Nhữ Bá Sĩ đã thể hiện sự quan tâm tới kết cấu ngay từ những năm cuối
thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX khi ông nhận xét: “Loại văn chương tột bậc của
thiên hạ đúng là không ở trong cái giới hạn đóng, mở, kết cấu, nhưng mà
không đóng, mở, kết cấu thì cũng không thành văn chương”. [118, tr.154]
Mỗi tác phẩm văn học tồn tại trong một cấu trúc nghệ thuật nhất định
bao gồm nhiều yếu tố, nhiều bộ phận và mối liên hệ, quan hệ giữa chúng
được tổ chức hợp lý, nghệ thuật trong một hệ thống, một chỉnh thể nhằm biểu
đạt những tư tưởng, tình cảm mà nghệ sĩ muốn kí thác.
Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ
thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu
là kiến trúc tác phẩm, là toàn bộ tổ chức phức tạp của tác phẩm. Kết cấu tác
phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm.
Khi đánh giá kết cấu một tác phẩm, phải xét trong yêu cầu thể hiện nội dung
của tác phẩm đó, xét hiệu quả mà tác phẩm để lại trong lòng người đọc. Khảo
sát kết cấu của tác phẩm chính là khảo sát cấu trúc của nó
Kết cấu tác phẩm không chỉ là mối liên kết các hiện tượng, con người.
Mối quan tâm lớn của nhà văn là sắp xếp tài liệu làm sao để cho cái chính
yếu được nổi bật lên, cái quan trọng gây được ấn tượng mạnh mẽ. Kết cấu tác
phẩm thể hiện quá trình làm việc căng thẳng, công phu của nhà văn với chất
liệu cuộc sống từ đó để biểu hiện một chân lí khái quát. Nó cũng phản ánh
quá trình tư duy của nhà văn, quá trình v ận động của tư duy ấy.
42 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3645 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khóa luận
“ Nghệ thuật trần thuật
trong truyện ngắn Vũ
Trọng Phụng “
MỤC LỤC
PHẦN DẪN
LUẬN.......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề
tài................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề
..................................................................................................... 2
3. Phương pháp nghiên
cứu................................................................................... 21
4. Những đóng góp của luận văn
......................................................................... 22
5. Bố cục luận văn
................................................................................................. 22
CHƯƠNG I : QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI
TRONG TRUYỆN NGẮN VŨ TRỌNG PHỤNG
.................................................. 24
1. Con người với những chân dung xấu xí, dị dạng...........................................
25
2. Từ con người “vô nghĩa lý” đến con người tha hóa......................................
30
2.1 Con người “vô nghĩa lý”
............................................................................ 30
2.2 Con người tha hóa
...................................................................................... 38
3. Con người gắn với số phận bất hạnh
.............................................................. 43
4. Con người mang vẻ đẹp nhân cách đáng trân trọng ....................................
51
5. Con người có đời sống nội tâm đa dạng, phức tạp .......................................
63
5.1 Con người bị đeo bám bởi chủ nghĩa định mệnh
.................................... 63
5.2 Những trường hợp tâm lí đáng quan tâm
................................................. 70
CHƯƠNG II : NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN
VŨ TRỌNG PHỤNG
................................................................................................... 78
1. Kết cấu trần
thuật.............................................................................................. 78
1.1 Sự linh hoạt trong việc chọn lựa cách thức trần thuật ......................... 79
1.1.1 Kết cấu đảo trình tự thời gian 79
1.1.2 Kết cấu trần thuật dạng “truyện lồng trong truyện” ..............
84
1.1.3 Kết cấu trần thuật theo diễn biến tâm lí của nhân vật ............ 88
1.2 Cách trần thuật tô đậm phần cuối truyện với những kết thúc bất ngờ 92
1.3 Về những đoạn trữ tình ngoại đề cuối tác phẩm..................................... 98
2. Điểm nhìn trần thuật
...................................................................................... 105
2.1 Trần thuật khách quan với điểm nhìn bên
ngoài.................................. 107
2.2 Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật
...................................................... 113
2.2.1 Từ người kể chuyện xưng “tôi” có tham gia vào câu
chuyện
đến nhân vật tự thuật
.......................................................................... 114
2.2.2 Sự đan xen giữa điểm nhìn nhà văn và điểm nhìn của
nhân vật chính
.................................................................................... 119
2.2.3 Sự phối hợp nhiều điểm nhìn khác nhau trong một
tác phẩm
............................................................................................... 124
3. Giọng điệu trần thuật
...................................................................................... 129
3.1 Một sự bổ sung cho tài năng trào phúng bậc
thầy................................ 131
3.2 Giọng triết lí – sự mở đầu cho khuynh hướng và những đặc trưng
.... 136
PHẦN KẾT LUẬN
.................................................................................................... 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO 151
1. KẾT CẤU TRẦN THUẬT :
Nhữ Bá Sĩ đã thể hiện sự quan tâm tới kết cấu ngay từ những năm cuối
thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX khi ông nhận xét: “Loại văn chương tột bậc của
thiên hạ đúng là không ở trong cái giới hạn đóng, mở, kết cấu, nhưng mà
không đóng, mở, kết cấu thì cũng không thành văn chương”. [118, tr.154]
Mỗi tác phẩm văn học tồn tại trong một cấu trúc nghệ thuật nhất định
bao gồm nhiều yếu tố, nhiều bộ phận và mối liên hệ, quan hệ giữa chúng
được tổ chức hợp lý, nghệ thuật trong một hệ thống, một chỉnh thể nhằm biểu
đạt những tư tưởng, tình cảm mà nghệ sĩ muốn kí thác.
Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ
thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu
là kiến trúc tác phẩm, là toàn bộ tổ chức phức tạp của tác phẩm. Kết cấu tác
phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm.
Khi đánh giá kết cấu một tác phẩm, phải xét trong yêu cầu thể hiện nội dung
của tác phẩm đó, xét hiệu quả mà tác phẩm để lại trong lòng người đọc. Khảo
sát kết cấu của tác phẩm chính là khảo sát cấu trúc của nó
Kết cấu tác phẩm không chỉ là mối liên kết các hiện tượng, con người.
Mối quan tâm lớn của nhà văn là sắp xếp tài liệu làm sao để cho cái chính
yếu được nổi bật lên, cái quan trọng gây được ấn tượng mạnh mẽ. Kết cấu tác
phẩm thể hiện quá trình làm việc căng thẳng, công phu của nhà văn với chất
liệu cuộc sống từ đó để biểu hiện một chân lí khái quát. Nó cũng phản ánh
quá trình tư duy của nhà văn, quá trình vận động của tư duy ấy. Tư tưởng
sống động của nhà văn bao giờ cũng biểu hiện trong kết cấu và qua kết cấu.
Nói theo tác giả Lí luận văn học (tập 2 : Tác phẩm và thể loại văn học)
là : “Kết cấu, cấu trúc vô luận là tổ chức vật thể, quan hệ hay quy tắc,
phương pháp, mô hình đều là yếu tố tạo thành văn bản, là thực tế không thể
bỏ qua trong quá trình sáng tác và đọc hiểu văn bản.” [117, tr.156]
Đến với truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng cũng vậy; việc tìm hiểu,
khảo sát những nét đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật thể hiện qua tác phẩm
không thể bỏ qua yếu tố kết cấu.
1.1 Sự linh hoạt trong việc chọn lựa cách thức trần thuật :
1.1.1 Kết cấu đảo trình tự thời gian :
Trên phương diện kết cấu, một trong những loại hình mới mẻ mà
truyện ngắn từ đầu thế kỷ XX đem đến trên phương diện kết cấu cốt truyện là
sự đảo lộn thời gian của sự kiện - tức là nghệ thuật trần thuật không tuân theo
trình tự diễn tiến của cốt truyện tự nhiên theo thời gian tuyến tính. Các truyện
này thường bắt đầu ở phần giữa hoặc phần kết thúc của cốt truyện tự nhiên.
Sự tái tạo lại trật tự nghệ thuật cho các sự kiện trong cốt truyện là một đặc
trưng của tư duy nghệ thuật hiện đại. Sự đảo lộn trật tự thời gian của các sự
kiện có ý nghĩa không nhỏ trong việc thể hiện nội dung tác phẩm nên kiểu kết
cấu này đã rất phổ biến ở truyện ngắn các giai đoạn sau.
Được sử dụng trong 13/41 số lượng truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng,
dạng kết cấu này khiến chúng ta phải dành sự chú ý cẩn trọng cho nó. Một
khi tác giả đã xóa đi trật tự tuyến tính của thời gian, ắt hẳn ông muốn nhấn
mạnh với người đọc một vấn đề nào đó.
Trong truyện ngắn Nhân quả, ông đã để nhân vật người đàn ông hồi
tưởng lại những chuyện xưa cũ từ điểm nhìn ngày đám cưới trong thực tại.
Dòng hồi tưởng đó gắn liền với tâm trạng phơi phới khi nhớ lại một quá khứ
đào hoa lẫy lừng đã vùi chôn bao đời con gái. Hắn đã chiếm đoạt, hắn đã
khinh khi và giờ đây tràn đầy khao khát, mãn nguyện với ý nghĩ cô vợ mới
cưới “về phần tân tiết thì nắm chắc đến mười mươi”. Đảo trình tự thời gian
như vậy, Vũ Trọng Phụng đã lột tả bản chất xấu xa của một gã trai phóng
đãng, bỉ ổi, sở khanh và giúp ta hiểu được niềm khao khát trinh tiết phụ nữ
trong hiện tại của hắn vì sao lại mãnh liệt nhường ấy để từ đó càng làm rõ
được nỗi chua chát, bẽ bàng của hắn ở cuối truyện.
Với truyện ngắn Người có quyền, tác giả lại kể về cuộc đời một nhân
vật “văn dốt, vũ dát, hai mươi bảy tuổi đầu còn ăn bám vào mẹ, cả ngày đi
tìm mấy gia đình nhàn cư bất thiện để gạ đánh cờ không tiền hay là chầu rìa
tổ tôm”, nói tóm lại là dở ông dở thằng. Nhưng ông không bắt đầu câu
chuyện từ điều ấy mà khơi nguồn từ tâm trạng phớn phở của nhân vật khi
hôm nay anh ta đã được làm cha một đứa trẻ con – kết quả mối tình của anh
và “một người đàn bà góa chồng rất trẻ, cũng vui vẻ, nhí nhảnh…mà anh đã
chim”. Để nhân vật triết lí về hạnh phúc, sung sướng với thực tại trong sự hồi
tưởng ngược dòng về quá khứ, Vũ Trọng Phụng cho người đọc những bất
ngờ : con người như thế mà sao may mắn đến vậy? Nhưng không, đó chỉ là
cách nhà văn che giấu cho một tương lai gần rất bi kịch mà hợp lí : con là con
người ta, nhân tình bấy lâu đầu ấp tay gối đã lừa gạt và phũ phàng xua đuổi
không thương tiếc. Lối trần thuật như vậy quả thật có giá trị riêng của nó :
không chỉ lí giải cho hoàn cảnh, tâm lí nhân vật trong thực tại và chuẩn bị
cho những bất ngờ phía trước; nó còn giúp ta hiểu rõ về nhân vật qua cái nhìn
ngược thời gian đầy ấn tượng.
Cách trần thuật đưa kết quả sự việc lên trước rồi lần lượt kể lại nhằm
lí giải nguyên nhân, truy tìm nguồn gốc cũng là kết cấu được sử dụng trong
một số truyện ngắn như : Phép ông láng giềng, Bẫy tình, Chống nạng lên
đường, Tội người cô, Duyên không đi lại, Cái hàng rào, Bà lão lòa, Gương
…tống tiền, Lòng tự ái…
Truyện ngắn Bà lão lòa tái hiện cho ta ngay từ đầu thời khắc tăm tối, ê
chề trong phận sống nhờ của nhân vật cùng tên - là người cô họ của bác đánh
giậm. Lần hồi sau đó, tác giả đưa ta trở về với quá khứ khi bà lão còn giàu có,
bà đã “giúp đỡ kẻ nghèo khó; trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ
bà” thế nhưng “đến khi gặp bà bước khốn cùng thì chẳng ai thương cả”. Tác
giả cũng cho ta biết rằng ngày trước bác đánh giậm “đã nhiều phen ngửa tay
nhận lấy đồng tiền cứu giúp của bà” nên bây giờ “đành cắn răng, vuốt bụng,
nhắm mắt” nuôi bà trong lúc hoạn nạn với nỗi niềm biết bao “xót ruột khi bà
lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ, của con nhà bác”. Quay
ngược thời gian như vậy, nhà văn đã cho ta một cái nhìn toàn diện hơn về
cuộc đời bà lão lòa; đồng thời ông cũng nhấn mạnh thái độ lên án, phê phán
đối với cuộc đời này. Một quá khứ tử tế, ăn ở phúc đức nhưng đổi lại chỉ là
một hiện thực cay đắng : con trai ăn chơi, phá của đến nỗi “bán ruộng, cầm
nhà” khiến bà thành tật nguyền, nghèo khổ và đứa cháu họ vô ơn bạc nghĩa
đối xử với ân nhân của mình không ra gì. Hiện tại bà cụ chẳng gặp lành dù
ngày trước đã ăn ở rất hiền lành, hiện tại người ta vong ân dù quá khứ vốn
chịu nhiều ơn cứu giúp của bà – những đối nghịch thời gian đi kèm với
nghịch lí cuộc đời khiến câu chuyện cứ ám ảnh chúng ta mãi.
Không đi vào những nghịch lí thời gian như trên, một loạt tác phẩm đã
đưa ra hiện thực tha hóa hoặc bi đát rồi giúp người đọc đi tìm nguyên nhân
trong quá khứ. Không đi theo thời gian tuyến tính, những câu chuyện ngược
dòng, đan xen hôm nay – ngày trước khiến người đọc có thêm nhiều suy
nghĩ.
Nhân vật Lê Vân trong truyện ngắn Gương … tống tiền giờ đây bệ rạc,
chán đời, phung phí tuổi trẻ khi “làm bạn với ả phù dung”, đến nỗi “từ một
thiếu niên có tương lai tốt đẹp” nay đã thành “kẻ bị xã hội khinh bỉ…, ma dại
thân tàn”. Tất cả cũng chỉ vì nỗi thất vọng trong tình yêu với Loan. Vì tình
yêu, Lê Vân điên đảo cuộc đời, phá nát tương lai. Và cũng bất ngờ thay,
chính nhờ tình yêu cay đắng ngày xưa ấy Vân kiếm chác được ít tiền duy trì
tháng ngày “sống mòn” của mình. Khởi đầu nhân vật này khiến người đọc có
cảm xúc giận dữ nhưng vẫn còn chút xót xa nhưng càng về sau, qua cách trần
thuật giàu kịch tính của tác giả, ta chỉ còn một cảm giác khinh bỉ tận cùng
dành cho Lê Vân.
Chống nạng lên đường và Tội người cô cũng trình bày cho ta thảm
cảnh hiện tại của hai nhân vật Hai Xuân và người cô ông chủ nhà. Hai Xuân
chịu cảnh tật nguyền, phải sống nhờ vào anh và hằng ngày chứng kiến cảnh
vì một người làm nuôi cả nhà, vì thiếu cơm mà anh của Xuân “mắng bố, gắt
mẹ, chửi nồi, chửi rế, chửi đôi guốc đang đi mà quai đứt, chửi xó nhà lắm
muỗi vo vo...”. Tất cả cũng chỉ vì một buổi kéo xe Hai Xuân đã bị xe hơi chẹt
phải đến nỗi đành cưa chân thành tật nguyền. Cả một số phận con người rẽ
sang bước ngoặt tăm tối trong một tích tắc oan trái của quá khứ. Bên cạnh đó,
tác giả còn để cho nhân vật hồi tưởng lại ngày xưa nghèo khổ mà vui vẻ khi
sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc được trở về nhà, “đến chĩnh nước ngửa cổ
“tu” một hơi nước lã thật dài xong thở đánh “hà à à”một cái rất khoái chí
rồi cầm mảnh mo vừa quạt vừa bước vào nhà ngơ ngác nhìn xem bố mẹ đã
thổi chín cơm chưa, để liệu dọn mâm bát”, một ngày xưa thân ái với cảnh
“mâm cơm dọn xong, nó chỉ còn chờ anh Cả cho nó đi làm về là cùng ngồi
vào, tuy bữa nào cũng chẳng hơn gì bữa nào, chỉ rặt cà, tương, dưa muối mà
thằng Xuân ăn thấy rất ngon”. Thế nhưng quá khứ ấy chỉ là thoáng chốc còn
hiện tại đau đớn khố khổ khốn nạn mới kéo dài chưa biết đến đâu. Khởi đầu
với hiện thực phũ phàng, cay đắng rồi sống lại với quá khứ giản dị mà tươi
đẹp, câu chuyện đã khiến chúng ta thêm ngậm ngùi buồn đau cho số phận
con người.
Mở đầu truyện ngắn Tội người cô là hình ảnh một “bà già chít khăn
vuông, chống gậy” đang “lom khom bước lên thềm gạch, rón rén đến gần
cửa sổ” mà trông vào khung cảnh tiệc tùng bên trong “tòa nhà tây hai tầng,
một tòa nhà có vẻ kiêu hãnh vô cùng”. Từ sự ngạc nhiên của nhân vật “tôi”,
người bạn đã kể lại nguyên nhân vì sao bà già - “chính là cô ruột của chủ
nhân tòa nhà ấy” – lại phải chịu cảnh cô đơn, hắt hủi. Ngược về quá khứ, tác
giả cho ta biết được bà cô ấy là một người phụ nữ quá lứa lỡ thì, ở vậy và
sống cùng cháu ruột, đã từng rất thương và quan tâm đến cháu, hết lòng vì
cháu mình. Bà cô “vẫn đi trông nom bà vợ ông cháu mình những khi đi xa,
trẩy hội” và cũng chính bà “trong cái đêm cháu dâu bất thình lình trở dạ,
trời mưa như bão” nhưng “vẫn khoác áo tơi ton tả ra đi, vượt mấy cánh
đồng để tìm bà đỡ”. Thế nhưng cũng vì quá thương đứa cháu bé, bà đã ẵm
cháu đi chơi cả buổi chiều, lại cho cháu ăn kẹo bột đến nỗi “thằng bé đến
đêm thấy trở, thấy nôn rồi khóc lên ngằn ngặt”, “phải nhịn bú mãi đến chiều
hôm sau”. Và sau này vì “bà chiều cháu quá một hôm đưa dao cho cháu để
cháu cứa đứt cả tay” nên đã bị cha mẹ nó đuổi ra khỏi nhà. Rồi từ đó người
cô tội nghiệp ấy “phơ mái tóc hoa râm ra giữa nắng, ngồi nhìn chồng bánh
đa, mấy củ khoai, mấy quả chuối bày trên cái mẹt một cách buồn rầu, mỗi khi
thấy tiếng dép của khách qua đường lại ngước mắt lên nhìn một cách đau
đớn như muốn van lạy khách mua cho…” nhưng “vẫn chẳng rứt tình quên
được cháu, mỗi khi thấy bố mẹ nó chè chén vì nó là bà lại chống gậy tìm đến,
lần nào cũng chỉ đứng ngoài cửa kính ghé mắt nhìn vào”. Cũng trong câu
chuyện quá khứ ấy, chúng ta biết bố mẹ đứa trẻ tuy giàu có nhưng hiếm
muộn, đã bốn năm trời “mang hương hoa lễ khắp các chùa cầu tự” để có
được mụn con nên thương quí nó cũng là hợp lí. Nhưng thương yêu con đến
độ để bảo vệ nó mà đành đoạn đuổi cả cô ruột ra đường tự mưu sinh thì thật
vô lí. Tình thương với tình thương không thể có sự mâu thuẫn, nhưng nếu
một bên là yêu thương hết mình không nghĩ ngợi còn bên kia lẫn trong tình
thương là toan tính, lạnh lùng, tàn nhẫn, vong ân thì quả thật không thể nào
tồn tại chung được với nhau. Mượn lời người bạn để hiểu được một quá khứ
lắm nỗi và một cuộc đời đáng thương, truyện ngắn này thật đúng với nhan đề
của nó : thật tội cho người cô; chỉ vì cái “tội” yêu thương đến dại khờ, hi sinh
đến mê muội mà phải chịu cảnh cô độc, ghẻ lạnh đớn đau.
Cái hàng rào - một truyện ngắn được cho là một đoạn của tiểu thuyết
Bởi không duyên kiếp (tức Dứt tình) - cũng được thuật lại với kết cấu đảo
trình tự thời gian. Đoạn đối thoại khá gay cấn giữa hai nhân vật - Phong và
Tiết Hằng - ở đầu tác phẩm đã dần chuyển sang chuyện quá khứ để giúp ta
hình dung ra phần nào cơ sự của ngày hôm nay. Chuyện của ba năm về trước,
hai người yêu nhau nhưng đã không đến được với nhau vì mẹ Phong “kịp lúc
đoạn tang” đã cải giá với cha của Tiết Hằng. Sự tình ai oán, éo le này khiến
Phong xót xa nghĩ rằng “sự thành hôn, cuộc gắn bó giữa mình với Hằng sẽ là
một bài văn khôi hài cho miệng thế”. Vì vậy, anh đã rứt áo ra đi, bỏ lại Tiết
Hằng “đứng rũ rượi, dựa vào một cột đèn ở ga”. Để rồi sau đó, Tiết Hằng
lấy một người chồng theo sự sắp đặt của cha và chịu cảnh góa bụa chỉ sau ít
năm ngắn ngủi. Về phần Phong, anh “lên thượng du, sống cái đời mây rừng
gió núi, coi sóc việc thầu đốn rừng lim của cha để lại cho” và sống trong nỗi
“lo buồn, áy náy, hối hận” trước cảnh đời của người tình cũ. Quá trình nhân
vật Phong từ “một cậu học trò yếu ớt nhưng có một trái tim bọc sắt” hóa
thành “cái thân thể vạm vỡ lẩn trong một bộ quần áo đi săn mũ da cáo, giầy
ống, áo tơi nhưng có trái tim đa cảm của đàn bà” đã được tác giả diễn tả sinh
động, khéo léo, chân thực qua cách trần thuật đan xen, lồng ghép quá khứ và
thực tại, nhưng chiếm phần lớn vẫn là chuyện của quá khứ. Và cuộc đối thoại
gay cấn đầu tác phẩm đã có một điểm dừng, dù xót xa, bất ngờ. Dĩ nhiên để
đi đến được kết thúc này phải trải qua một quá trình dẫn dắt sống động
ngược dòng thời gian để lí giải cho hiện tại, đan xen bao nỗi niềm trong quá
khứ để thể hiện rõ sự đời lắm khi ngang trái.
Những truyện ngắn trên là minh chứng tiêu biểu cho lối trần thuật đảo
trình tự thời gian của Vũ Trọng Phụng. Xét ở khía cạnh kết cấu trần thuật,
cách kể chuyện này ít nhiều cũng đã hình thành nên một nét đặc sắc cho
truyện ngắn của tác giả.
1.1.2 Kết cấu trần thuật dạng “truyện lồng trong truyện” :
Trong bài viết “Sự di chuyển của kết cấu truyện lồng truyện và kiểu
truyện khung trong văn học từ Ấn Độ sang Đông Nam Á” (trích từ trang web
www.khoavanhocngonngu.edu.vn), tác giả Nguyễn Ngọc Bảo Trâm cho ta
biết được kết cấu truyện lồng truyện ở góc độ một thủ pháp văn chương đã
xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học thế giới. Nói một cách đơn giản đây
là thủ pháp để lồng ghép một câu chuyện độc lập (có liên quan hoặc không về
mặt nội dung) vào tác phẩm chính trong quá trình diễn tiến của tác phẩm. Có
thể thấy biểu hiện xa xưa của nó trong sử thi Odyssey của Hy Lạp (thế kỷ
VIII trước công nguyên) khi người anh hùng Ulysses tự kể lại những chuyện
phiêu lưu của mình trong bữa tiệc. Từ thời cổ đại, kết cấu truyện lồng truyện
đã được văn học Ấn Độ sử dụng triệt để để tạo nên hai thiên sử thi đồ sộ nhất
trong lịch sử nhân loại là Mahabharata (thế kỷ V trước công nguyên) và
Ramayana (khoảng thế kỷ IV-III trước công nguyên).
Với truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX, kết cấu truyện lồng trong
truyện là một lối kết cấu mới mẻ, thể hiện việc chịu ảnh hưởng phương Tây
rõ nét, mà tác phẩm đầu tiên cần kể tới là truyện Thầy Lazarô Phiền của
Nguyễn Trọng Quản. Trong truyện Thầy Lazarô Phiền có tới hai chuyện:
chuyện thứ nhất là của nhân vật “tôi” kể cho bạn đọc nghe về cuộc gặp gỡ
giữa bản thân và thầy Phiền, chuyện thứ hai là chính thầy Phiền đã kể lại
chuyện đời mình cho nhân vật “tôi” nghe từ việc thầy đã lấy được một người
vợ đáng yêu như thế nào, thầy đã nghi ngờ và tìm cách giết vợ ra sao, và
những ăn năn dằn vặt của thầy …).
Một đặc điểm đáng lưu ý nữa là ở những tác phẩm có kết cấu truyện
lồng trong truyện như vừa nêu trên là những câu chuyện trong một truyện
không tách rời mà luôn được đan cài vào nhau rất linh hoạt, tự nhiên, cho
người đọc những ấn tượng về sự chân thực của chuyện được kể, kéo họ lại
gần với thế giới nghệ thuật của tác phẩm hơn, đồng thời tạo sự sinh động cho
truyện.
Mặt khác, sự đan cài hai câu chuyện vào nhau là một cách thức tạo sự
luân phiên điểm nhìn, góp phần làm cho nhân vật (nhất là thế giới nội tâm
của nó) được xem xét dưới nhiều góc độ và được xây dựng một cách tự nhiên
hơn. Đó chính là thế mạnh của kết cấu truyện lồng trong truyện, góp phần tạo
dựng cho truyện một nghệ thuật trần thuật hiện đại.
Như đã nêu trên, kết cấu “truyện lồng trong chuyện” không phả