Tiếng Việt là công cụ học tập, giao tiếp ở Việt Nam và thế giới. Do vậy rèn luyện kĩ năng thực hành tiếng Việt là một vấn đề quan trọng trong học tập và ứng dụng vào công việc của mỗi người sau này. Vấn đề “liên kết trong văn bản tiếng Việt” đã được nghiên cứu về mặt lí thuyết và đưa vào ứng dụng, trong thực tế đã có kết quả tốt. Tuy nhiên, từ thực tế đó, nhất là khi áp dụng trong việc nói và viết tiếng Việt, vấn đề “liên kết văn bản” cho thấy còn cần phải tiếp tục hoàn thiện ở mặt thực hành. Vì lí do đó, chúng tôi chọn đề tài “Liên kết trong văn bản tiếng Việt” để nghiên cứu và đưa vào áp dụng trong thực hành tiếng Việt.
41 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5165 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu liên kết trong phong cách văn bản thông tấn báo chí tiếng việt (khảo sát việc sử dụng phương thức liên kết trong tờ báo thanh niên), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
HOÀNG KHẮC HUY
TÌM HIỂU
“LIÊN KẾT TRONG PHONG CÁCH VĂN BẢN THÔNG TẤN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT)
(KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG THỨC LIÊN KẾT TRONG TỜ BÁO THANH NIÊN)
CHUYÊN NGÀNH: TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH
MÃ SỐ: 002
KHÓA LUẬN TIẾNG VIỆT
TPHCM, THÁNG 5 NĂM 2009
TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
HOÀNG KHẮC HUY
TÌM HIỂU
“LIÊN KẾT TRONG PHONG CÁCH VĂN BẢN THÔNG TẤN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT”
(KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG THỨC LIÊN KẾT TRONG TỜ BÁO THANH NIÊN)
CHUYÊN NGÀNH: TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH
MÃ SỐ: 002
KHÓA LUẬN TIẾNG VIỆT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS: TRẦN NGỌC TUYẾT
NGƯỜI THỰC HIỆN: MSSV: 074403A
TPHCM, THÁNG 5 NĂM 2009
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là tài liệu nghiên cứu của riêng tôi.
Kí tên
Hoàng Khắc Huy
Lời tri ân
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi được sử giúp đỡ, hướng dẫn của giảng viên bộ môn Tiếng Việt thực hành, bạn bè cùng gia đình. Qua đây, chúng tôi xin chân thành cám ơn!
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu. 7
Chương 1 : Nhập đề 10
Chương 2 : Đại cương về văn bản 14
Chương 3 : Liên kết văn bản 18
Chương 4 : Khảo sát việc sử dụng các PTLK trong PCVBTTBC. 28
Chương 5 : Tổng kết 32
Tài liệu tham khảo 34
Phụ lục 35
BẢNG VIẾT TẮT XUẤT XỨ TƯ LIỆU
Những từ viết tắt trong bài nghiên cứu:
NXB : nhà xuất bản
Tr. : trang
Vd : ví dụ
PTLK : phương thức liên kết
PCVBTTBC : phong cách văn bản thông tấn báo chí
TN : Thanh Niên
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1: Sơ đồ bộ máy phát âm 11
Biểu đồ về mức độ sử dụng các PTLK trong 100 mục tờ báo Thanh Niên 30
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng biểu 1: Bảng phân loại các phương thức liên kết 18
Bảng biểu 2: Bảng phân loại phép thế 20
Bảng biểu 3: Bảng phân loại phép liên tưởng 23
Bảng biểu 4: Bảng phân loại phép đối 25
Bảng biểu 5: Bảng số liệu mức độ sử dụng PTLK trong 100 mục tờ báo TN 29
Mở đầu
Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu:
Lí do chọn đề tài:
Tiếng Việt là công cụ học tập, giao tiếp ở Việt Nam và thế giới. Do vậy rèn luyện kĩ năng thực hành tiếng Việt là một vấn đề quan trọng trong học tập và ứng dụng vào công việc của mỗi người sau này. Vấn đề “liên kết trong văn bản tiếng Việt” đã được nghiên cứu về mặt lí thuyết và đưa vào ứng dụng, trong thực tế đã có kết quả tốt. Tuy nhiên, từ thực tế đó, nhất là khi áp dụng trong việc nói và viết tiếng Việt, vấn đề “liên kết văn bản” cho thấy còn cần phải tiếp tục hoàn thiện ở mặt thực hành. Vì lí do đó, chúng tôi chọn đề tài “Liên kết trong văn bản tiếng Việt” để nghiên cứu và đưa vào áp dụng trong thực hành tiếng Việt.
Mục đích nghiên cứu:
Việc nắm vững và sử dụng thành thạo lí thuyết về liên kết và dựng đoạn trong văn bản tiếng Việt là cần thiết cho không những sinh viên mà tất cả những người sử dụng tiếng Việt, thế nhưng đây không phải là một điều đơn giản đối với nhiều người và phần nhiều đã bị mai một khi tiếng Việt vươn ra tầm thế giới. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng phát biểu tại hội nghị bàn về vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt năm 1979“…thế hệ trẻ ngày nay và ngày mai phải nói tốt, phải viết tốt, tốt hơn chúng ta bây giờ” Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, Khoa học xã hội, 1981, trang 10.
. Từ cách nhìn ấy, chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề “Liên kết trong văn bản tiếng Việt.”
Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Do vấn đề tạo sự liên kết trong văn bản tiếng Việt là một vấn đề cơ bản trong chuyên ngành Tiếng Việt thực hành nên nhiều nhà ngôn ngữ học đã có những nghiên cứu về vấn đề này. Chẳng hạn ý kiến của Trần Ngọc Thêm trong Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, NXB Giáo dục, 1999; hay ý kiến của tác giả Diệp Quang Ban trong Văn bản và liên kết văn bản, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999. Các tác giả đều có những nghiên cứu nhất định về vấn đề này.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu:
Về vấn đề liên kết trong văn bản tiếng Việt, chúng tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu các phương thức liên kết trong văn bản tiếng Việt.
Phạm vi nghiên cứu:
Hiện nay, phong cách văn bản thông tấn báo chí đang ngày một phát triển và giữ một vai trò đáng kể trong đời sống của mọi người. Chúng tôi trong phạm vi có thể sẽ nghiên cứu vấn đề sử dụng các phương thức liên kết trong soạn thảo văn bản thông tấn báo chí.
Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu:
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu khoa học chung mà chúng tôi sử dụng là phương pháp quy nạp.
Phương pháp nghiên cứu khoa học ngành là điền dã thực tế.
Nguồn tài liệu:
Bình diện đồng đại: gồm hai nguồn tài liệu chính:
Tài liệu chính thống: Tiếng Việt thực hành của Hà Thúc Hoan, Để viết đúng tiếng Việt của Nguyễn Khánh Nồng, Hệ thống liên kết văn bản của Trần Ngọc Thêm, Văn bản và liên kết văn bản của Diệp Quang Bang.
Tài liệu thu thập: gồm một số trang web như: www.dantri.com.vn, www.thuvien-ebook.com, www.vietbao.vn.
Bình diện lịch đại:
Tài liệu chính thống: Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt của Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiên, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Các bình diện của từ và từ tiếng Việt của Đỗ Hữu Châu.
Những đóng góp của tiểu luận:
Về mặt lí luận:
Như đã xác định ở phần lí do nghiên cứu và mục đích nghiên cứu, đề tài mà chúng tôi đang thực hiện còn nhiều mặt thiếu sót về lí luận, do đó việc nghiên cứu thành công đề tài này sẽ đóng góp vào lí luận vấn đề hành văn tiếng Việt, cụ thể là vận đề vân dụng các phương thức liên kết trong viết dựng văn bản.
Về mặt thực tiễn:
Từ thành công về mặt lí luận, để tài sẽ đóng góp một phần ở một phạm vi nhất định vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt hành văn.
Bố cục của khóa luận:
Gồm có các phần chính sau:
Mở đầu.
Chương 1: Nhập đề.
Chương 2: Đại cương về văn bản
Chương 3: Liên kết văn bản
Chương 4: Ứng dụng
Chương 5: Tổng kết.
Kết luận: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Chương 1: NHẬP ĐỀ
1.1- Giới thiệu về ngôn ngữ:
Nhà triết học cổ Hy Lạp – La Mã Arixtốt đã từng viết rằng: “Trong tất cả các sinh vật thì chỉ có con người là được ban tặng cho ngôn ngữ” Trích dẫn: Trương Gia Vinh, Giáo trình Cơ sở ngôn ngữ học, 2007, tr.2
; quả thật như vậy, ngôn ngữ gắn liền với con người và là công cụ không thể thiếu trong hoạt động sống của chúng ta. Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của xã hội thì như cầu giao tiếp bằng ngôn ngữ lại cần thiết hơn bao giờ hết.
1.2.- Giới thiệu về Tiếng Việt:
1.2.1- Khái quát chung:
Tiếng Việt có nguồn gốc phát triển ở một trong những cái nôi văn minh của loài người, là Đông Nam Á và thuộc nhóm Việt – Mường, ngữ hệ Nam Á (hay còn gọi là Nam phương).
Tiếng Việt có lịch sử phát triển lâu đời, và có sức sống mạnh mẽ gắn liền với vận mệnh của đất nước: không bị đồng hóa bởi ngôn ngữ của các đế quốc phương Bắc, phương Tây, trái lại còn phát triển mạnh mẽ hơn (có chữ viết riêng là chữ Nôm và chữ quốc ngữ). Chữ quốc ngữ được tôn vinh, và trở thành văn tự chính thức của đất nước.
1.2.2- Tiếng Việt trong đời sống:
Tiếng Việt là tiếng nói, là linh hồn của cả dân tộc. Nó phản ánh nét văn hóa trong con người Việt Nam. Nó là phương tiện giúp chúng ta trao đổi, học tập, làm việc một cách hiểu quả. Trong thời buổi hội nhập, không thể phủ nhận ngôn ngữ quốc tế (đặc biệt là tiếng Anh) là công cụ mang lại rất nhiều thuận lợi cho người sử dụng, nhưng không vì thế mà người Việt Nam quên lãng tiếng Việt. Người Việt dùng tiếng Việt là điều rất được quan tâm. Sau đây chúng tôi xin trình bày sơ lược về bộ môn Tiếng Việt thực hành trước khi đi vào nội dung trọng tâm mà chúng tôi sẽ đề cập ở chương 2.
1.3- Nhập môn tiếng Việt thực hành:
1.3.1- Hệ thống ngữ âm:
Hình 1: Sơ đồ bộ máy phát âm
1.3.2- Những đặc điểm của tiếng Việt:
1.3.2.1- Đặc điểm ngữ âm:
Âm tiết trong tiếng Việt là “tiếng”. Ví dụ: ba, ban, bang…
Một đặc điểm rất đặc biệt là trong tiếng Việt có rất nhiều từ tượng hình, từ tượng thanh: lêu nghêu, nhỏ nhắn, róc rách, rào rào…
Ngôn ngữ có sự hài hòa ngữ âm, nhạc điệu câu văn. Điển hình là trong thơ ca:
Đầu trời ngất đỉnh Hà Giang
Cà Mau mũi đất mỡ màng phù sa.
1.3.2.2- Đặc điểm từ vựng:
Mỗi tiếng là một yếu tố mang nghĩa. Sự tạo từ chủ yếu dựa vào phương thức ghép và láy.
Ví dụ: học: học hành, học tập, học sinh, trường học, lớp học...; nhỏ: nho nhỏ, nhỏ nhắn, nhỏ nhẹ, nhỏ nhoi…
1.3.2.3- Đặc điểm ngữ pháp:
Từ từ vựng không biến đổi hình thái khi tham gia tạo câu. Chằng hạn: tôi nói, chúng tôi nói, họ nói…, một ngôi nhà, hai ngôi nhà…
Đổi lại phương thức trật từ được coi trọng. Ví dụ: “Hắn nói nhiều chuyện.”, khác với: “Hắn nhiều chuyện nói lắm.”
Ngoài ra, cũng quan trọng không kém là phương thức hư từ. Chẳng hạn, trong tiếng Việt tần số xuất hiện của thán từ là rất lớn:
Một mình không biết làm sao
Dặm đường bước thấp bước cao một mình.
1.3.3- Ngữ âm tiếng Việt:
1.3.3.1- Ấm tiết tiếng Việt:
Âm tiết tiếng Việt là âm đoạn tự nhiên nhỏ nhất trong chuỗi lời nói Việt ngữ, và có đặc điểm là có ranh giới rõ ràng, phát âm tách bạch rành rọt, và có tính độc lập cao không giống như ngôn ngữ Ấn - Âu: Hắn/ ăn/ nói/ rất/ ngang/ ngược. (Không nói: Hắnắnói…)
Khác với ngôn ngữ Ấn – Âu, âm tiết tiếng Việt có khả năng biểu hiện ý nghĩa, và hoạt động như một từ thực sự: trùng, điệp: trùng điệp, trùng trùng điệp điệp…
Cấu trúc âm tiết tiếng Việt khá chặt chẽ nhưng vẫn có thể tách ra thành năm phần: phụ âm đầu, âm chính, âm đệm, âm cuối, thanh điệu.
Ví dụ: nghiêng: ngh-iê-ng
1.3.3.2- Âm tố và âm vị tiếng Việt:
Âm tố tiếng Việt là đơn vị nhỏ nhất không phân chia được nữa, được phân loại thành: phụ âm, nguyên âm và bán âm.
Âm vị tiếng Việt là đơn vị tối thiểu của hệ thống ngữ âm tiếng Việt dùng để cấu tạo và phân biệt vỏ âm thanh của các đơn vị có nghĩa của tiếng Việt (a, ă, â…)
Âm tố là dạng vật chất của âm vị.
1.3.3.3- Thanh điệu trong tiếng Việt: Tiếng Việt có 6 thanh điệu: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, và ngang.
1.3.4- Chính tả tiếng Việt:
Trong tiếng Việt, chính âm được xem là cách phát âm chuẩn nhất. Vì vậy, người học tiếng Việt phải rèn luyện cho mình cách nói chính âm.
Chữ viết tiếng Việt là chữ ghi âm.
1.4- Nhận xét:
Tiếng Việt thực hành là bộ môn rèn luyện cho người học những kĩ năng cơ bản để nói tốt và viết tốt trong hoạt động giao tiếp, học tập hàng ngày. Việc trang bị cho mình những kiến thức cơ bản là cần thiết.
Chính vì thế, với khả năng có hạn, chúng tôi sẽ cố gắng hết sức mình vào việc nghiên cứu mảng đề tài “Liên kết trong văn bản tiếng Việt”.
Chương 2: Lí luận
2.1 Vài nét về văn bản:
Trong hoạt động giao tiếp hằng ngày, chúng ta sử dụng ngôn ngữ để trao đổi, lấy thông tin qua lại. Người nói tạo lập ra ngôn bản còn người nghe phân tích và tìm ra ý nghĩa của ngôn bản đó. Ngôn bản được biểu hiện với hình thức chữ viết được gọi là văn bản. Trong phạm vi giới hạn, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu văn bản.
2.1.1 Khái niệm văn bản:
Văn bản được hiểu theo nhiều cách, nhưng tụ chung có thể được hiểu một cách đơn giản như sau: “Văn bản là một sản phẩm diễn ngôn xuất hiện một cách tự nhiên ở dạng nói và viết hoặc biểu hiện bằng cử chỉ, được nhận dạng vì những mục đích phân tích. Thường là một chính thể ngôn ngữ với một chức năng gián tiếp có thể xác định được, ví dụ: một cuộc hội thoại, một áp phích, một tác phẩm văn học, một bài diễn thuyết…”
Ta có sơ đồ tạo lập văn bản đơn giản sau:
CÂU
CỤM CÂU
ĐOẠN VĂN
VĂN BẢN
Sơ đồ trên là cách đơn giản tạo lập một văn bản, trong thực tế còn có những cách phức tạp hơn để tạo lập một văn bản.
2.1.2 Đặc trưng của văn bản:
2.1.2.1 Văn bản có những đặc trưng: yếu tố cấu trúc – hình thức, yếu tố chỉ hướng, yếu tố định biên. Bên cạnh đó, một số nhà ngôn ngữ học còn những khái niệm khác về đặc trưng của văn bản. Halliday và Hasan quan niệm: khái niệm trung tâm về văn bản trong lý thuyết là khái niệm chất văn bản. Chất văn bản được giải thích thông qua hai phương diện: phương diện nội tại và phương diện ngoại tại.
Phương diện nội tại của chất văn bản gồm hai thành tố: liên kết và cấu trúc văn bản nội tại đối với câu. Liên kết: là các phương diện hình thức đánh dấu sự kết nối giữa các mệnh đề câu. Cấu trúc văn bản nội tại đối với câu: là các tổ chức của câu và của các bộ phận trong câu theo cách làm cho câu quan hệ được với chu cảnh của nó. Liên kết và cấu trúc văn bản nội tại đối với câu làm thành mặt ngôn ngữ học của chất văn bản. Còn phương diện ngoại tại của chất văn bản là cấu trúc của diễn ngôn. Đó là “cấu trúc vĩ mô” của văn bản, làm cho văn bản thuộc loại riêng như hội thoại, trữ tình… Cấu trúc diễn ngôn thuộc mặt tình huống của chất văn bản.
Tình huống hay còn gọi là ngữ cảnh gồm ba phần: trường, thức và không khí chung.
Trường: là sự kiện tổng quát trong đó văn bản hành chức, bao gồm: đề tài – chủ đề với tư cách một yếu tố trong đó. Trường là tính chủ động được thực hiện.
Thức: là chức năng văn bản trong sự kiện đó. Thức là vai trò của ngôn ngữ trong tình huống.
Không khí chung: phản ánh loại hình tương tác theo vai, tập hợp quan hệ xã hội thích ứng, tính lâu dài hay nhất thời, giữa những người tham dự hữu quan.
2.1.2.2 Tính mạch lạc trong văn bản:
Có hai nhận định:
(1): “Một chuỗi câu nối tiếp có liên kết vẫn có thể không làm thành một văn bản (diễn ngôn).”
Ví dụ: Tôi không gặp. Vợ tôi cũng không gặp. Chắc nó đi chơi đâu đấy. Anh có gặp thằng Tí nhà tôi không?
Có dấu hiệu liên kết hình thức: cũng: trùng ý với một hành động trước (không gặp); nó: đại từ thay thế (cho Tí)
(2): “Một sản phẩm ngôn ngữ không có liên kết văn bản có thể trở thành văn bản (diễn ngôn).”
Ví dụ: Thứ bảy vừa rồi cả gia đình đi chơi phố. Lan mua một chiếc áo dài, trong lúc Điệp trông lũ trẻ chơi trong cửa hàng đồ chơi.
Không có dấu hiệu liên kết, nhưng người tiếp nhận văn bản vẫn hiểu: Lan là vợ, Điệp là chồng và là thành viên trong gia đình đi chơi phố đó.
Từ hai nhận định trên cho thấy vai trò của liên kết là rất mờ nhạt trong văn bản: có liên kết hình thức vẫn có thể không có văn bản; có văn bản có thể không cần liên kết hình thức. Từ đó có ý kiến cho rằng cái quyết định việc “là một văn bản của sản phẩm ngôn ngữ là mạch lạc. Mạch lạc thể hiện trong tính thống nhất của đề tài – chủ đề; mạch lạc thể hiện trong tính hợp lí của sự triển khai đề tài; mạch lạc thể hiện trong trình tự hợp lí của các câu (mệnh đề); mạch lạc thể hiện trong khả năng dung hợp nhau của các hành động ngôn từ.
2.1.2.3 Những yêu cầu về hành văn của văn bản:
Từ những gì đã nói ở phần trên, có thể thấy khi hành văn văn bản phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất là đảm bảo tính mạch lạc của văn bản.
Thứ hai là đảm bảo tính thống nhất của văn bản.
Thứ ba là đảm bảo tính hợp lí của văn bản.
Tóm lại, văn bản có tính hoàn chỉnh về nội dung cũng như hình thức, có tính hệ thống về cách tổ chức các đơn vị và sự liên kết giữa chúng với nhau.
2.1.3 Phân loại văn bản:
Có nhiều loại văn bản khác nhau. Có nhiều cách để phân loại chúng. Nếu dựa vào phong cách học ta có những loại văn như: văn bản khoa học, văn bản hành chính, văn bản thông tấn báo chí, văn bản chính luận, văn bản nghệ thuật…
2.1.4 Kết cấu văn bản – liên kết câu – liên kết đoạn trong văn bản:
2.1.4.1 Kết cấu (bố cục) văn bản là kết quả của việc sắp xếp, tổ chức các bộ phận của ngôn từ có nghĩa của văn bản theo một hình thức nhất định (cấu trúc nhất định).
2.1.4.2 Khuôn hình của văn bản: chia thành hai loại:
Thứ nhất là văn bản có khuôn hình cứng nhắc, cố định (hành chính, pháp quy,…).
Thứ hai là văn bản có khuôn hình linh hoạt, có hai loại nhỏ là:
Văn bản có khuôn hình thường dùng: các bài luận thuyết miêu tả (cấu trúc ba phần: mở bài, thân bài, kết bài)
Văn bản có khuôn hình tùy chọn: văn bản văn học nghệ thuật.
2.1.4.3 Đề tài và chủ đề: hiểu theo cách đơn giản, đề tài là cái được nói đến, chủ đề là cái ý tưởng cần được thực hiện.
2.1.4.4 Kết cấu của văn bản có khuôn hình thường dùng:
Chúng tôi giới thiệu kĩ hơn về phần này vì nó cần thiết hơn cho việc rèn luyện kĩ năng thực hành tiếng Việt.
2.1.4.4.1 Khuôn hình văn bản này gồm ba phần: phần mở đầu, phần thân (luận giải) và phần kết thúc. Ngoài ba phần này, còn có yếu tố quan trọng là đầu đề. Về cấu tạo ngữ pháp, đầu đề nên đặt bằng danh từ, cụm danh từ, không nên dùng câu có chủ ngữ, vị ngữ.
Phần mở đầu: nêu đề tài – chủ đề và khung cảnh chung của đề tài – chủ đề.
Phần thân: triển khai đầy đủ đề tài – chủ đề theo hướng đã được xác định ở phần mở đầu.
Phần kết thúc: tóm tắt lại những gì đã trình bày ở phần thân, đề xuất, gợi mở, rút ra ý kiến, quan điểm…
2.1.4.4.2 Rút ngắn văn bản:
Rút ngắn văn bản là làm cho nội dung văn bản nhỏ lại theo những mục đích và yêu cầu nhất định.
Mục đích việc rút ngắn là làm người cho người tiếp nhận dễ nhớ nội dung văn bản gốc (tóm tắt cốt truyện, tóm tắt luận văn…), và rút ngắn văn bản để tiện đưa tin.
Yêu cầu của việc rút ngắn văn bản là phải định hướng, định tính.
Hình thức rút ngắn văn bản là lược thuật (tóm tắt), tổng thuật, trích thuật.
Cách thức rút ngắn là rút ngắn thành bài, rút ngắn thành dàn ý, rút ngắn có cải tạo, lược đồ hóa văn bản, trích văn bản.
2.2 Sơ lược về liên kết trong văn bản:
2.2.1 Khái niệm:
Liên kết không thuộc cấu trúc mà thuộc ý nghĩa. Liên kết có liên kết hình thức và liên kết nội dung. Ngoài ra còn một số kiểu liên kết khác chẳng hạn liên kết phi cấu trúc.
Giữa liên kết hình thức và liên kết nội dung có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ: liên kết nội dung được thể hiện bằng hệ thống liên kết. Liên kết hình thức chủ yếu dùng để diễn đạt liên kết nội dung.
Chương 3: Liên kết văn bản
3.1 Khái niệm tính liên kết của văn bản:
Văn bản là một hệ thống mà trong đó các câu mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu – phần tử, trong hệ thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối quan hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn bản nói chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy Trần Ngọc Thêm, Hệ thống liên kết văn bản, NXB Giáo dục, 1999, tr.19.
.
Tính liên kết có khả năng rất lớn. Nó có khả năng làm cho một chuỗi câu hỗn độn trở thành một bộ phận của văn bản.
3.2 Phân loại liên kết trong văn bản:
Theo các nhà nghiên cứu có nhiều loại liên kết khác nhau, nhưng tụ chung lại có hai loại liên kết cơ bản, và trong mỗi loại lại có những tiểu loại.
Liên kết hình thức
Liên kết nội dung (Liên kết lôgích – ngữ nghĩa)
Phép lặp từ vựng
Sự liên tưởng
Phép thế
Phép đối
Phép liên kết nhờ các phương tiện ngữ pháp khác
Liên kết lôgích
Liên kết các hành vi ngôn ngữ
Bảng biểu 2: Bảng phân loại các phương thức liên kết
3.2.1 Sự liên kết hình thức:
3.2.1.1 Phép lặp từ vựng:
3.2.1.1.1 Lặp từ ngữ:
Lặp từ ngữ là phương thức liên kết được thực hiện bằng cách lặp lại một hay nhiều từ ngữ đã xuất hiện ở phần trước đó.
Phương tiện ngôn ngữ sử dụng ở cách lặp là từ hoặc ngữ được lặp lại.
Vd1: Trung ương đã nhất trí về đường lối, chính sách, chỉ tiêu, biện pháp. Chúng ta phải biến sự nhất trí ấy thành quyết tâm (Hồ Chí Minh).
Vd2: Tài sản quý nhất của đất nước là con người. Cái quý nhất ở con người là trí tuệ.
Khi sử dụng phép lặp từ ngữ cần chú ý vài điều:
Trước tiên nó chỉ có hiệu quả liên kết khi từ ngữ lặp lại là những thực từ giữ nhiệm vụ ở trong câu.
Chú ý thứ hai là nó sẽ có hiệu quả liên kết cao nếu chủ ngữ, vị ngữ của câu trước đó đều được lặp lại ở câu kế tiếp.
Và cuối cùng, lặp từ ngữ duy trì chủ đề, tạo sự mạch lạc và nhất quán cho văn bản.
3.2.1.1.2 Lặp cấu trúc:
Lặp cấu trúc là phương thức liên kết thực hiện bằng cách lặp lại ở câu thứ hai cấu trúc của câu thứ nhất.
Phương tiện ngôn ngữ sử dụng ở đây là cấu trúc câu được lặp lại.
Vd1: (Hoàng hôn lặng lẽ - Hoài Vũ)
Anh phải về thôi, xa em thôi!
Ngoài kia phiên chợ vãn lâu rồi
Giọt nắng cuối ngày rơi xuống tóc
Mà lời từ biệt chắng lên môi.
Anh phải về thôi, xa em thôi!
Xa vườn xưa, đôi chiền chiện tha mồi
Hoa tím rụng tím hầm ngầm bí mật
Để mãi lòng ta xao xuyến bồi hồi…
Vài lưu ý khi sử dụng phép lặp cấu trúc:
Thứ nhất, lặp cấu trúc thường bao gồm lặp từ ngữ, từ loại.
Thứ hai, lặp cấu trúc tạo sự nhịp nhàng, cân đối cho ngữ điệu.
Thứ ba, lặp cấu trúc thường được tác giả cổ điển sử dụng để viết văn biền ngẫu.
3.2.1.2 Phép thế:
3.2.1.2.1 Phép thế đại