doanh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ cho nên bắt buộc phải hoạt động có hiệu quả để vừa đảm bảo mục tiêu an toàn trong hoạt động vừa có thể đứng vững trong nên kinh tế thị trường và qua đó thực hiện có hiệu quả vai trò dẫn vốn của mình. NHTMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Cửa Lò là một chi nhánh thành viên của NHTMCP Công thương Việt Nam. Cũng giống như các NHTM khác Chi nhánh rất quan tâm tới nguồn vốn huy động từ nền kinh tế để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh. Thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với hoạt động của Chi nhánh, trong quá trình thực tập và nghiên cứu hoạt động của Chi nhánh em chọn đề tài khúa luận tốt nghiệp: “ Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHTMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Cửa Lò”. Khúa luận tốt nghiệp của em gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại NHTMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Cửa Lò Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHTMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Cửa Lò Do thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm bản thân còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, để đề tài được hoàn thiện hơn, có ý nghĩa thực tiễn hơn, góp phần hoàn thiện chính sách huy động vốn của NHTMCP Công thương Việt Nam chi nhánh Cửa Lò. Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình hướng dẫn chỉ bảo của thầy giáo - TS. Mai Thanh Quế đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1. NHTM và vốn của NHTM 1.1.1 Tổng quan về NHTM. 1.1.1.1 Khái niệm NHTM. Ngân hàng được hình thành và phát triển trải qua một quá trình lâu dài với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu vào khoảng thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, các ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và thực hiện các chức năng như nhau đó là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế và phát hành giấy bạc ngân hàng. Sang thế kỷ XVIII, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển. Việc các ngân hàng cùng thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng làm cho lưu thông có nhiều loại giấy bạc ngân hàng khác nhau đã gây cản trở cho quá trình lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều này đã dẫn đến sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng. Lúc này hệ thống ngân hàng được phân thành hai nhóm: thứ nhất là nhóm ngân hàng được được phép phát hành tiền được gọi là ngân hàng phát hành, sau chuyển thành NHTW. Thứ hai là các ngân hàng không được phép phát hành tiền, chỉ làm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế . Ngày nay, hệ thống ngân hàng của hầu hết các nước trên thế giới là ngân hàng hai cấp trong đó có việt nam: NHTW là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, là ngân hàng phát hành, ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng của chính phủ còn các NHTM thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ. Do vậy ở mỗi quốc gia khác nhau, hình thành một khái niệm khác nhau về NHTM. Ở Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng ban hành ngày 23/5/1990 xác định “Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Luật các TCTD được bổ sung sửa đổi năm 2004, điều 20 giải thích: “ TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo qui định của luật này và các qui định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng” và “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 1.1.1.2 Lịch sử hình thành Lịch sử đã ghi nhận sự ra đời và phát triển của ngành Ngân hàng được quyết định bởi quá trình phát triển của các quan hệ hàng hoá-tiền tệ. Nghề Ngân hàng bắt đầu từ nghiệp vụ đổi tiền và đúc tiền của các thợ vàng, việc lưu hành từng đồng tiền của mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ kết hợp với thương mại và giao lưu quốc tế đã tạo ra nhu cầu đổi tiền hoặc đúc tiền tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại. Người làm nghề đúc tiền hoặc đổi tiền thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ hoặc ngược lại, lợi nhuận thu được là chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Bên cạnh các nghệp vụ trên, người làm nghề đổi tiền, đúc tiền còn thực hiện cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Việc cất trữ hộ người khác là điều kiện để thực hiện thanh toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt, với ưu điểm của thanh toán không dùng tiền mặt đã thu hút khách hàng gửi tiền nhiều hơn. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền, vừa cất trữ hộ và thanh toán hộ. Các cửa hàng vàng bạc loại này gọi là Ngân hàng của những thợ vàng. Ban đầu các Ngân hàng hoạt động bằng vốn tự có để tài trợ cho các hoạt động của mình nhưng điều đó không kéo dài. Từ thực tiễn, các Ngân hàng nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền và người rút tiền song tất cả các người gửỉ tiền không cùng đồng thời rút tiền ra cùng một lúc nên luôn có một lượng tồn khoản khá lớn nằm tại Ngân hàng. Do tính chất vô danh của tiền, chủ Ngân hàng có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách hàng để cho vay. Từ đó các hoạt động cơ bản của Ngân hàng ngày càng hình thành và phát triển 1.1.1.3 Lịch sử phát triển Hình thức Ngân hàng đầu tiên là Ngân hàng của các thợ vàng hoặc của những kẻ cho vay nặng lãi - Thực hiện cho vay đối với các cá nhân, chủ yếu là những người giàu nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng. Nhiều chủ Ngân hàng lớn còn mở rộng cho vay đối với các vua chúa- hình thức cho vay chủ yếu là thấu chi. Sau này khi sản xuất phát triển hơn, quan hệ trao đổi, mua bán sản phẩm, hàng hoá giữa các vùng, các quốc gia diễn ra sôi động hơn thì các nhà buôn nhận thấy rằng các Ngân hàng thợ vàng này không đáp ứng được nhu cầu của họ. Do vậy một só nhà buôn đã tự thành lập Ngân hàng và gọi là NHTM. Như vậy NHTM được thành lập xuất phát từ tư bản thương nghiệp gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Các NHTM này vừa thực hiện phát hành tiền vừa thực hiện kinh doanh do vậy mà trong lưu thông đã tồn tại nhiều loại tiền khác nhau gây khó khăn cho lưu thông. Các ngniệp vụ Ngân hàng thời kỳ này đã bao gồm hầu hết các nghiệp vụ của Ngân hàng đương đại. Tuy nhiên điểm khác biệt giữa NHTM và Ngân hàng thợ vàng là NHTM chủ yếu cho các nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu .Đây là các khoản cho vay ngắn hạn dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hoá với lãi suất thấp hơn so với lợi nhuận được tạo ra do sử dụng tiền vay. Để đảm bảo an toàn tài sản, ban đầu Ngân hàng không cho vay đối với người tiêu dùng, không cho vay đối với nhà nước, không cho vay trung và dài hạn. Đến cuối thế kỷ XVIII lưu thông hàng hoá được mở rộng cả về qui mô và phạm vi. Trong bối cảnh ấy việc có nhiều Ngân hàng phát hành với nhiều loại giấy bạc khác nhau đã cản trở quá trình phát triển kinh tế. Mặt khác sự phá sản của nhiều Ngân hàng đã gây tổn thất lớn cho người gửi tiền nói riêng và nền kinh tế nói chung. Đặc biệt sau khủng hoảng kinh tế 1929-1933 thì xu hướng chung trên toàn thế giới là quốc hữu hoá các Ngân hàng phát hành, các Ngân hàng này không được phép phát hành kỳ phiếu, phát hành giấy bạc Ngân hàng. Chuyển chức năng này về NHTƯ, NHTƯ không chỉ phát hành giấy bạc Ngân hàng mà còn thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực Tiền tệ-Tín dụng-Ngân hàng, đó là sự ra đời của NHTƯ. Còn các Ngân hàng khác chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi, cho vay, đầu tư và làm dịch vụ thanh toán và goi các Ngân hàng này là các Ngân hàng chuyên doanh hay Ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và xu thế chung của nền kinh tế thế giới thì hệ thống NHTM đã phát triển ngày càng đa dạng về loại hình, phạm vi, về qui mô, về chất lượng hoạt động và có mối liên kết trên toàn cầu. 1.1.1.4 Chức năng của NHTM. - Chức năng trung gian TD. NHTM làm trung gian TD trong nền kinh tế, NHTM thực hiện các nghiệp vụ: Thứ nhất, NHTM huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các chủ thể kinh tế trong xã hội, từ các doanh nghiệp, hộ gia điình, cá hân, cơ quan Nhà nước, NH Trung Ương, NH thương mại và các tổ chức TD khác… để hình thành nguồn vốn cho vay. Thứ hai, NHTM dùng nguồn vốn đã huy động được để cho vay đối với các chu thể kinh tế thiếu vốn - có nhu cầu bổ sung vốn, gửi vào tài khoản dự trữ bắt buộc hoặc tài khoản thanh toán tại NH Trung Ương, NHTM khác hoặc các tổ chức TD khác. Như vậy, hoạt động của NHTM là “đi vay để cho vay”, là “cầu nối” giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn. Những hoạt động trên mang tính chất kinh doanh, bởi vì khi cho vay NHTM đặt ra một mức lãi suất cao hơn mức lãi suất huy động vốn. Chênh lệch giữa hai mức lãi suất là để bù đắp chi phí hoạt động TD và phần lợi nhuận của NH. Chức năng trung gian TD xuất phát từ đạc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội. Hơn nữa, NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ - TD, có khả năng nắm bắt tình hình cung cầu TD. Thu hút vốn tiền gửi với khối lượng lớn, NHTM có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu TD cả về khối lượng vốn cho vay và thời hạn cho vay. Chức năng trung gian TD có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả các đối tác trong quan hệ TD: Người gửi tiền thu được lợi từ vốn tạm thời nhàn rỗi với khoản lãi tiền gửi. Hơn nữa, NH còn đảm bảo an toàn cho các khoản tiền gửi và cung cấp cho khách hàng các dịch vụ thanh toán tiện lợi. Người đi vay thoả mãn được nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng, mà không phải tốn kém nhiều chi phí và thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung cấp vốn. Bản thân NHTM sẽ thu được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Lợi nhuận này là cơ sở để tồn tại và phát triển NH. Đối với nền kinh tế, chức năng này góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền và kiềm chế lạm phát. Từ những nội dung trên, có thể kết luận rằng chức năng trung gian TD là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của NHTM. - Chức năng trung gian thanh toán. NHTM làm trung gian thanh toán trên cơ sở những hoạt động đi vay để cho vay. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản chi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là tiền đề để NH thực hiện chức năng này. Mặt khác, việc thanh toán bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế như không an toàn, chi phí lớn… đã tạo nên nhu cầu thanh toán qua NH. Khi làm trung gian thanh toán. NHTM tiến hành những nghiệp vụ như: mở tài khoản tiền gửi, nhận vốn tiền gửi vào tài khoản và thanh toán yêu cầu của khách hàng. Trong đó, thanh toán theo yêu cầu của khách hàng là kết quả sau khi thực hiện hai công việc trên. NH trích tiền từ tài khoản tiền gửi của khách hàng để thanh otán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi, tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của khách hàng. Với sự ra đời và phát triển của NHTM, phần lớn các khoản thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ của xã hội được thực hiện qua NH với những hình thức thanh toán tiên tiến và thủ tục ngày càng đơn giản. Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế: Nhờ tập trung công việc thanh toán của toàn xã hội vào NH, nên mọi nguồn thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm chi phí. Điều này góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá, tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất. Do thực hiện chức năng trung gian thanh toán, NHTM có điều kiện huy động tiền gửi của khách hàng tới mức tối đa, mở rộng cho vay và đầu tư, đẩy mạnh hoạt động của NH. Qua chức năng này, NHTM đã góp phần giám sát kỷ luật hợp đồng kinh tế, tài chính và thanh toán theo đúng quy định của pháp luật Nhà nước. - Chức năng tạo tiền. Chức năng này được thực hiện trên cơ sở: Khi hệ thống NH hai cấp đã được hình thành, các NH không còn hoạt động riêng lẻ mà theo hệ thống. Trong đó NH Trung Ương giữ độc quyền phát hành tờ giấy bạcNH và với vai trò NH của các NH. Còn các NHTM chuyên kinh doanh tiền tệ trong mối quan hệ với các doanh nghiệp và cá nhân…. Với chức năng trung gian TD và trung gian thanh toán, NHTM có khả năng tạo ra tiền gửi thanh toán. Thông qua chức năng trung gian TD, NH sử dụng số tiền vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng để thanh toán chuyển khoản cho khách hàng ở NH khác và chỉ khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, NH mới bắt đầu tạo tiền. Từ một khoản tiền gửi ban đầu, thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong hệ thống NHTM, số tiền gửi đã tăng lên gấp đôi với lượng tiền gửi ban đầu. Khả năng tạo tiền của NHTM phụ thuộc vào các yếu tố như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa và tỷ lệ giữa tiền mặt so với tiền gửi thanh toán. Mở rộng tiền gửi là chức năng vốn có của hệ thống NHTM, gắn liền với hoạt động TD và thanh toán. Hay nói cách khác khi NH cung ứng TD bằng cách chuyển khoản là nó tạo ra tiền cung ứng, khi thu nợ lượng tiền cung ứng giảm xuống. Như vậy lượng tiền giao dịch không chỉ là giấy bạc NH do NH Trung Ương phát hành, mà bộ phận quan trọng là do tiền ghi sổ do các NHTM tạo ra. Chức năng tạo tiền có ý nghĩa quan trọng: Khối lượng tiền do các NHTM tạo ra có ý nghĩa lớn, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của quá trình sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền của xã hội. Việc tạo ra tiền chuyển khoản để thay thế cho tiền mặt là một sáng kiến quan trọng thứ hai của lịch sử hoạt động NH. Chính nhờ phương thức tạo tiền đã tiết kiệm được chi phí lưu thông và NH trở thành trung tâm của đời sống kinh tế - xã hội. 1.1.1.5 Hoạt động kinh doanh của NHTM. ( Hoạt động tạo lập nguồn vốn. NHTM là một loại hình doanh nghiệp, bởi vậy muốn mở rộng các hoạt động kinh doanh, nó phải tự lập được nguồn vốn. Vốn tự có. Vốn tự có của NHTM bao gồm vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài khoản nợ khác theo quy định của NH Trung Ương. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn knih doanh của ngân hang, song nó có ý nghĩa rất quan trọng: Là cơ sở để thu hút nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín của NH đối với khách hàng, sử dụng xây dung cơ sở vật chất kỹ thuật cho NH. Đồng thời, vốn tự có còn là cơ sở thu hút được nhiều vốn huy động và xác định hệ số an toàn trong kinh doanh của NH. Bởi vậy, các NHTM không ngừng tăng cường bổ sung vốn điều lệ, trích lập các quỹ dự trữ và sử dụng các tài khoản nợ. Vốn huy động. Huy động vốn nhàn rỗi là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của NHTM. Nó tạo ra nguồn vốn chủ lực trong kinh doanh. NHTM thường huy động vốn nhàn rỗi của xã hội qua các hình thúc nhận tiền gửi, phát hành các chứng từ có giá. Vốn vay của các NH. Trong quá trình hoạt động kinh doanh một NHTM có thể thiếu vốn ngắn hạn để thanh toán. NH giải quyết bằng cách đi vay các NHTM và các tổ chức TD khác hoặc của NH Trung Ương. Vay vốn của các NHTM và tổ chức TD khác được thực hiện thông qua thị trường liên NH. Việc vay vốn này được thực hiện ở NHTM Trung Ương và sau đó sẽ điều chỉnh cho các chi nhánh trong hệ thống. Vay vốn của NH Trung Ương được thực hiện thông qua hình thức tái cấp vốn, vay bổ sung vốn thanh toán bù trừ giữa các NHTM và vay khi NH mất khả năng thanh toán. Huy động vốn trong thanh toán và vốn khác. Trong quá trình thực hiện chức năng trung gian thanh toán, NH thanh toán không dùng tiền mặt theo lệnh của khách hàng, như vậy NH đã huy động được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi dưới hình thức: tiền ký quỹ vào tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền chu chuyển trong thanh toán. Khi thực hiện các dịch vụ, NH huy động được vốn uỷ thác đầu tư, tài trợ của Chính phủ hoặc bên nước ngoài. Trong thời gian chờ giải ngân, NHTM có thể huy động làm nguồn vốn kinh doanh. ( Hoạt động sử dụng vốn. Sử dụng vốn là hoạt động kinh doanh chủ yếu và quan trọng nhất của NHTM. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sử dụng vốn ngày càng đa dạng và được thực hiện dưới nhiều hình thức: NHTM cho vay đối với khách hàng: Đây là hướng cơ bản trong sử dụng vốn của NH, gồm có cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn. Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn dưới 12 tháng. Nó là loại cho vay phổ biến của NHTM, nhằm bổ sung vốn lưu động cho khách hàng. Cho vay trung và dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 12 tháng. Loại cho vay này để khách hàng thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế. Mặt khác loại cho vay này cũng phù hợp với khả năng huy động vốn theo chiều hướng gia tăng của NHTM và nhu cầu đa dạng của đối tác xin vay. Hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư của NHTM thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: Đầu tư chứng khoán NH mua chứng khoán và trở thành người sở hữu chứng khoán. Chứng khoán mà NH có thể mua là tín phiếu kho bạc ngắn hạn, trái phiếu Chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp. Mua chứng khoán mang lại lợi ích cho NH, đó là NH sử dụng tối đa nguồn vốn đã huy động được để thu lợi nhuận. Mặt khác, tăng cường khả năng thanh khoản cho các khoản dự trữ của mình. Hơn nữa, thông qua việc mua cổ phiếu NHTM còn có thể tham gia thành lập và quản lý các công ty cổ phần. Tuy nhiên, NHTM chỉ được đầu tư chứng khoán ở một giới hạn nhất định theo quy định của pháp luật Nhà nước. Đầu tư vốn liên doanh, liên kết là việc NH bỏ vốn ra để liên doanh, liên kết với các NHTM , tổ chức TD khác hoặc các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất thương mại, dịch vụ để tăng phần vốn góp, tạo ra những lợi thế cho NH và nền kinh tế. ( Hoạt động dịch vụ NH. Dịch vụ NH được phát triển mạnh trong điều kiện kinh tế thị trường và đưa lại nguồn thu đáng kể cho các NHTM. Hoạt động dịch vụ được thực hiện dưới các hình thức sau: Thanh toán, NHTM là một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Dịch vụ này bao gồm hạch toán không dùng tiền mặt, hoặc thu chi tiền mặt, qua NH. Đây là một nghiệp vụ truyền thống, đồng thời được phát triển mạnh trong nền kinh tế thị trường. Thông qua hoạt động thanh toán, NH thu được lệ phí, tập trung được nhiều nguồn vốn và thông qua đó kiểm soát được chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân. Bảo lãnh là nghiệp vụ trong đó NHTM chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên được bảo lãnh, nếu họ không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với yêu cầu của một đối tác nào đó. Bảo lãnh được thực hiện dưới nhiều hình thức, như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh chất lượng và khối lượng hàng hoá…. Kinh doanh ngoại tệ và vàng, NH mua bán ngoại tệ và vàng ở thị trường trong nước và quốc tế. Lợi nhuận mang lại cho NH là chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Môi giới kinh doanh chứng khoán, NH làm môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Hoạt động uỷ tháclà NH làm theo sự uỷ thác của khách hàng về một số công việc như quản lý tài sản, đại lý và đại diện tại các tổ chức kinh tế hoặc cơ quan pháp luật. Hoạt động thông tin, tư vấn.
Luận văn liên quan