Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống,
mỗi một cộng đồng dân tộc có một nét văn hoá riêng độc đáo tạo nên một nền
văn hoá Việt Nam đa dạng trong thống nhất. Hiện nay, quá trình phát triển kinh
tế - xã hội cũng như hội nhập quốc tế đã có ảnh hưởng tích cực cũng như hạn
chế tới văn hoá của các dân tộc thiểu số. Trong đó dân tộc Cao Lan ở Tuyên
Quang cũng vậy. Quá trình hình thành và phát triển tại Tuyên Quang của dân tộc
Cao Lan đã tạo nên nét văn hoá độc đáo cho riêng mình. Tuy nhiên, hiện nay
văn hoá của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang đang đứng trước nhiều thách thức,
một số giá trị văn hoá truyền thống có nguy cơ bị mai một thậm chí mất hẳn,
việc tiếp thu tràn lan, không có chọn lọc các yếu tố văn hoá của các dân tộc khác
đã dần làm mất đi bản sắc riêng của mình, đặc biệt là đối với lễ hội đình làng -nét sinh hoạt truyền thống cộng đồng hết sức ý nghĩa và độc đáo của dân tộc
Cao Lan.
81 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2602 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp quản lý nhà nước để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
– Sinh viên Học viện Hành chính
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống,
mỗi một cộng đồng dân tộc có một nét văn hoá riêng độc đáo tạo nên một nền
văn hoá Việt Nam đa dạng trong thống nhất. Hiện nay, quá trình phát triển kinh
tế - xã hội cũng như hội nhập quốc tế đã có ảnh hưởng tích cực cũng như hạn
chế tới văn hoá của các dân tộc thiểu số. Trong đó dân tộc Cao Lan ở Tuyên
Quang cũng vậy. Quá trình hình thành và phát triển tại Tuyên Quang của dân tộc
Cao Lan đã tạo nên nét văn hoá độc đáo cho riêng mình. Tuy nhiên, hiện nay
văn hoá của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang đang đứng trước nhiều thách thức,
một số giá trị văn hoá truyền thống có nguy cơ bị mai một thậm chí mất hẳn,
việc tiếp thu tràn lan, không có chọn lọc các yếu tố văn hoá của các dân tộc khác
đã dần làm mất đi bản sắc riêng của mình, đặc biệt là đối với lễ hội đình làng -
nét sinh hoạt truyền thống cộng đồng hết sức ý nghĩa và độc đáo của dân tộc
Cao Lan.
Thực hiện chủ trương xây dựng nền văn hoá “Tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương V khoá VIII của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc những năm gần đây việc khôi phục và phát triển lễ hội đình làng của dân
tộc Cao Lan đã được chú trọng và đạt một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, việc
giữ gìn và phát triển loại hình lễ hội truyền thống này còn một số hạn chế nhất
định như: Phát triển tự phát, thiếu tính định hướng; nhiều giá trị văn hoá truyền
thống tại lễ hội có nguy cơ mai một dần; chính sách của các cấp chính quyền đối
với việc phát triển lễ hội này còn hạn chế…Thực tế đó đòi hỏi phải có những
giải pháp quản lý Nhà nước phù hợp để giữ gìn và phát huy loại hình lễ hội này.
Trước nhu cầu mang tính cấp thiết đó, tác giả mạnh dạn lựa chọn “ Một số giải
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
– Sinh viên Học viện Hành chính
2
pháp quản lý Nhà nƣớc để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc
Cao Lan ở Tuyên Quang ” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Vì vấn đề nghiên cứu là một vấn đề rộng, phức tạp, thời gian nghiên cứu
còn hạn chế và một số khó khăn trong thu thập tài liệu nên khoá luận luận chắc
chắn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Do đó, rất mong được sự đóng
góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để khoá luận được hoàn thiện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang, những năm qua đã có một số công
trình nghiên cứu khoa học về văn hoá đồng bào dân tộc Cao Lan trong đó có đi
sâu nghiên cứu lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan như:
- Đề tài: “ Văn hoá truyền thống dân tộc Cao Lan ” năm 1993 – 1994;
Đề tài: “ Văn hoá truyền thống của một số dân tộc Tỉnh Tuyên Quang ” năm
1999 – 2000;
- Đề tài: “ Bảo tồn hát Sình ca dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang ” năm
2003 của Nịnh Văn Độ;
- Đề tài Luận văn Cao học của Đặng Chí Thông về “ Phong tục tập quán
và lễ hội của người Cao Lan ở xã Kim Phú, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
Tuy vậy chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về các giải pháp quản lý Nhà
nước để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên
Quang, mặc dù vai trò của quản lý Nhà nước là hết sức quan trọng trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục tiêu của đề tài.
Trên cơ sở nghiên cứu, nhận xét đánh giá về một số thực trạng quản lý
Nhà nước đối với việc giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của đồng bào dân
tộc Cao Lan thời gian qua tại tỉnh Tuyên Quang, từ đó kiến nghị một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước đối với việc giữ gìn
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
– Sinh viên Học viện Hành chính
3
và phát triển lễ hội đình làng của đồng bào dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang
trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: là hoạt động quản lý nhà nước đối với việc giữ
gìn và phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan.
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động quản lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang đặc biệt là huyện Yên Sơn – địa phương có đông dân cư là người
Cao Lan và là nơi duy nhất còn tồn tại lễ hội đình làng truyền thống.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành khoá luận tác giả triệt để sử
dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê
nin;
- Phương pháp thống kê, so sánh, đánh giá, điều tra xã hội học, phân tích
tổng hợp…;
- Phương pháp quan sát thực tiễn, trừu tượng hoá đối tượng;
6. Những đóng góp của khoá luận
Sau khi khoá luận hoàn thiện sẽ có những đóng góp nhất định xét trên
nhiều góc độ khác nhau, cụ thể là những đóng góp sau:
- Việc hoàn thiện vấn đề nghiên cứu sẽ giúp bổ sung lý luận về quản lý
Nhà nước đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số ở
Tuyên Quang;
- Góp phần bổ sung kiến thức thực tiễn về hoạt động quản lý Nhà nước
trên một lĩnh vực xã hội nhất định, cụ thể là lễ hội văn hoá - truyền thống của
đồng bào dân tộc thiểu số;
- Góp phần giới thiệu lễ hội đình làng - nét sinh hoạt văn hoá độc đáo của
đồng bào dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang với các địa phương cũng như với các
dân tộc thiểu số khác trên đất nước Việt Nam;
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
– Sinh viên Học viện Hành chính
4
- Tìm kiếm một số giải pháp quản lý Nhà nước mang tính thực tiễn cao để
giữ gìn và phát triển lễ hội truyền thống của dân tộc Cao Lan trong thời gian tới.
7. Kết cấu của Khoá luận:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, khoá luận được chia thành các phần như
sau:
Chƣơng 1. Khái quát chung về văn hoá truyền thống, lễ hội và vai trò của
Nhà nƣớc trong việc duy trì và phát triển văn hoá truyền thống.
Phần này tập trung giải thích một số nét khái quát về văn hoá truyền
thống, lễ hội truyền thống cũng như lý luận về vai trò của Nhà nước đối với
quản lý văn hoá truyền thống - lễ hội truyền thống làm nền tảng cho nghiên cứu
vấn đề ở các chương tiếp theo. Nội dung của chương này bao gồm khái quát về
văn hoá truyền thống trong thời kỳ hội nhập, vai trò của lễ hội truyền thống đối
với việc bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống, vai trò của Nhà nước đối với
việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống, hệ thống chính sách của Nhà
nước đối với việc duy trì và phát huy văn hoá truyền thống.
Chƣơng 2. Thực trạng về quản lý Nhà nƣớc đối với việc giữ gìn và phát
triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang.
Trong chương này, tác giả tập trung phân tích thực trạng việc tổ chức và
quản lý lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan để thấy được những mặt đã đạt
được và chưa đạt được trong việc bảo tồn và phát triển loại hình lễ hội này trên
địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Phần này sẽ bao gồm các nội dung như: Khái quát
chung về lễ hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang, cơ chế quản lý
đối với lễ hội truyền thống ở Tuyên Quang trong đó có lễ hội đình làng của dân
tộc Cao Lan, thực trạng tổ chức và quản lý lễ hội đình làng, đánh giá những kết
quả và hạn chế trong tổ chức và quản lý lễ hội đình làng của người Cao Lan, tìm
hiểu nguyên nhân của những hạn chế đó.
Chƣơng 3. Một số giải pháp quản lý Nhà nƣớc để giữ gìn và phát triển lễ
hội đình làng của dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
– Sinh viên Học viện Hành chính
5
Chương này tập trung đề ra phương hướng giữ gìn và phát triển lễ hội
đình làng của dân tộc Cao Lan trong thời gian tới và kiến nghị một số giải pháp
về quản lý Nhà nước để giữ gìn và phát triển lễ hội đình làng của người Cao Lan
trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng của tổ chức và quản lý lễ hội trong thời
gian qua, cũng như kinh nghiệm của các địa phương trong việc tổ chức và quản
lý lễ hội và phương hướng giữ gìn, phát triển lễ hội đình làng của dân tộc Cao
Lan đã nêu.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
– Sinh viên Học viện Hành chính
6
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG, LỄ HỘI VÀ
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN
VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG
1.1 Văn hoá truyền thống trong thời kỳ hội nhập và phát triển
1.1.1 Các cách tiếp cận về văn hoá truyền thống
Để tìm hiểu về văn hoá truyền thống, trước hết cần tìm hiểu về văn hoá -
một khái niệm quan trọng khi nói đến văn hoá truyền thống.
a. Văn hoá
Văn hoá là một khái niệm rộng được bắt nguồn từ chữ Latinh: “ Cultura”
có nghĩa là sự cày cấy, vun trồng. Cùng với quá trình phát triển văn hoá ngày
càng có nội dung phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Các nhà
nghiên cứu đã đưa ra nhiều khái niệm để phản ánh các góc độ của văn hoá. Bản
chất của văn hoá là rộng và đa dạng , do vậy các khái niệm về văn hoá chỉ mang
tính chất tương đối. Có thể đưa ra một số khái niệm về văn hoá như sau:
Theo nghĩa hẹp: Văn hoá là những chính kiến xã hội để quyết định những ứng
xử cá nhân trong xã hội đó.
Theo nghĩa rộng:
- Quan điểm của UNESCO : “ Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá là tổng
thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định
tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm
nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng ”
Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “ Thập niên thế giới phát triển văn hoá”
tại Pháp ngày 21-1-1998, ngài Tổng thư ký UNESCO cũng từng phát biểu: văn
hoá là tổng thể sống động các hoạt động dân tộc trong quá khứ cũng như trong
hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo đó đã hình thành nên một hệ thống
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
– Sinh viên Học viện Hành chính
7
giá trị , các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định riêng biệt của mỗi
dân tộc ”
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Hội Nghị Ban Chấp Hành
Trung Ương lần thứ V ( Khoá VIII ) Đảng ta xác định: “ Văn hoá là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội ”, và xác định “ Văn hoá Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao
động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn
minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hoá đã hun đúc nên tâm
hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc ”.
Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá, văn nghệ, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hoá ”
Như vậy, văn hoá có nhiều khái niệm khác nhau dưới các góc độ khác
nhau. Quan trọng nhất văn hoá được xem như tất cả những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra phục vụ nhu cầu sống của con người trong
quá trình phát triển và là một nền tảng tinh thần không thể thiếu trong đời sống
của con người.
b. Văn hoá truyền thống.
Văn hoá truyền thống là một khái niệm chỉ những nét văn hoá riêng biệt
của một cộng đồng xã hội, được hình thành cùng với quá trình phát triển của
cộng đồng xã hội đó và được lưu truyền qua các thế hệ; cụ thể là tính cách, là
đạo đức, là phong tục tập quán, tư tưởng, lối sống, thói quen…. Văn hoá truyền
thống tạo nên bản sắc dân tộc, là nét văn hoá riêng biệt của một cộng đồng xã
hội, tồn tại và phát triển cùng lịch sử phát triển cộng đồng. Nét văn hoá đó đã ăn
sâu vào trong nếp sống cũng như nếp nghĩ của cộng đồng xã hội đó.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
– Sinh viên Học viện Hành chính
8
Như vậy có thể quan niệm văn hoá truyền thống là toàn bộ giá trị, thành
quả, thành tựu vật chất và tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được
lưu giữ và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ
vang của dân tộc Việt Nam.
Hay nói cách khác văn hoá truyền thống là đặc điểm đã in thành nếp sâu
đậm trong tâm hồn, tình cảm , lối diễn đạt, tư duy của một cộng đồng qua bao
thế kỷ gắn bó với nhau cùng phát triển.
Có thể nói văn hoá truyền thống là yếu tố cốt lõi của văn hoá dân tộc, nó
là yếu tố quyết định bản sắc độc đáo của một nền văn hoá. Nền văn hoá truyền
thống mà bị mai một hay mất đi thì một dân tộc sẽ mất đi chính bản thân mình.
Do đó, việc giữ gìn và phát triển văn hoá truyền thống là một nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của mỗi cộng đồng dân tộc, quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2 Đặc trƣng văn hoá truyền thống.
Văn hoá truyền thống là những giá trị sáng tạo, quan điểm thẩm mỹ của
dân tộc, các chuẩn mực về tư tưởng đạo đức, giao tiếp ứng xử, phong tục, lễ
nghi… thông qua đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc. Do đó văn hoá
truyền thống có các đặc trưng như sau:
Thứ nhất, văn hoá truyền thống mang tính lịch sử: Văn hoá truyền thống
hình thành và bồi đắp qua quá trình phát triển lâu dài của cộng đồng, dân tộc.
Cộng đồng chính là nơi văn hoá truyền thống được hình thành và phát triển. Qua
quá trình lao động sáng tạo của con người, những nét đẹp văn hoá dần được hình
thành và bồi đắp qua thời gian. Văn hoá truyền thống không phải cái có sẵn, và
khi có rồi không phải không cần bồi đắp. Có những giá trị nếu không được bồi
đắp cùng với quá trình phát triển của con người sẽ bị mai một dần và mất hẳn.
Tính lịch sử của văn hoá truyền thống thể hiện qua sự kế thừa các giá trị truyền
thống. Văn hoá truyền thống của mỗi thời kỳ lịch sử mang dấu ấn của thời kỳ đó
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
– Sinh viên Học viện Hành chính
9
đồng thời kế thừa những giá trị của thời kỳ trước đó và là nền tảng cho thời kỳ
tiếp theo phát triển.
Thứ hai, văn hoá truyền thống là một bộ phận của văn hoá, nó được dùng
để phân biệt với tính hiện đại mà nền văn hoá đã tiếp thu trong quá trình phát
triển. Nếu như văn hoá hiện đại là những giá trị văn hoá mới được tiếp thu thì
văn hoá truyền thống là những giá trị đã hình thành và tồn tại từ lâu, được bồi
đắp qua nhiều thế hệ, nhiều giai đoạn. Tuy vậy, trên thực tế thì văn hoá truyền
thống và tính hiện đại của văn hoá cũng có sự đan xen và kế thừa lẫn nhau. Văn
hoá truyền thống là hệ thống các giá trị và các chuẩn mực lâu đời điều chỉnh các
hoạt động cũng như quan hệ cộng đồng xã hội. Chẳng hạn những giá trị truyền
thống văn hoá như tương thân tương ái, đồng cam cộng khổ hay yêu nước
thương dân, tính cố kết cộng đồng… là những giá trị văn hoá tốt đẹp đã tồn tại
lâu đời và được bồi đắp qua nhiều thế hệ. Do đó có thể khẳng định văn hoá
truyền thống mang tính lâu đời.
Thứ ba, Văn hoá truyền thống cũng mang tính giá trị. Xét về giá trị của
văn hoá truyền thống thì nó bao gồm cả những giá trị mang tính tích cực và
những giá trị không còn phù hợp với đời sống hiện tại nữa. Những giá trị tích
cực và còn phù hợp với đời sống hiện tại sẽ được giữ gìn, bảo tồn và phát huy.
Còn những giá trị văn hoá không còn phù hợp nữa sẽ bị cải biến dần cho phù
hợp hoặc sẽ bị loại bỏ khỏi nền văn hoá mới mà xã hội đang xây dựng. Chẳng
hạn như, những giá trị truyền thống tốt đẹp như truyền thống tương thân tương
ái, truyền thống đoàn kết… sẽ được phát huy, còn những giá trị truyền thống
không còn phù hợp như những tập tục rườm rà, những hủ tục lạc hậu, mê tín dị
đoan không còn phù hợp…sẽ bị cải tiến thành phong tục phù hợp, hay loại bỏ
hẳn để nền văn hoá phát huy vai trò đối với sự phát triển xã hội. Do đó vấn đề
giữ gìn và phát huy văn hoá dân tộc cần xác định rõ đâu là những giá trị văn hoá
cần giữ gìn và phát huy và cái nào cần cải tiến hay loại bỏ.
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
– Sinh viên Học viện Hành chính
10
Thứ tư, văn hoá truyền thống mang tính giáo dục sâu sắc. Văn hoá truyền
thống mang trong mình những khuôn mẫu ứng xử, làm nền tảng cho những hành
vi trong xã hội. Văn hoá truyền thống cũng thể hiện tính giáo dục của mình đối
với xã hội thông qua việc hướng con người hành động đúng với truyền thống
vốn có của cộng đồng mà cả xã hội đã thừa nhận và làm theo. Nó là chuẩn mực
xã hội để con người noi theo và thực hiện. Những phong tục tập quán, những
hoạt động văn hoá mang tính cộng đồng như các lễ nghi, lễ hội đều mang trong
mình những giá trị giáo dục cộng đồng sâu sắc. Phần lớn những nét truyền thống
văn hoá đó giáo dục cho cộng đồng xã hội biết trân trọng và phát huy thành quả
của quá trình xây dựng và phát triển xã hội mà cha ông nhiều thế hệ đã dày công
vun đắp. Hơn nữa thông qua các lễ nghi truyền thống giáo dục con người biết ơn
tổ tiên cha ông đã sinh thành và dưỡng dục, biết ơn các thế hệ đi trước. Đây là
một nét văn hoá tốt đẹp của cộng đồng xã hội. Phát huy những giá trị văn hoá
này cũng đồng nghĩa với việc phát huy nền tảng tinh thần cho xã hội, định
hướng cho xã hội hoạt động tốt hơn, phù hợp hơn với môi trường sống hiện đại.
Thứ năm, văn hoá truyền thống mang tính bền vững. Những giá trị văn
hoá truyền thống bao giờ cũng tồn tại lâu đời và được xã hội thừa nhận và trân
trọng giữ gìn qua nhiều thế hệ. Nó trở thành một bộ phận không thể thiếu của xã
hội. Nó giống như động lực cho con người lao động sản xuất tốt hơn. Chẳng hạn
như truyền thống các ngày lễ tết là một thí dụ. Trải qua bao biến cố của lịch sử
phát triển, truyền thống lễ tết ở Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển, nó là một bộ
phận của cuộc sống con người Việt Nam. Sau những tháng ngày lao động vất vả
dịp lễ tết là thời gian để mọi người nghỉ ngơi lấy lại tinh thần tiếp tục công việc,
là dịp để mọi người thể hiện lòng biết ơn tới tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và cũng là
dịp mọi người quan tâm tới nhau, tới tình làng nghĩa xóm... Có lẽ không một gia
đình Việt Nam nào lại nằm ngoài giá trị văn hoá truyền thống đó. Dó đó có thể
nói rằng văn hoá truyền thống là một hiện tượng xã hội gắn liền với sự phát triển
xã hội, khó có thể mất đi cho dù xã hội có nhiều biến động. Đồng thời tính bền
Vương Minh Thống Khoá luận tốt nghiệp 2008
– Sinh viên Học viện Hành chính
11
vững của văn hoá còn thể hiện cả những mặt bảo thủ, trì trệ. Những mặt bảo thủ,
trì trệ này tồn tại một cách bền bỉ, dai dẳng cùng với quá trình phát triển. Đặc
điểm này đòi hỏi trong quản lý Nhà nước đối với văn hoá truyền thống cần có
tác động thích hợp để nhanh chóng loại bỏ tính bảo thủ, trì trệ của những giá trị
đã lạc hậu không phù hợp với quá trình phát triển, nhằm tạo điều kiện cho văn
hoá truyền thống phát triển tốt nhất theo định hướng.
1.1.3 Vai trò của văn hoá truyền thống đối với sự phát triển xã hội và quá
trình hội nhập quốc tế.
Đánh giá vai trò của văn hoá Đảng ta đã khẳng định: “ Văn hoá là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội ”( Nghị quyết trung ương V khoá VIII của Ban Chấp Hành Trung
ương Đảng ).
Văn hoá truyền thống là nòng cốt của nền văn hoá nói chung, quá trình
phát triển xã hội không thể không trân trọng những vai trò to lớn của văn hoá
truyền thống. Văn hoá truyền thống là nền tảng tinh thần cho xã hội, nó biểu
hiện sức mạnh tiềm tàng và bản lĩnh của một dân tộc và được biểu hiện thông
qua những truyền thống và hệ giá trị mang tính đặc trưng cho bản sắc văn hoá
của dân tộc. Truyền thống và hệ giá trị này được thấm nhuần trong mỗi con
người và cả cộng đồng, dân tộc; được chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát huy
qua các thế hệ; được vật chất hoá trong các cấu trúc thiết chế chính trị - xã hội
và trong hoạt động sống của cả dân tộc. Là nền tảng tinh thần của xã hội, văn
hoá truyền thống cũng như văn hoá biểu hiện sức sống, sức phát triển, sự