Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được ví như hệ thần kinh của nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt lành mạnh và hiệu quả là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bổ và được sử dụng hiệu quả. Bên cạnh đó hệ thống ngân hàng còn kích thích tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền và tạo công ăn việc làm. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, việc gặp phải các rủi ro trong hoạt động của các tổ chức nói chung là không thể tránh khỏi và hệ thống ngân hàng càng không thể nằm ngoài quy luật ấy. Và vì sự ảnh hưởng đặc biệt như đã nêu trên, sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng ảnh hưởng rất tiêu cực đến toàn bộ đời sống kinh tế chính trị, xã hội của một nước và có thể lan rộng sang quy mô quốc tế.
Trong hệ thống ngân hàng quốc gia, NHTM là định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất của nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ được huy động, tập trung lại, đồng thời sử dụng số vốn đó để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân để phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống ngân hàng tại Việt Nam khi chuyển qua cơ chế thị trường cũng đã có những thành tựu và lớn mạnh không ngừng nhưng cũng vấp phải những rủi ro và tổn thất nặng nề. Năm 2008, ngành ngân hàng Việt Nam đã trải qua nhiều biến động khó khăn đó là trải qua các “cơn bão” lạm phát, sụp đổ tài chính ở Mỹ, cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, cạnh tranh với thị trường chứng khoán Tuy vậy đến năm 2009, dấu hiệu về tình hình tài chính của ngân hàng đã có nhiều khả quan.
90 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2060 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác kiểm soát rủi ro thường gặp trong hoạt động tín dụng của VietcomBank chi nhánh Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự cần thiết của nghiên cứu
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được ví như hệ thần kinh của nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt lành mạnh và hiệu quả là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bổ và được sử dụng hiệu quả. Bên cạnh đó hệ thống ngân hàng còn kích thích tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền và tạo công ăn việc làm. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, việc gặp phải các rủi ro trong hoạt động của các tổ chức nói chung là không thể tránh khỏi và hệ thống ngân hàng càng không thể nằm ngoài quy luật ấy. Và vì sự ảnh hưởng đặc biệt như đã nêu trên, sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng ảnh hưởng rất tiêu cực đến toàn bộ đời sống kinh tế chính trị, xã hội của một nước và có thể lan rộng sang quy mô quốc tế.
Trong hệ thống ngân hàng quốc gia, NHTM là định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất của nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ được huy động, tập trung lại, đồng thời sử dụng số vốn đó để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế, cá nhân để phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống ngân hàng tại Việt Nam khi chuyển qua cơ chế thị trường cũng đã có những thành tựu và lớn mạnh không ngừng nhưng cũng vấp phải những rủi ro và tổn thất nặng nề. Năm 2008, ngành ngân hàng Việt Nam đã trải qua nhiều biến động khó khăn đó là trải qua các “cơn bão” lạm phát, sụp đổ tài chính ở Mỹ, cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, cạnh tranh với thị trường chứng khoán… Tuy vậy đến năm 2009, dấu hiệu về tình hình tài chính của ngân hàng đã có nhiều khả quan.
Nổi bật về các thành tựu to lớn trong hệ thống NHTM ở Việt Nam, không thể không nhắc đến NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Viết tắt là VCB). Với kinh nghiệm hoạt động trải qua 45 năm, VCB đã khẳng định vị thế là Ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam. Trong thời gian tiếp theo, VCB sẽ tiếp tục kiên trì thực hiện các giải pháp chiến lược để từng bước thực hiện Tầm nhìn 2015 đứng trong hàng ngũ 70 định chế tài chính hàng đầu Châu Á với phạm vi hoạt động cả trong nước và quốc tế. Những giải pháp chủ đạo bao gồm đa dạng hoá hình thức sở hữu nhằm nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả hoạt động; tăng cường năng lực quản trị điều hành và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng; tăng cường năng lực tài chính, nâng cao sức cạnh tranh của VCB trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; phát triển nguồn nhân lực thông qua các giải pháp đào tạo, tuyển dụng nguồn nhân tài trong và ngoài nước cũng như thu hút chất xám từ các khu vực kinh tế phát triển...
Như chúng ta đã biết, tín dụng luôn được đánh giá là một trong những loại nghiệp vụ ngân hàng phức tạp và có độ rủi ro cao, đòi hỏi các cán bộ liên quan phải am hiểu toàn diện mọi lĩnh vực, có đạo đức nghề nghiệp và phải tuân thủ cùng lúc nhiều loại chính sách và chế độ khác nhau. VCB đang trong quá trình chuyển đổi, hướng tới mô hình một NHTM đạt tiêu chuẩn quốc tế, hiện đại và vững mạnh. Muốn vậy yêu cầu kiểm soát tốt rủi ro phải được đặt lên hàng đầu, trong đó tất yếu phải có RRTD. Chính vì lý do rằng quy mô HĐTD chiếm phần lớn trong tài sản Có của NHTM và thu nhập từ HĐTD chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu nhập. Cụ thể là dù danh nghĩa là hoạt động đa năng, nhưng thu nhập từ HĐTD hiện vẫn chiếm trên/dưới 70% tổng thu nhập của từng NHTM ở Việt Nam. Quy trình cấp tín dụng đòi hỏi kĩ thuật phức tạp; sản phẩm tín dụng đa dạng; khách hàng vay vốn thuộc nhiều ngành kinh tế khác nhau, loại hình DN khác nhau, điều kiện kinh doanh khác nhau, trình độ và phẩm chất đạo đức của các nhà quản trị khác nhau. Từ đó dẫn đến HĐTD ẩn chứa rất nhiều rủi ro.
Mục tiêu nghiên cứu
( Xuất phát từ đặc thù của HĐTD, đề tài có thể cung cấp thêm các nhận biết về rủi ro phổ biến và thường gặp trong các nghiệp vụ.
( Tăng hiểu biết về các biện pháp mà VCB Huế thường tiến hành để kiểm soát các rủi ro trong HĐTD.
( Sử dụng kiến thức và hiểu biết của một sinh viên năm cuối chuyên ngành Kế toán - kiểm toán, đề xuất một số biện pháp góp phần vào việc phát hiện và ngăn ngừa các rủi ro trong HĐTD.
Đối tượng nghiên cứu
( Công tác kiểm soát rủi ro trong HĐTD của NHTM cổ phần Ngoại thương Chi nhánh Huế.
Phạm vi nghiên cứu
( Nội dung: Đề tài nghiên cứu về công tác kiểm soát các rủi ro thường gặp trong HĐTD của VCB Huế.
( Thời gian: Đề tài được thực hiện từ tháng đầu tháng 2/2010 đến tháng hết tháng 4/2010.
( Số liệu thu thập từ đầu năm 2008 đến hết năm 2009.
( Không gian: Đề tài nghiên cứu được thực hiện tại VCB Huế - 78 Hùng Vương – Thành phố Huế.
Phương pháp nghiên cứu
( Tham khảo tài liệu chuyên ngành về kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng; Các tạp chí kinh tế (Báo giấy hoặc báo điện tử…); Khóa luận, chuyên đề của các sinh viên đã tốt nghiệp ở trường đại học kinh tế Huế, Đà Nẵng.
( Quan sát thực tế công tác của các cán bộ làm việc trong VCB Huế.
( Phỏng vấn trực tiếp các cán bộ về các thông tin trong công tác ngân hàng của phòng Kiểm tra nội bộ của VCB Huế.
( Thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu từ ngân hàng.
PHẦN II
NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KIỂM SOÁT RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về NHTM
1.1.1 Khái niệm NHTM
NHTM là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan (Trong đó hoạt động ngân hàng được hiểu là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán).
1.1.2 Chức năng NHTM
( Chức năng trung gian tín dụng.
( Chức năng trung gian thanh toán.
( Chức năng tạo tiền.
1.1.3 Vai trò NHTM
( NHTM giúp các DN có vốn đầu tư mở rộng SXKD, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
( Các NHTM góp phần phân bố hợp lý các nguồn lực giữa các vùng trong quốc gia, tạo điều kiện phát triển cân đối nền kinh tế.
( NHTM tạo ra môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương.
( NHTM là cầu nối cho việc phát triển nền kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia.
1.1.4 Các hoạt động chủ yếu của NHTM
( Hoạt động huy động vốn.
( Hoạt động cấp tín dụng:
Cho vay
Bảo lãnh
Chiết khấu
Cho thuê tài chính
Bao thanh toán
Tài trợ nhập khẩu
Tài trợ xuất khẩu
Cho vay thấu chi
Cho vay theo hạn mức tín dụng và hạn mức tín dụng dự phòng
( Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
( Các hoạt động khác:
Góp vốn và mua cổ phần
Tham gia thị trường tiền tệ
Kinh doanh ngoại hối
Ủy thác và nhận ủy thác
Cung ứng dịch vụ bảo hiểm
Tư vấn tài chính
Bảo quản vật quý giá
1.2 Khái quát về hệ thống kiểm soát nội bộ
1.2.1 Khái niệm
“Hệ thống kiểm soát nội bộ là toàn bộ các quy định về tổ chức quản lý, chức năng, nhiệm vụ, phương pháp công tác mà một đơn vị phải tuân theo.”
“Kiểm soát nội bộ là toàn bộ những chính sách và thủ tục (Kiểm soát nội bộ) do Ban Giám đốc của đơn vị thiết lập nhằm đảm bảo việc quản lý chặt chẽ và sự hiệu quả của các hoạt động trong khả năng có thể. Các thủ tục này đòi hỏi việc tuân thủ các chính sách quản lý, bảo quản tài sản, ngăn ngừa và phát hiện gian lận hoặc sai sót, tính chính xác và đầy đủ của các ghi chép kế toán và đảm bảo lập trong thời gian mong muốn”.
Hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ của các TCTD Việt Nam được xây dựng và vận hành trên cơ sở Luật các TCTD ban hành năm 1997 và Quy chế về kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 03/1998/QĐ-NHNN3 ngày 3/1/1998 của Thống đốc NHNN.
1.2.2 Nhiệm vụ
( Ngăn ngừa thiếu sót trong hệ thống xử lý nghiệp vụ: Các thủ tục kiểm soát phải được thiết kế sao cho có thể hướng các nghiệp vụ kinh tế được thực hiện đúng nguyên tắc quy định, nhằm ngăn chặn kịp thời các sai sót, nhầm lẫn vô tình hay cố ý có thể gây thất thoát tiền bạc hoặc tài sản của ngân hàng, gây ra thiệt hại trong kinh doanh.
( Bảo vệ ngân hàng trước những thất thoát tài sản có thể tránh: Ngân hàng phải giữ gìn một lượng tiền mặt lớn đủ loại bao gồm tiền mặt và các phương tiện chuyển nhượng, chúng đòi hỏi phải được bảo vệ về mặt vật chất cả trong khâu lưu trữ cũng như khi chuyển tiền. Vì lý do này ngân hàng cần phải thiết lập các quy trình hoạt động, xác định rõ giới hạn tự do cá nhân và lập ra một hệ thống kiểm soát nội bộ chặt chẽ đối với tài sản.
Ngoài đặc trưng trên, hầu hết các tài sản của ngân hàng đều không thể kiểm đếm được. Những tài sản này phần lớn bao gồm một giá trị lớn các khoản phải thu (Tiền vay phải thu, tiền lãi phải thu, khoản dự phòng nợ khó đòi), các tài sản ngoại bảng (Cam kết bảo lãnh, cam kết cho vay…) đòi hỏi ngân hàng phải đặc biệt chú trọng đến việc thiết lập một quy trình chặt chẽ đảm bảo kiểm soát được đầy đủ các tài sản nợ và có của ngân hàng.
( Đảm bảo việc chấp hành chính sách kinh doanh: Cơ cấu kiểm soát nội bộ cần được thiết lập bao gồm những thủ tục để đảm bảo chính sách kinh doanh của ngân hàng được tất cả các nhân viên ngân hàng chấp hành. Chẳng hạn cần phải thiết kế các biện pháp kiểm tra để đảm bảo rằng, các cán bộ tín dụng sẽ thực hiện các khoản cho vay đúng theo quy định của ngân hàng; các kế toán giao dịch thực hiện đúng các quy trình ngân hàng đã quy định về mở tài khoản và chuyển tiền.
1.2.3 Các bộ cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ
1.2.3.1 Môi trường kiểm soát
( Nguyên tắc và phong cách điều hành của Ban Giám đốc – Hội đồng quản trị.
( Cơ cấu tổ chức.
( Các phương pháp truyền đạt sự phân công quyền hạn.
( Vị trí của bộ phận kiểm soát nội bộ.
1.2.3.2 Mục tiêu
( Các nghiệp vụ chỉ có thể được thực hiện nếu có sự đồng ý chung hoặc cụ thể của Ban Giám đốc.
( Tất cả các nghiệp vụ và các sự kiện được hạch toán một cách nhanh chóng, đầy đủ và chính xác vào tài khoản trong kỳ kế toán phù hợp, từ đó cho phép lập báo cáo tài chính theo những chuẩn mực xác định.
( Chỉ có thể xâm nhập vào tài sản hay vào tài liệu khi có sự cho phép của Giám đốc.
( Các tài sản trên sổ kế toán được so sánh với các tài sản thực trong khoảng thời gian tương đối thường xuyên và trong trường hợp có chênh lệch, các biện pháp thích hợp được đưa ra.
1.2.3.3 Các thể thức kiểm soát
( Phân chia trách nhiệm thích hợp.
( Các thủ tục phê chuẩn đúng đắn.
( Chứng từ và sổ sách đầy đủ.
( Bảo vệ tài sản vật chất và sổ sách.
( Kiểm tra độc lập.
( Phân tích rà soát.
1.3 HĐTD của NHTM
1.3.1 Khái niệm tín dụng
“Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.”
Như vậy, tín dụng ngân hàng chứa đựng ba (03) nội dung:
( Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng.
( Sự chuyển nhượng này mang tính tạm thời hay nói cách khác là có thời hạn.
( Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí nhất định.
1.3.2 Phân loại tín dụng
Có nhiều tiêu thức phân loại tín dụng. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu:
( Dựa vào mục đích của tín dụng:
( Cho vay phục vụ SXKD công thương nghiệp.
( Cho vay tiêu dùng cá nhân.
( Cho vay bất động sản.
( Cho vay nông nghiệp.
( Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu.
( Dựa vào thời hạn tín dụng:
( Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn dưới 1 năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
( Cho vay trung hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
( Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
( Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
( Cho vay không có đảm bảo: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
( Cho vay có đảm bảo: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
( Dựa vào phương thức cho vay:
( Cho vay theo món vay.
( Cho vay theo hạn mức tín dụng.
( Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay:
( Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn.
( Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp.
( Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tùy khả năng tài chính của mình, người đi vay có thể trả nợ bất kỳ lúc nào.
1.4 Rủi ro trong tín dụng
1.4.1 Khái niệm về rủi ro trong tín dụng
“RRTD là ngôn từ thường được sử dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng hoặc trên thị trường tài chính. Đó là khả năng không chi trả được nợ của người đi vay đối với người cho vay khi đến hạn phải thanh toán. Luôn là người cho vay phải chịu rủi ro khi chấp nhận một hợp đồng cho vay tín dụng. Bất kỳ một hợp đồng cho vay nào cũng có RRTD”
“RRTD là loại rủi ro phát sinh do khách nợ không còn khả năng chi trả. Trong hoạt động ngân hàng, RRTD xảy ra khi khách hàng mất khả năng trả nợ một khoản vay nào đó.”
Như vậy, hiểu một cách khái quát RRTD là những biến cố không mong đợi xảy ra, gây thất thoát tài sản của ngân hàng trong các nghiệp vụ liên quan đến HĐTD. RRTD là loại rủi ro lớn nhất và phức tạp nhất, nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của một ngân hàng.
1.4.2 Nguyên nhân dẫn đến RRTD
RRTD xảy ra là khi khách hàng vay vốn mất khả năng trả nợ vay. Loại rủi ro này có thể phát sinh do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan từ cả hai phía khách hàng và ngân hàng. Có nhiều tiêu chí để phân loại các nguyên nhân, nhưng chủ yếu nguyên nhân được chia theo hai (02) cách sau:
1.4.2.1 Nguyên nhân do tác động khách quan, chủ quan
( RRTD do nguyên nhân khách quan:
( Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định.
- Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới.
- Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế.
- Sự tấn công của hàng nhập lậu.
- Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành.
( Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi.
- Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương.
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN.
- Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập.
( RRTD do nguyên nhân chủ quan:
( Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay.
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay.
- Khả năng quản lý kinh doanh kém.
- Tình hình tài chính DN yếu kém, thiếu minh bạch.
( Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay.
- Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng.
- Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay.
- Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu quả.
1.4.2.2 Nguyên nhân do tác nhân ngân hàng, khách hàng
( Các nguyên nhân từ phía cho vay như:
( Một là, ngân hàng không chấp hành các nguyên tắc cho vay và điều kiện vay vốn.
( Hai là, chính sách và quy trình cho vay chưa chặt chẽ, chưa có quy trình kiểm soát rủi ro hữu hiệu, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng, xếp loại RRTD để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ. Đối với cho vay DN nhỏ và cá nhân, quyết định cho vay của ngân hàng chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, chưa áp dụng công cụ tính điểm tín dụng.
( Ba là, kỹ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại, chưa đa dạng, việc xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp dễ dẫn đến phải đối mặt với rủi ro về vốn và lãi suất, phương thức chủ yếu là tín dụng trực tiếp, sản phẩm tín dụng chưa phóng phú.
( Bốn là, thiếu thông tin về khách hàng hay thiếu thông tin tín dụng đáng tin cậy, kịp thời, chính xác để xem xét, phân tích trước khi cấp tín dụng. Hoặc là các thông tin về khác hàng còn sơ sài, các sổ sách khách hàng cung cấp còn chưa trung thực.
( Năm là, một số cán bộ tín dụng chưa đủ trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức cho công việc. Vấn đề quản lý, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng.
( Sáu là, khả năng và quyết tâm của người lãnh đạo trong việc quản lý giao nhiệm vụ thẩm định – quyết định cho vay – giám sát khoản vay chưa thực hiện tốt. Lãnh đạo còn buông lỏng trong quản lý trực tiếp, việc chỉ đạo còn chưa quyết liệt, hay còn thiếu tiêu chuẩn ISO trong quản lý từ xa.
( Các nguyên nhân phía người vay như:
( Nhóm nguyên nhân khách quan: Những tác động ngoài ý chí của khách hàng, như do thiên tai, hỏa hoạn, do sự tác động của các chính sách quản lý kinh tế, điều chỉnh quy hoạch ngành vùng, do hành lang pháp lý chưa phù hợp, do biến động thị trường trong và ngoài nước, quan hệ cung cầu hàng hóa thay đổi không lường trước được, do sự cạnh tranh của các đối thủ tầm cỡ.
( Nhóm nguyên nhân chủ quan: Nguyên nhân nội tại của mỗi khách hàng. Đó có thể là vốn tự có tham gia SXKD của DN không đáp ứng nhu cầu. Kinh nghiệm quản lý và năng lực điều hành của ban lãnh đạo còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường và thông tin về các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng đến kế hoạch SXKD; công nghệ sản xuất không tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao; hoặc khách hàng thiếu thiện chí trả nợ vay ngân hàng ngay từ khi xin vay vốn…
( Một số nguyên nhân khác: Tính dễ thay đổi trong các nhân tố rủi ro; tính không ổn định ngày càng tăng của thị trường tài chính (Lãi suất, tỷ giá, cung – cầu tiền tệ…); sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các ngân hàng (Dẫn tới việc hạ thấp các tiêu chuẩn cho vay…); sự can thiệp của chính quyền địa phương…
1.4.3 Phân loại RRTD theo rủi ro kiểm toán
( Rủi ro tiềm tàng (Inherent Risk): “Là khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu trong bản thân các đối tượng kiểm toán. Mức độ của rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm tình hình kinh doanh của khách thể kiểm toán, loại hình kinh doanh và cả năng lực nhân viên của khách thể kiểm toán. Kiểm toán viên không tạo ra và cũng không kiểm soát rủi ro kiểm soát, họ chỉ có thể đánh giá chúng”.
Đó là các rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định (khủng hoảng kinh tế, tỉ giá hối đoái biến đổi khôn lường…); rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi, rủi ro do đặc thù ngành nghề kinh doanh của khách hàng (kinh doanh du lịch, nhà hàng, khách sạn…); rủi ro do chiến tranh; rủi ro do thiên tai địch họa (lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh…); bạn hàng làm ảnh hưởng đến kế hoạch SXKD; rủi ro do năng lực quản trị DN của khách hàng yếu kém…
Ví dụ: Kinh doanh phục vụ dịch vụ du lịch tuy là thế mạnh của kinh tế Thừa Thiên Huế nhưng đây lại là ngành có rủi ro cao vì thời tiết của tỉnh nhà không ôn hòa, thường có thiên tai lũ bão, bên cạnh đó năng lực quản trị của nhà quản trị kém cũng khiến cho nhà hàng, khách sạn bị ế khách do có quá nhiều DN kinh doanh loại dịch vụ này nên ai không đủ khả năng cạnh tranh sẽ bị đào thải.
( Rủi ro kiểm soát (Control Risk): “Là khả năng hệ thống Kiểm soát nội bộ của đơn vị kiểm toán không phát hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm trọng yếu. Kiểm toán viên không tạo ra rủi ro kiểm soát và cũng không kiểm soát chúng. Họ chỉ có thể đánh giá hệ thống kiểm soát của đơn vị được kiểm toán và từ đó đưa ra các mức rủi ro kiểm soát dự kiến”. Ví dụ: Ở VCB Huế, KTNB chỉ chú trọng ở kiểm tra sau, điều này làm tăng rủi ro kiểm soát.
Đó là các rủi ro về việc cán bộ tín dụng không chấp hành các nguyên tắc cho vay, điều kiện vay vốn; chính sách quy trình cho vay chưa hữu hiệu; kĩ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại; ngân hàng thiếu thông tin về khách hàng; trình độ cán bộ tín dụng còn yếu kém, phẩm chất đạo đức không tốt…
( Rủi ro phát hiện (Detection Risk): “Là khả năng các thủ tục kiểm toán không phát hiện được các sai phạm trọng yếu. Ngược lại với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, kiểm toán viên phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán nhằm quản lý và kiểm soát đối với rủi ro phát hiện. Rủi ro phát hiện phụ thuộc vào các loại rủi ro khác”.
Rủi ro này thường do kiểm toán độc lập phát