Khóa luận Thực trạng và xu hướng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam

Việt Nam hiện nay là một trong những quốc gia đang phát triển nhanh trên thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 8%. Trong đó, khu vực công nghiệp được đánh giá là một lĩnh vực phát triển mạnh, giữ một vai trò quan trọng cả về giá trị đóng góp và khả năng tạo ra việc làm cho nền kinh tế. Sự thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế cũng thu hút được ngày càng nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Trong khi đó, xu thế hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa, chuyên môn hóa đặt ra thách thức cho các doanh nghiệp trong nước cần phải nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh thông qua các liên kết kinh doanh và xác lập được vị trí của đất nước trong “ch uỗi giá trị toàn cầu”. Đến nay thì hầu như tất cả các cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đều nhất trí là ngành CNPT có vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường sức cạnh tranh công nghiệp và góp phần thúc đẩy quá trình CNH-HĐH đất nước. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam, khái niệm CNPT còn khá mới mẻ với nhiều đối tượng, và sự phát triển của ngành này mới ở giai đoạn bắt đầu. Chính điều này làm cho môi trường đầu tư Việt Nam kém hấp dẫn các nhà đầu tư FDI và làm hạn chế những cơ hội kinh doanh với các DN lắp ráp, các công ty đa quốc gia.

pdf111 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2815 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và xu hướng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khoá luận tốt nghiệp Lại Thị Hoa Lớp: Anh 12-K43- KTNT 1 TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI i KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: THỰC TRẠNG VÀ XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ Ở VIỆT NAM Sinh viên thực hiện : Lại Thị Hoa Lớp : Anh 12 Khóa : 43 Giáo viên hƣớng dẫn : ThS. Trần Thị Ngọc Quyên HÀ NỘI, 06 - 2008 Khoá luận tốt nghiệp Lại Thị Hoa Lớp: Anh 12-K43- KTNT 2 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam hiện nay là một trong những quốc gia đang phát triển nhanh trên thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 8%. Trong đó, khu vực công nghiệp được đánh giá là một lĩnh vực phát triển mạnh, giữ một vai trò quan trọng cả về giá trị đóng góp và khả năng tạo ra việc làm cho nền kinh tế. Sự thay đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế cũng thu hút được ngày càng nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Trong khi đó, xu thế hội nhập kinh tế, toàn cầu hóa, chuyên môn hóa đặt ra thách thức cho các doanh nghiệp trong nước cần phải nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh thông qua các liên kết kinh doanh và xác lập được vị trí của đất nước trong “chuỗi giá trị toàn cầu”. Đến nay thì hầu như tất cả các cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đều nhất trí là ngành CNPT có vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường sức cạnh tranh công nghiệp và góp phần thúc đẩy quá trình CNH-HĐH đất nước. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam, khái niệm CNPT còn khá mới mẻ với nhiều đối tượng, và sự phát triển của ngành này mới ở giai đoạn bắt đầu. Chính điều này làm cho môi trường đầu tư Việt Nam kém hấp dẫn các nhà đầu tư FDI và làm hạn chế những cơ hội kinh doanh với các DN lắp ráp, các công ty đa quốc gia. Để thực hiện được chiến lược phát triển ngành công nghiệp trong thời kỳ hội nhập hiện nay, thì việc tiến hành nghiên cứu và đề ra các chính sách để đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của ngành CNPT được coi là một nhiệm vụ cần thiết và cấp bách. Chính vì những lý do đó mà em xin mạnh dạn chọn đề tài “ Thực trạng và xu hướng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài khoá luận chủ yếu tập trung vào những nội dung sau: Khoá luận tốt nghiệp Lại Thị Hoa Lớp: Anh 12-K43- KTNT 3 Phân tích và làm rõ khái niệm CNPT, xác định được phạm vi, vai trò và yêu cầu phát triển ngành CNPT. Đồng thời, bài viết cũng đúc kết được một số kinh nghiệm về phát triển ngành CNPT ở một số quốc gia khác. Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển ngành CNPT hiện nay của Việt Nam ở một số ngành cụ thể, chỉ ra một số xu hướng phát triển trên thế giới hiện nay có tác động đến định hướng phát triển CNPT ở Việt Nam. Cuối cùng, người viết tập trung vào trả lời câu hỏi: Làm thế nào để phát triển ngành CNPT ở Việt Nam trong giai đoạn tới, bằng cách đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường mối liên kết với DN hoạt động trong lĩnh vực lắp ráp của các DN hoạt động trong lĩnh vực CNPT. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của bài viết là ngành CNPT, chủ yếu là vào các ngành sản xuất ra sản phẩm phụ trợ cho các ngành công nghiệp lắp ráp, chế tạo. Phạm vi nghiên cứu tập trung vào các DN sản xuất trong nước và các DN có vốn ĐTNN đang hoạt động trong lĩnh vực CNPT tại Việt Nam, tính từ năm 2003 đến nay. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập dữ liệu: người viết đã tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu, chọn lọc khá nhiều tài liệu sơ cấp và thứ cấp liên quan. Phương pháp phân tích dữ liệu: chủ yếu là so sánh số liệu liên quan giữa các năm, để từ đó rút ra được xu hướng phát triển của ngành CNPT thời gian tới. 5. Kết cấu khoá luận Kết cấu của bài khóa luận gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về ngành công nghiệp phụ trợ Chương II: Thực trạng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam Chương III: Xu hướng và giải pháp phát triển ngành CNPT ở Việt Nam trong giai đoạn 2010-2020. Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, tận tình hướng dẫn của ThS. Trần Thị Ngọc Quyên đã giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Do vấn đề còn khá mới mẻ và sự hạn chế trong khả năng nhận thức, em rất mong nhận được sự đánh giá và đóng góp ý kiến của các thầy các cô và các bạn để giúp em hoàn thiện hơn nữa đề tài này. Khoá luận tốt nghiệp Lại Thị Hoa Lớp: Anh 12-K43- KTNT 4 CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ I. Khái niệm và đặc điểm của ngành công nghiệp phụ trợ 1. Khái niệm ngành công nghiệp phụ trợ 1.1. Sự xuất hiện khái niệm công nghiệp phụ trợ Hiện nay, thuật ngữ “Công nghiệp phụ trợ”(CNPT) được đề cập đến khá nhiều khi nói về những ngành cung cấp đầu vào, cung cấp linh kiện, phụ tùng và công cụ cho một số ngành công nghiệp nhất định- mà thường gọi là các ngành công nghiệp chính. Đến nay, thuật ngữ này đã được sử dụng khá phổ biến trên thế giới, không chỉ những nước công nghiệp phát triển mà cả những nước đang phát triển cũng rất quan tâm và đã đạt được một số kết quả nhất định (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan...). Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều mơ hồ về nguồn gốc cũng như ý nghĩa của thuật ngữ CNPT, đồng thời cũng chưa có định nghĩa thống nhất nào. Trên thực tế, CNPT là một từ tiếng Anh- Nhật đã được sử dụng từ lâu, thậm chí trước khi nó được chính thức hoá. Thuật ngữ này đã trở nên thông dụng ở Nhật Bản từ khoảng giữa thập niên 1980, từ khi nó được Chính phủ Nhật Bản sử dụng trong các tài liệu văn bản của nước mình. Theo đó, khái niệm CNPT bao quát toàn bộ những cơ sở công nghiệp làm ra các sản phẩm có vai trò hỗ trợ việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể, đó là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm…,cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Sản phẩm CNPT thường được tiến hành sản xuất với quy mô không lớn tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Chính vì vậy, nhiều khi người ta đồng nhất, một cách vô thức, CNPT với SMEs trong ngành công nghiệp. Từ Nhật Bản, cùng với dòng vốn FDI, khái niệm CNPT nhanh chóng được lan rộng và sử dụng tại các nước trong khu vực, tuy rằng cách diễn đạt và phạm vi ít nhiều có sự khác nhau. Theo như một số ghi chép thì tài liệu đầu tiên sử dụng thuật ngữ CNPT là “Sách trắng về Hợp tác kinh tế” (1985) của Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Khoá luận tốt nghiệp Lại Thị Hoa Lớp: Anh 12-K43- KTNT 5 (MITI) Nhật Bản 1. Trong cuốn sách này, thuật ngữ CNPT dùng để chỉ những SMEs có đóng góp cho việc phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp ở các nước Châu Á trung và dài hạn, hay để chỉ các SMEs “sản xuất linh phụ kiện”. Mục đích của MITI tại thời điểm đó là thúc đẩy quá trình CNH và phát triển các SMEs ở các nước ASEAN, đặc biệt là ASEAN 4, gồm Inđônêxia, Malayxia, Philipines và Thái Lan. Từ năm 1987, các nước Châu Á đã bắt đầu biết đến và sử dụng thuật ngữ CNPT, đó là nhờ “ Kế hoạch phát triển Công nghiệp Châu Á mới” (New AID Plan). Đây là một chương trình hợp tác kinh tế toàn diện ba phương diện : viện trợ, đầu tư và thương mại. Cũng trong khuôn khổ của kế hoạch này, chương trình “ Phát triển CNPT Châu Á” ra đời năm 1993 nhằm giải quyết các vấn đề về thâm hụt thương mại, thiếu hụt lao động chuyên nghiệp ở các nước ASEAN 4 và thúc đẩy quan hệ hợp tác công nghiệp giữa Nhật Bản với các nước này. Trong chương trình này, CNPT mới chính thức được định nghĩa là “các ngành công nghiệp cung cấp những gì cần thiết như nguyên vật liệu thô, linh phụ kiện và hàng hoá Tư bản cho những ngành công nghiệp lắp ráp”2. Như vậy có thể thấy phạm vi định nghĩa của khái niệm đã được mở rộng : từ các SMEs tới công nghiệp sản xuất hàng hoá trung gian và hàng hoá tư bản cho ngành công nghiệp lắp ráp mà không phân biệt quy mô DN. Mặc dù thuật ngữ CNPT mới xuất hiện từ thập niên 1980 cùng với dòng chảy FDI từ Nhật Bản sang các nước ASEAN 4, song thực tế thì ngành công nghiệp chuyên sản xuất linh phụ kiện đã xuất hiện từ lâu, gắn với quá trình chuyên môn hoá trong sản xuất và được gọi là hình thái xuất hiện cuả CNPT trong quá khứ 3. Theo đó, khi quy mô sản xuất của một công ty lớn lên tất yếu kéo theo mức độ phức tạp hoá trong sản xuất sản phẩm (sản phẩm đòi hỏi nhiều chức năng mới hơn, kỹ thuật trong từng công đoạn cần được tăng cường và chuyên môn hoá). Điều này dẫn 1 Từ tháng 01/2001, MITI đã đổi tên thành METI- Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản 2 Trích từ hiệp hội các doanh nghiệp hải ngoại Nhật Bản JOEA 3 Hình thái CNPT trong hiện tại xuất hiện sau khi công nghiệp lắp ráp (do các nhà đầu tư nước ngoài) đã xuất hiện. Hình thái CNPT quá khứ xuât hiện đồng thời với CN lắp ráp. Khoá luận tốt nghiệp Lại Thị Hoa Lớp: Anh 12-K43- KTNT 6 đến sự phân ly các hoạt động lắp ráp và sản xuất linh kiện thành những công đoạn độc lập. Những công đoạn này phát triển là tiền thân của các công ty con, hiện thân của CNPT trong quá khứ. Lý do tại sao thuật ngữ này lại xuất hiện ở Nhật Bản mà không phải ở các nước khác và lại vào thời điểm thập niên 1980 có thể được giải thích bởi sự tăng giá của đồng Yên. Từ sau Hiệp định Plaza (09/1985), giá đồng Yên tăng từ 240yên/USD (09/1985) lên tới 160 yên/USD (04/1986), điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới các DN xuất khẩu Nhật Bản. Các DN này cắt giảm xuất khẩu sản phẩm cuối cùng và chuyển cơ sở sản xuất sang các nước có chi phí nhân công rẻ hơn. Mặc dù vậy, các DN này vẫn phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nhà thầu Nhật Bản vì các nước đang phát triển mà họ đặt cơ sở sản xuất không có khả năng cung cấp những linh phụ kiện quan trọng, bao gồm cả các nước ASEAN4. Thuật ngữ CNPT được ra đời nhằm chỉ ra sự thiếu vắng các hoạt động công nghiệp nêu trên ở các nước Đông Nam Á. Thông qua “Kế hoạch phát triển Công nghiệp Châu Á mới (New AID Plan)” và “ Chương trình Phát triển CNPT Châu Á 1993”, thuật ngữ này đã được nhân rộng ra các nước Châu Á. Nỗ lực của MITI là điều kiện đủ cho sự ra đời cuả thuật ngữ này ở Nhật Bản và Châu Á những năm 1980. Trong số các nền kinh tế Đông Nam Á, Nhật Bản và Đài Loan có ngành CNPT lớn mạnh nhất . Còn ở hầu hết các nước đang phát triển, CNPT hoặc chưa tồn tại hoặc rất yếu. So với các nước ASEAN 4, những nước đã có ít nhất vài thập kỷ để thúc đẩy CNPT, CNPT của Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn sơ khai. Thuật ngữ CNPT cũng mới chỉ xuất hiện ở Vịêt Nam vào khoảng năm 2003. Trước đó, Chính phủ Việt Nam cũng không chú ý nhiều đến thuật ngữ này cũng như việc xây dựng các ngành công nghiệp này. Trước năm 1986, với chính sách tự cung tự cấp và nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung phát triển Công nghiệp nặng, Việt Nam tập trung phát triển các ngành công nghiệp theo cơ chế tích hợp, tức là sản xuất toàn bộ các yếu tố đầu vào, linh kịên hay phụ kịên dùng cho các ngành công nghiệp như công nghiệp sản xuất máy nông nghiệp, xe đạp và ôtô….trong cùng một DN. Từ sau khi Đổi mới 1986, các ngành công nghiệp này hoặc không còn tồn tại hoặc tái cơ cấu hoặc chuyển sang hoạt động khác. Tuy vậy, Chính phủ vẫn chưa có sự quan Khoá luận tốt nghiệp Lại Thị Hoa Lớp: Anh 12-K43- KTNT 7 tâm thích đáng tới vấn đề này, do còn phải đối phó với những vấn đề cấp bách khác như phát triển nông nghiệp, cải cách kinh tế và xoá đói giảm nghèo…Từ giữa thập niên 1990, khi đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các nhà cung cấp các sản phẩm đầu vào mà đáp ứng được các tiêu chuẩn và yêu cầu của họ. Nhằm giúp Việt Nam cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư, Nhật Bản đã thông qua dự án Isikawa (1995), “Sáng kiến Miyazawa mới”(1999) và “Sáng kiến chung Việt Nam- Nhật Bản” (2003). Nội dung chính của dự án Ishikawa là giúp Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế định hướng thị trường một cách thuận lợi hơn, hội nhập với cộng đồng quốc tế, hiện đại hoá hệ thống tài chính, nâng cao năng lực cạnh tranh trong công nghiệp và phát triển khu vực nông thôn. Sáng kiến Miyazawa mới là vốn vay Hỗ trợ Phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản dành cho Việt Nam, dùng để khuyến khích các chính sách cải cách kinh tế của Việt Nam, gồm xây dựng chương trình thúc đẩy khu vực tư nhân, kiểm toán các DNNN, thuế và hàng rào phi thuế. Nói chung, những chương trình này đã mang đến rất nhiều lợi ích cho Việt Nam như tạo ra được môi trường kinh doanh tốt, qua đó thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài hơn. Thế nhưng, phải đến năm 2003, thuật ngữ CNPT được chính thức sử dụng tại Việt Nam, khi Chính phủ chỉ đạo các công việc chuẩn bị để tiến tới ký kết “Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản” nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và tăng cường khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Bản Kế hoạch hành động triển khai Sáng kiến chung, được Chính phủ hai nước thông qua, bao gồm 44 hạng mục lớn, trong đó hạng mục đầu tiên chính là nhằm phát triển CNPT ở Việt Nam. 1.2. Một số khái niệm liên quan Ở Việt Nam, khi đề cập về các ngành công nghiệp sản xuất hỗ trợ sự phát triển của các ngành công nghiệp chính, người ta gọi theo nhiều cái tên khác nhau như: công nghiệp phụ trợ, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp yểm trợ hay ngành công nghiệp chế tạo sản xuất phụ linh kiện [2]….do chưa có một văn bản mang tính pháp lý nào đưa ra một tên gọi và định nghĩa thống nhất. Trên thế giới, cũng tồn tại một Khoá luận tốt nghiệp Lại Thị Hoa Lớp: Anh 12-K43- KTNT 8 vài khái niệm liên quan đến ngành công nghiệp cung cấp đầu vào như: công nghiệp liên quan và hỗ trợ, công nghiệp phụ thuộc, công nghiệp linh phụ kiện….[23] Thuật ngữ “công nghiệp liên quan và hỗ trợ” (related and supporting industries) được nhắc đến trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh của quốc gia” (The competitive advantage of nations -1990) của giáo sư Michael E.Porter (trường Đại học Havard), được hiểu là “sự tồn tại của ngành công nghiệp cung cấp và ngành công nghiệp liên quan có năng lực cạnh tranh quốc tế”. Theo tác giả, tính cạnh tranh của một ngành phụ thuộc vào sức mạnh của các nhà cung cấp các hàng hoá và các dịch vụ hỗ trợ4 . Sự hiện diện cụm công nghiệp tạo ra cho DN lợi thế kinh tế theo quy mô. Sự gần gũi của nhà cung cấp và các hãng hỗ trợ khác có thể giúp cho việc đổi mới và cắt giảm chi phí giao dịch. Porter chia yếu tố này thành hai phần : công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp liên quan. Công nghiệp hỗ trợ tạo ra lợi thế cho các ngành công nghiệp hạ nguồn vì chúng sản xuất ra những đầu vào được sử dụng rộng rãi và có tầm quan trọng trong cải tiến và quốc tế hoá, còn công nghiệp liên quan là những ngành trong đó DN có thể phối hợp hoặc chia sẻ các hoạt động trong cùng một chuỗi giá trị khi họ cạnh tranh nhau hoặc là những ngành sản xuất ra các sản phẩm có tính chất bổ sung cho nhau. Thuật ngữ của Porter mang tính học thuật và có phạm vi rộng trong khi thuật ngữ của MITI mang tính thực tế và cụ thể hơn. Tuy vậy, cả hai đều nhấn mạnh tầm quan trọng của CNPT trong việc tăng cường sức cạnh tranh công nghiệp của quốc gia. Thuật ngữ công nghiệp phụ thuộc được sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ từ những năm 1950, được định nghĩa là “hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp có liên quan đến hoặc có dự định liên quan đến việc chế tạo hoặc sản xuất linh kiện, phụ tùng, cụm linh kiện, công cụ hoặc hàng hoá trung gian, hoặc cung cấp dịch vụ…”( theo 4 Ngoài ra còn cái yếu tố khác như các điều kiện về nhân tố sản xuất, điều kiện về nhu cầu thị trường, các ngành hỗ trợ và chiến lược, cơ cấu và tính thi đua của doanh nghiệp, hai biến số bổ sung là vai trò của nhà nước và yếu tố thời cơ. Tất cả các yếu tố này tạo nên mô hình “ Viên kim cương” nổi tiếng. Khoá luận tốt nghiệp Lại Thị Hoa Lớp: Anh 12-K43- KTNT 9 Luật (Phát triển và Điều chỉnh) công nghiệp Ấn Độ năm 1951). Thuật ngữ này chỉ được biết đến trong phạm vi Ấn Độ. Thuật ngữ công nghiệp linh phụ kiện được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp lắp ráp như xe máy, ôtô, điện và điện tử. Đây là thuật ngữ có phạm vi hẹp nhất, vì nó không bao gồm các đầu vào khác có thể có như trong thuật ngữ CNPT, như dịch vụ, công cụ, máy móc và nguyên liệu. Công nghiệp linh phụ kiện có thể được xem là trung tâm của CNPT. Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất nào cho vấn đề này, do có sự khác nhau trong cách hiểu và mục đích khi nghiên cứu của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách. Hiểu theo nghĩa rộng, có thể hiểu CNPT bao gồm toàn bộ các ngành công nghiệp đầu vào, còn theo nghĩa hẹp, đó là ngành công nghiệp chỉ cung cấp linh kiện, phụ tùng và công cụ cho một số ngành nhất định. 1.3. Khái niệm ngành CNPT Thuật ngữ CNPT được sử dụng khá rộng rãi, đặc biệt là ở Đông Á. Trong công nghiệp nói chung, cách phân chia các ngành thông thường là công nghiệp ô tô, công nghiệp điện tử, công nghiệp xe máy, công nghiệp dệt may, công nghiệp chế tạo tư liệu sản xuất, công nghiệp chế tạo hàng tiêu dùng….Tuy nhiên, ngành CNPT không phải là một ngành cụ thể như trên, mà nó bao hàm toàn bộ những lĩnh vực sản xuất sản phẩm trung gian (linh kiện, bộ phận) cung cấp cho ngành công nghiệp lắp ráp (ô tô, xe máy, điện tử..). Ngoài ra, ngành CNPT còn cung cấp những sản phẩm đầu vào cho ngành chế biến như giày da, dệt may…Nói cách khác, nó bao phủ một phạm vi khá rộng nhiều ngành công nghiệp. Tuy nhiên, định nghĩa của nó thì vẫn chưa rõ ràng trên cả phương diện kinh doanh và lý thuyết kinh tế học[22]. Theo lý thuyết kinh tế, thì CNPT được định nghĩa là một nhóm các nhà sản xuất các yếu tố đầu vào (group of producers of manufactured inputs). Để sản xuất ra thành phẩm cuối cùng thì cần trải qua nhiều công đoạn, bao gồm việc sản xuất và lắp ráp các yếu tố đầu vào (gồm hàng hóa tư bản và hàng hoá trung gian). Ví dụ, trong quá trình sản xuất các sản phẩm điện tử dân dụng, các phụ kiện sản xuất làm Khoá luận tốt nghiệp Lại Thị Hoa Lớp: Anh 12-K43- KTNT 10 bằng kim loại hoặc nhựa được coi là sản phẩm trung gian, trong khi đó, máy móc và công cụ để sản xuất ra các sản phẩm trung gian đó thì gọi là các hàng hoá tư bản. Xét trên góc độ sản xuất kinh doanh, ngành CNPT bao gồm việc sản xuất ra các linh phụ kiện sản xuất (production parts) và máy móc (machinery), công cụ (tooling) để sản xuất ra các linh phụ kiện đó. Hệ thống sản xuất hiện đại gồm nhiều quá trình như lắp ráp thành phẩm, lắp ráp bán thành phẩm, sản xuất linh phụ kiện, máy móc, công cụ, nguyên vật liệu và nguyên vật liệu thô (Hình 1). Lấy việc sản xuất hàng điện tử như tivi làm ví dụ, dầu là nguyên vật liệu thô, còn polypropylene là nguyên liệu dùng cho các linh kiện nhựa. Để tạo ra các linh kiện nhựa còn cần đền máy móc và công cụ để phun và đúc nhựa. Một ví dụ của bán thành phẩm là máy cát-xét của dàn âm thanh Hi- Fi, hay các bộ phận như đầu máy xe, thân xe, bánh xe...phục vụ cho lắp ráp xe hơi . Cuối cùng, quá trình kết hợp tất cả linh phụ kiện và các bán sản phẩm này thì mới tạo ra thành phẩm cuối cùng. Trong cơ cấu sản xuất như thế này, thì ngành CNPT ám chỉ ngành sản xuất ra các linh phụ kiện công nghệ cao, công cụ, máy móc hỗ trợ trực tiếp quá trình tiền lắp ráp và lắp ráp cuối cùng 5. 5 Đôi khi, quá trình lắp ráp bán thành phẩm cũng được xếp vào ngành CNPT. Tuy nhiên, do đặc điểm của sản phẩm CNPT thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các doanh nghiệp SMEs, nên đối với việc sản xuất các bộ phận như cát xét, đầu máy xe, thân xe, bánh xe... thường không được coi là CNPT vì chủ yếu do các công ty lớn sản xuất với quy mô lớn. Khoá luận tốt nghiệp Lại Thị Hoa Lớp: Anh 12-K43- KTNT 11 Hình 1 : Cấu trúc cơ bản của quá trình sản xuất Nguồn: Junichi Mori, 20005, Development of Supporting Industries for Vietnam’s Industrialization: : Increasing positive vertical externalities through collaborative training Xét về tổ chức kinh doanh, thì ngành CNPT gồm 3 loại hình DN: Một là, các nhà cung cấp linh kiện, bộ phận, và công cụ máy móc đặt ở nước ngoài. Hai l