Cây chuối được nhân giống theo phương pháp truyền thống (tách chồi) thường sinh trưởng kém, phát triển chậm, cây không đồng đều, lâu cho thu hoạch, thu hoạch không tập trung. Phương pháp nhân giống này thường làm cây con bị mắc bệnh virus rất nguy hiểm dẫn đến tình trạng thoái hoá giống cao.
Hiện nay người dân thường sử dụng cây con chuối được nhân từ phương pháp nuôi cấy mô, đặc biệt phổ biến ở những vùng trồng chuối lớn, tập trung. Từ 1 củ chuối, thông qua phương pháp nuôi cấy mô sau 1 năm có thể sản xuất được tới 2.000 cây chuối con sạch bệnh và chất lượng cao để trồng ra vườn sản xuất. Cây chuối nuôi cấy mô được trồng trong túi bầu nhỏ gọn nên dễ vận chuyển đi xa an toàn. Trồng bằng cây giống nuôi cấy mô cho tỷ lệ sống cao, cây sinh trưởng nhanh, phát triển mạnh, đồng đều, thời gian từ lúc trồng đến thu hoạch được rút ngắn. Tính đồng nhất của giống chuối nuôi cấy mô giúp chúng ta có thể điều khiển được thời gian ra hoa và thời gian thu hoạch cũng như tăng năng suất và chất lượng trái.
Thông qua phương pháp nuối cấy mô người ta tạo ra 1 cây con giống hoàn toàn sạch bệnh, đặc biệt là với các bệnh do virus gây ra. Theo tổng kết của các nhà khoa học và thực tế sản xuất ở một số địa phương có diện tích trồng chuối tập trung lớn như Đồng Nai, Lâm Đồng và TP. Hồ Chí Minh cho thấy trồng chuối nuôi cấy mô sạch bệnh có khả năng làm tăng năng suất từ 15- 20%. Ưu thế lớn nhấtcủa giống chuối này là cây ra hoa đồng nhất, buồng chuối đồng đều, chất lượng đồng hạng, thu hoạch đồng loạt, giá trị đồng dạng nên bán được giá cao nhất.
43 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2207 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu ảnh hưởng của số lần cấy chuyển và phương thức cấy chuyển đến hệ số nhân và chất lượng cây invitro trên giống chuối Tiêu Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề: 1
1.2. Mục tiêu - ý nghĩa của đề tài nghiên cứu 2
1.2.1. Mục tiêu 2
1.2.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 2
1.3. Địa điểm nghiên cứu 2
1.3.1. Thời gian nghiên cứu 2
1.3.2. Địa điểm nghiên cứu 2
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1 Một số nét sơ lược về cây chuối 3
2.1.1 Giới thiệu về cây chuối 3
2.1.2. Phân loại và phân bố 3
2.1.2 Giá trị dinh dưỡng và giá trị thương phẩm của cây chuối 5
2.2.2. Giá trị thương phẩm 7
2.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ chuối trong và ngoài nước 8
2.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ chuốii 8
2.2.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ chuối tại Việt Nam 10
2.3 Tình hình nghiên cứu và sản xuất giống chuối Tiêu Hồng tại Việt Nam 11
PHẦN III: VẬT LIỆU - NỘI DUNG - PHƯƠNG PHÁP 15
NGHIÊN CỨU 15
3.1. Vật liệu nghiên cứu 15
3.2. Nội dung nghiên cứu 15
3.2.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của số lần cấy chuyển đến chất lượng cây chuối Tiêu Hồng giai đoạn invitro. 15
3.2.2. Nghiên cứu ảnh hửơng của phương thức cấy mẫu đến hệ số nhân chồi của giống chuối Tiêu Hồng giai đoạn invitro. 15
3.3. Phương pháp nghiên cứu 15
3.3.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm 15
3.3.2. Điều kiện thí nghiệm: 16
3.3.3. Cách tính các chỉ tiêu 17
3.3.4. Phương pháp xử lý số liệu thí nghiệm 18
PHẦN IV: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 19
4.1. Ảnh hưởng của số lần cấy chuyển đến chất lượng cây chuối Tiêu Hồng giai đoạn invitro: 19
4.2. Ảnh hưởng của phương thức cấy mẫu đến hệ số nhân chồi của giống chuối Tiêu Hồng giai đoạn invitro: 31
PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 39
5.1. Kết luận 39
5.2. Đề nghị 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề:
Cây chuối được nhân giống theo phương pháp truyền thống (tách chồi) thường sinh trưởng kém, phát triển chậm, cây không đồng đều, lâu cho thu hoạch, thu hoạch không tập trung. Phương pháp nhân giống này thường làm cây con bị mắc bệnh virus rất nguy hiểm dẫn đến tình trạng thoái hoá giống cao.
Hiện nay người dân thường sử dụng cây con chuối được nhân từ phương pháp nuôi cấy mô, đặc biệt phổ biến ở những vùng trồng chuối lớn, tập trung. Từ 1 củ chuối, thông qua phương pháp nuôi cấy mô sau 1 năm có thể sản xuất được tới 2.000 cây chuối con sạch bệnh và chất lượng cao để trồng ra vườn sản xuất. Cây chuối nuôi cấy mô được trồng trong túi bầu nhỏ gọn nên dễ vận chuyển đi xa an toàn. Trồng bằng cây giống nuôi cấy mô cho tỷ lệ sống cao, cây sinh trưởng nhanh, phát triển mạnh, đồng đều, thời gian từ lúc trồng đến thu hoạch được rút ngắn. Tính đồng nhất của giống chuối nuôi cấy mô giúp chúng ta có thể điều khiển được thời gian ra hoa và thời gian thu hoạch cũng như tăng năng suất và chất lượng trái.
Thông qua phương pháp nuối cấy mô người ta tạo ra 1 cây con giống hoàn toàn sạch bệnh, đặc biệt là với các bệnh do virus gây ra. Theo tổng kết của các nhà khoa học và thực tế sản xuất ở một số địa phương có diện tích trồng chuối tập trung lớn như Đồng Nai, Lâm Đồng và TP. Hồ Chí Minh cho thấy trồng chuối nuôi cấy mô sạch bệnh có khả năng làm tăng năng suất từ 15- 20%. Ưu thế lớn nhấtcủa giống chuối này là cây ra hoa đồng nhất, buồng chuối đồng đều, chất lượng đồng hạng, thu hoạch đồng loạt, giá trị đồng dạng nên bán được giá cao nhất.
Tuy nhiên hiện nay phương pháp nhân giống chuối bằng kỹ thuật nuôi cấy mô còn tồn tại một số nhược điểm. Nhưng nhược điểm lớn nhất thường gặp là có xuất hiện một tỷ lệ nhất định thể biến dị không mong muốn. Theo một số tài liệu cho thấy khi số lần cấy chuyển càng nhiều thì tỷ lệ biến dị càng cao. Tuy nhiên tỷ lệ biến dị này còn phụ thuộc vào từng giống, loài. Để góp phần hoàn thiện quy trình nhân giống invitro cây chuối chúng tôi tiến hành đề tài: “Tìm hiểu ảnh hưởng của số lần cấy chuyển và phương thức cấy chuyển đến hệ số nhân và chất lượng cây invitro trên giống chuối Tiêu Hồng. ”
1.2. Mục tiêu - ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu
- Đánh giá được số lần cấy chuyển thích hợp để nâng cao chất lượng cây chuối Tiêu Hồng giai đoạn invitro.
- Đánh giá được phương thức cấy chuyển thích hợp để nâng cao hệ số nhân cho giống chuối Tiêu Hồng giai đoạn invitro.
1.2.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần hoàn thiện quy trình nhân giống cây chuối Tiêu Hồng bằng kỹ thuật nuôi cấy mô nhằm nâng cao chất lượng cây giống.
- Ý nghĩa thực tiễn: Thành công của đề tài sẽ được sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu khác đồng thời sẽ được ứng dụng trong việc nhân giống chuối Tiêu Hồng nhằm hạn chế tỷ lệ biến dị trong nuôi cấy.
1.3. Địa điểm nghiên cứu
1.3.1. Thời gian nghiên cứu
Các thí nghiệm được tiến hành từ ngày 25/02/2011 đến ngày20/05/2011.
1.3.2. Địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Khoa công nghệ sinh học – Trường đại học Nông Lâm Bắc Giang.
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Một số nét sơ lược về cây chuối
2.1.1 Giới thiệu về cây chuối
2.1.1.1 Nguồn gốc
Theo phân loại của Võ Văn Chi (1978) các loài chuối thuộc ngành Ngọc Lan (Mangolophya), lớp Hành (Liliopsida), phân lớp Hành (Lilidae), bộ Gừng (Zingibereles), họ Chuối (Musacea). Họ chuối gồm 2 chi với 70 loài, trong đó: chi Ensete gồm 10 loài, phân bố chủ yếu vùng Châu Phi; chi Musa gồm 60 loài phân bố ở các vùng nhiệt đới [2].
Cây chuối có nguồn gốc từ Đông Nam Á, sau đó được di thực sang Châu Úc rồi tới các nước Trung và Nam Mỹ. Một số tác giả còn cho rằng từ Đông Nam Á cây chuối được chuyển qua Madagasca vào lục địa Châu Phi, sau đó tới các đảo Canari và Santodomigo.
2.1.2. Phân loại và phân bố
Theo Simmond N. W., (1962) số lượng giống chuối hiện trồng trên thế giới là 100 - 300 giống và tất cả các giống chuối ăn được đều thuộc nhóm Eumusa, được hình thành do sự kết hợp di truyền giữa 2 loài chuối dại là Musacea.acuminata (A) và Musacea.balbisiana (B), trong đó, những kiểu gen đều có gen A và gen B, bên cạnh một số ít ngoại lệ. Đại bộ phận các giống chuối hiện nay là tam bội thể (AAA, AAB, ABB), nhị bội thể (AA, AB, BB),còn tứ bội thể thì rất hiếm (chỉ một số giống ở Thái Lan) [12].
Theo hệ thống phân loại của Simmond N. W., dựa trên cơ sở số lượng nhiễm sắc thể và cho điểm các đặc điểm hình thái của 2 loài Musacea.acuminata (A) và Musacea.balbisiana (B) theo 15 đặc điểm thực vật học. Hệ thống phân loại này các giống chuối hiện nay được phân nhóm theo kiểu gen như sau (dẫn theoNguyễn Thị Việt Nga(1996)) [5].
Nhóm 1: Kiểu gen AA
Trong nhóm này có các giống: chuối Ngự, chuối Cau, chuối Pisang Mas (Malaixia), Ladies Finger (Hawai), các giống này thường có quả nhỏ, vỏ mỏng, chất lượng cao, năng suất thấp, kháng bệnh Panama nhưng mẫn cảm với Sigatoka.
Nhóm 2: Kiểu gen AAA
Trong nhóm này có các giốngchuối Tiêu: Pingsa Embun (Malaixia), Chinese (Hawai),…. Các giống thuộc nhóm này có năng suất, chất lượng tốt được trồng phổ biến ở nhiều nước. Ngoài ra, dễ tiêu thụ và xuất khẩu, thích hợp với trồng ở vùng vĩ tuyến cao, mùa đông lạnh, có khả năng kháng bệnh Panama nhưng mẫn cảm với Sigatoka.
Nhóm 3: Kiểu gen ABB
Nhóm này bao gồm rất nhiều chủng loại đa số là chuối ưa nóng như chuối Tây, chuối Sứ, chuối Sừng, chuối Bom… Những giống này có chứa nhiều tinh bột. Tuy nhiên, ở Việt Nam chỉ trồng để ăn tươi đôi khi nấu chín, hoặc chiên. Nhóm này có đặc điểm là cây cao, sinh trưởng khoẻ, không kén đất có thể trồng không tưới, không bón phân trên những đồi dốc mới khai phá (đặc biệt là chuối Bom). Ngoài ra, thân non, hoa chuối ít bị vị chát có thể dùng ăn sống như chuối Tây.
Nhóm 4: Kiểu gen BB
Đại diện nhóm này là chuối Hột, cây sinh trưởng khoẻ, chịu bóng, chịu hạn khá, chống chịu sâu bệnh rất tốt, quả có nhiều hạt, nhiều tinh bột, thân dùng làm rau sống có chất lượng cao.
Theo hệ thống phân loại của Simmond N. W., chi Eumusa gồm 9 - 10 loài, số lượng nhiễm sắc thể cơ sở là 11, số lượng giống lên tới 131 và phân bố như sau:
Bảng 2.1. Phân loại và sự phân bố của các chi thuộc Musa
Chi
Số nhiễm sắc thể cơ sở
Số loài
Phân bố
Australimusa
10
5 - 6
Queensland đến Philipin
Callimusa
10
5 - 6
Đông Dương và Indonesia
Eumusa
11
9 - 10
Nam Ấn Độ đến Nhật Bản
Rhodochiamys
11
5 - 6
Ấn Độ đến Đông Nam Á
Ingentinusa
14
1
New Guinea
2.1.2 Giá trị dinh dưỡng và giá trị thương phẩm của cây chuối
2.1.2.1 Giá trị dinh dưỡng
Chuối là một trong 5 loại quả trao đổi chủ yếu trên thị trường thế giới, bên cạnh giá trị là loại quả cho khối lượng sản phẩm lớn, chuối còn có hàm lượng dinh dưỡng khá cao, tại một số nước Châu Á, Châu Phi, chuối là loại lương thực chủ yếu, được sử dụng như khoai tây ở các nước có khí hậu ôn đới [4].
Theo Anon (1963), thành phần dinh dưỡng trong quả tính theo trọng lượng tươi và khô đối với chuối ăn và chuối nấu như sau [3].
Bảng 2.2. Thành phần dinh dưỡng trong quả chuối ăn tươi và chuối nấu
Thành phần
Chuối ăn tươi (%)
Chuối nấu (%)
Theo trọng lượng tươi
Theo trọng lượng khô
Theo trọng lượng tươi
Theo trọng lượng khô
Nước
75,7
66,4
Gluxit
22,2
91,4
31,2
92,8
Protein
1,1
4,5
1,1
3,3
Lipit
0,2
0,8
0,4
1,2
Tro
0,8
3,3
0,9
2,7
Trong quả chuối có một lượng vitamin khá lớn, đặc biệt là các vitamin nhóm A và C. Tuỳ thuộc vào giống, hàm lượng vitamin có thể thay đổi, các giống chuối ăn được thường giàu vitamin C và B6, còn các giống chuối trong nhóm chuối nấu lại giàu vitamin A. Nói chung, hàm lượng vitamin trong chuối phong phú và cao hơn một số loại quả khác như cam, táo…(bảng 2.3)
Bảng 2.3. Hàm lượng vitamin trong một số loại quả
(Theo Anon, 1963)
Loại quả
Caroten A
(Tiền vitamin C)
Thiamin
(Vitamin B1)
Riboflavin
(Vitamin B2)
Axit ascobic
(Vitamin C)
Chuối
0,24
0,05
0,06
10,00
Táo
0,05
0,03
0,07
5,00 - 8,00
Cam
0,04 - 0,17
0,08
0,03 - 0,05
52,00 - 53,00
Tác giả Champion J. cho rằng quả chuối có giá trị dinh dưỡng cao, thể hiện khi ăn 100 g thịt quả cho mức năng lượng 110 - 120 calo. Trong khi đó, 100g táo chỉ cho mức năng lượng 64 calo, 100 g cam cho 52 calo, 100g đào cho 45 calo… Măt khác, các thành phần dinh dưỡng trong quả chuối được cơ thể hấp thụ nhanh. Vì vậy, chuối được coi là loại quả lý tưởng cho người già, sức khỏe yếu, suy dinh dưỡng, mệt mỏi… Ngoài ra, quả chuối cũng có vị trí đặc biệt trong khẩu phần ăn giảm mỡ, Cholesteron và muối Natri…[1].
Một số phát hiện gần đây cho biết, chuối là sản phẩm có hiệu quả trong việc chữa các bệnh về phủ tạng như đường ruột… Ngoài ra, quả chuối rất có lợi cho những người nhiễm độc than chì, có tác dụng chống các vết loét gây ra bởi những người bệnh dùng thuốc aspirin và có tác dụng làm lành các vết loét này, đồng thời, trong thành phần chuối còn có đầy đủ các axit amin [3].
2.2.2. Giá trị thương phẩm
Chuối là loại quả có giá trị dinh dưỡng cao và giá thành rẻ nên chuối được tiêu thụ với số lượng lớn trên thế giới. Bên cạnh tiêu thụ quả tươi, sản phẩm chuối có thể là nguyên liệu sản xuất ra bột chuối và chuối sấy khô. Bột chuối là loại dinh dưỡng quý cho trẻ em và người già yếu, người có bệnh tiêu hóa và đây là sản phẩm có giá trị kinh tế rất cao, cụ thể như sau 1 [3].
Khô đậu tương (45% protêin) : 300 USD/tấn
Bột sắn khô : 100 USD/tấn
Bột chuối (cho người ) : 1000 USD/tấn
Bột chuối (cho gia súc) : 110 USD/tấn
Protein đậu tương : 664 USD/tấn
Theo Cohen J.I, (1990) và một số tác giả, chuối sấy là một sản phẩm cho năng lượng cao, khối lượng nhẹ, dễ dàng vận chuyển và bảo quản. Ngoài ra, chuối sấy còn được sử dụng làm nguyên liệu cho sản xuất bánh kẹo, tinh dầu. Một số sản phẩm phụ của chuối như nhựa mủ… có tầm quan trọng trong sản xuất Tanin, bẹ chuối là nguyên liệu để sản xuất dây chão, lá chuối được sử dụng làm gói bọc… Ngoài ra, chuối còn làm nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất cồn, bia, rượu… Thời gian trước, vỏ chuối trong ngành chế biến thực phẩm thường bị loại bỏ dưới dạng phế thải, điều này gây tác hại lớn đến môi trường xung quanh, không đem lại hiệu quả kinh tế, nhưng gần đây, người ta đã tạo ra được Ethanol từ vỏ chuối [11].
So với nhiều loại cây trồng khác, toàn bộ sản phẩm của cây chuối có thể làm lương thực, thực phẩm, thức ăn gia súc, thuốc nhuộm, công nghiệp chế biến thực phẩm( làm rượu, mứt) và vì lý do nào đó trong sản xuất kinh doanh, việc sản xuất quả tươi gặp trở ngại thì cũng dễ dàng sử dụng sản phẩm chuối vào những mục đích khác với trang thiết bị yêu cầu không cao như chuối sấy khô, làm bột, ủ chua… [4].
2.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ chuối trong và ngoài nước
2.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ chuốii
Chuối là loại quả nhiệt đới được trồng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, chiếm tỷ trọng đáng kể trong thương mại rau quả toàn cầu.
Theo số liệu của FAO sản lượng chuối trên thế giới năm 2005 là 67,1 triệu tấn trong đó sản lượng chuối của các nước đang phát triển chiếm tới 98%,
Nước có sản lượng đứng đầu là Ấn Độ (11,7 triệu tấn), tiếp đến là Brazil (6,7 triệu tấn), Trung Quốc (6,6 triệu tấn), Philippines (6,3 triệu tấn), Equador (6,1 triệu tấn), Indonexia (4,5 triệu tấn)…[13]. Việt Nam xếp thứ 12 về sản lượng với 1,3 triệu tấn. Sản lượng chuối toàn Thế giới năm 2005 được đề cập ở bảng 1.
Bảng 1: Sản lượng chuối thế giới năm 2005(triệu tấn)
TT
Tên nước
Sản lượng
1
Ấn Độ
11,710.30
2
Brazil
6,703.40
3
Trung Quốc
6,666.72
4
Philippines
6,298.23
5
Ecuador
6,118.43
6
Indonesia
4,503.47
7
Costa Rica
2,352.62
8
Mexico
2,250.04
9
Thailand
1,864.85
10
Colombia
1,764.50
11
Burundi
1,538.68
12
Việt Nam
1,344.20
13
Guatemala
1,070.54
14
Bangladesh
898.71
15
Honduras
887.07
(Nguồn: FAO Statistical Database, 2005)
Xuất khẩu chuối trên thế giới tập trung cao ở các nước đang phát triển, chỉ riêng các nước Mỹ Latinh và vùng Caribe cung cấp khoảng 70% tổng số chuối xuất khẩu của cả thế giới. Bốn quốc gia đứng đầu xuất khẩu chuối vào những năm 2005 là Ecuado, Costa Rica, Philippines và Colombia chiếm khoảng 63% lượng chuối xuất khẩn trên toàn thế giới, riêng Ecuado cung cấp trên 30% lượng chuối xuất khẩu toàn cầu, tuy nhiên, lượng chuối xuất khẩu của các nước Mỹ Latin và vùng Caribean có xu hướng giảm từ sau những năm 90, trong khi đó lượng chuối xuất khẩu các nước Châu Á lại tăng lên [13].
Nơi nhập khẩu chuối nhiều nhất là liên minh Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản, chiếm khoảng 67% khối lượng chuối nhập khẩu của thế giới vào năm 2004 [29].
Ở Châu Á nước xuất khẩu chuối nhiều nhất là Philippines, nước nhập khẩu nhiều nhất là Nhật Bản. Hiện nay, thị trường tiêu thụ chuối ăn vẫn đang được mở rộng như khu vực Bắc Đông Á, Trung Cận Đông và một số nước Tây Âu. Một số nước trước đây nhập khẩu chuối từ Châu Mỹ nay đã bắt đầu chuyển sang nhập khẩu chuối của Châu Á. Trong đó, có những khách hàng rất quan tâm đến chuối của Việt Nam và có thể mua với số lượng lớn.
2.2.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ chuối tại Việt Nam
Theo số liệu thống kê năm 2005, diện tích chuối của cả nước là 103,4 nghìn ha, sản lượng xấp xỉ 1,35 triệu tấn, vùng trồng chuối lớn nhất là Đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 30% diện tích Đồng bằng Sông Hồng 16%, khu vực Bắc Trung Bộ 16%. Tuy nhiên, diện tích trồng chuối không tập trung, với đặc điểm là cây ăn quả ngắn ngày, nhiều công dụng và ít tốn diện tích, nên chuối được trồng như một cây tận dụng đất trong các vườn cây ăn quả của các hộ gia đình. Hiện tại, một số tỉnh miền Trung và miền Nam như: Thanh Hoá, Nghệ An, Khánh Hoà, Đồng Nai, Sóc Trăng, Cà Mau có diện tích chuối từ 3000 - 8000 ha. Trong khi, các tỉnh trồng nhiều chuối ở miền Bắc như Hải Phòng, Nam Định, Phú Thọ có diện tích chuối chưa đạt 3000 ha [14]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Kiểm trong các loại cây ăn quả thì cây chuối được trồng với diện tích rộng. Ở tất cả các tỉnh sản xuất chuối đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước. Trong những năm tới nếu không phát triển xuất khẩu chuối thì sản xuất chuối ở nước ta sẽ tăng chậm, mặc dù tiềm năng sản xuất còn lớn.
Theo tiến sĩ Rogerhford một chuyên gia nghiên cứu về trái cây Việt Nam đã nhận xét: “cái yếu nhất của ngành sản xuất trái cây Việt Nam nói chung là thiếu sự liên kết ”. Cụ thể, người sản xuất không liên hệ với người bán và cả những thành viên trong hiệp hội cũng không liên kết với nhau. Chiến lược sử dụng lợi thế nhân công rẻ đã trở nên lỗi thời, điều cần thiết là phải liên kết tạo thêm những giá trị để biến lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh.
Khối lượng chuối xuất khẩu của Việt Nam rất thấp chỉ đạt khoảng 100 nghìn tấn/năm, chưa tương xứng với tiềm năng và tổng sản lượng chuối.
Chuối của Việt Nam xuất khẩu sang một số nước như Australia, Nga, Hà Lan, Trung Quốc, Đức, Mông Cổ, Newziland, Mỹ... Trong đó, tập trung chủ yếu vào thị trường Trung Quốc và Nga. Tuy nhiên, thực trạng sản xuất và tiêu thụ và cây chuối Việt Nam chỉ ở quy mô nhỏ lẻ, thủ công trong thu hoạch và chế biến, xúc tiến thương mại kém, chưa khai thác được lợi thế so sánh để chuyển sang thành lợi thế cạnh tranh của ngành chuối ở Việt Nam, nên sản xuất không phát triển mạnh và không bền vững, thua kém nhiều nước trong khu vực và trên thế giới [13].
Tính đến năm 2005 lượng chuối nước ta đứng hàng thứ 12 trên thế giới, song chủ yếu là tiêu thụ trong nước sản lượng xuất khẩu còn thấp, những năm gần đây lượng chuối xuất khẩu sang Trung Quốc theo đường tiểu ngạch vào một số tỉnh miền Nam Trung Quốc ước đạt 100.000 tấn/năm và chiếm khoảng 7% sản lượng.
2.3 Tình hình nghiên cứu và sản xuất giống chuối Tiêu Hồng tại Việt Nam
Các nghiên cứu về nhân giống chuối trước đây chỉ chú trọng các biện pháp kỹ thuật nhân bằng củ và tách chồi. Những kỹ thuật này hiện còn được áp dụng khá phổ biến ở nhiều vùng miền và với quy mô sản xuất nhỏ.
Dù vậy kỹ thuật nhân giống vô tính chuối bằng phương pháp in vitro ở nước ta cũng thu được một số kết quả sau:
Đoàn Thị Ái Thuyền và cộng sự (1993) đã đưa ra quy trình nhân giống chuối bằng phương pháp nuôi cấy mô bao gồm 5 công đoạn chính sau: đưa mẫu vào nuôi cấy → tạo và nhân nhanh chồi chuối → tạo rễ cây → ươm chuối trong vườn ươm → bầu chuối và trồng ra ruộng sản xuất. Và cũng cho biết cây chuối nuôi cấy mô ở vườn ươm 60 - 70 ngày (luống ươm 30 - 40 ngày và bầu đất 30 ngày) thì được xuất vườn, khi đó cây cao 40 - 50 cm [8].
Theo Đỗ Năng Vịnh và cộng sự (1994) cho biết tỷ lệ tái sinh dao động từ 68,42 - 92,31% do bị chi phối bởi bản chất di truyền của giống chuối và các chất bổ sung vào môi trường nuôi cấy. Hệ số nhân của chuối Tiêu cao nhất khi bổ sung BAP từ 7 - 9 mg/lít. Nước dừa không biểu hiện ảnh hưởng đến chuối Tiêu nhưng có ảnh hưởng tốt tới hệ số nhân của chuối Rừng ở lượng 10%, khi có mặt BAP với lượng 7 mg/lít [9].
Theo công bố của Nguễn Quang Thạch cho biết hoàn toàn có thể sử dụng phương pháp in vitro để nhân nhanh cây chuối, vật liệu nuôi cấy tốt nhất cho mục đích nhân nhanh là các mô chồi đỉnh và chuối có thể sử dụng kỹ thuật bóc bẹ không cần khử trùng, môi trường thích hợp cho quá trình khởi động phát sinh chồi ban đầu là môi trường MS + (5 - 7) ppm BA, môi trường nhân nhanh tương tự như môi trường khởi động nhưng sau nhiều lần cấy chuyển cần giảm hàm lượng BA thậm trí tới 0 ppm và có thể bổ sung nước dừa là 10%. Còn môi trường ra rễ tốt nhất là MS + 0,2 g/lít than hoạt tính và cũng nhận xét việc đưa cây chuối in vitro ra vườn ươm vụ hè thu là hoàn toàn thuận lợi, tỷ lệ sống đạt 100% trên cả 3 giá thể nghiên cứu là: cát, đất thịt nhẹ, đất + cát + phân chuồng [6].
Theo Đỗ Năng Vịnh và Cộng sự (1995), cây chuối nuôi cấy mô cần đưa ra luống giâm gồm 3 lớp: lớp dưới là đất dày 5cm, lớp giữa là phân chuồng ải trộn với đất cát pha tỷ lệ 1:1 dày 7cm, lớp trên cùng là cát vàng 5 -7 cm; mật độ giâm là 300 - 400 cây/m2; thời gian ở luống giâm là 30 ngày. Sau đó, chuối được đưa ra bầu đất có kíc