“Chính nghiệp” là một trong những đòi hỏi tiên quyết của Bát chính đạo của Đức Phật. Thế nên, rõ ràng là phải có một thứ như Kinh tế học Phật giáo.
Các quốc gia Phật giáo thường phát biểu rằng họ muốn giữ lòng trung thành với di sản của họ. Và nước Burma[1] cũng vậy: “Nước Burma mới không thấy có bất kỳ xung đột nào giữa các giá trị tôn giáo với sự tiến bộ kinh tế. Sức khỏe tinh thần và phúc lợi vật chất không phải là kẻ thù [của nhau]: chúng là các đồng minh tự nhiên”[2].Hoặc “chúng tôi có thể hoà quyện thành công các giá trị tôn giáo và tinh thần của di sản của chúng tôi với các lợi ích của công nghệ hiện đại”[3] hoặc: “Người Burman chúng tôi có một bổn phận thiêng liêng là làm cho các giấc mơ và hành vi của chúng tôi phù hợp với đức tin của chúng tôi. Đây là điều chúng tôi sẽ luôn thực hiện”[4]
Dù sao, các quốc gia ấy vẫn luôn thừa nhận rằng họ có thể mô hình hóa các kế hoạch phát triển kinh tế của họ phù hợp với nền kinh tế hiện đại, và họ kêu gọi các nhà kinh tế hiện đại từ các quốc gia được cho là đã tiến bộ để tư vấn cho họ, để đưa ra các chính sách sẽ được theo đuổi, và để kiến tạo bản thiết kế lớn cho sự phát triển, Kế hoạch 5 năm hay ta có thể gọi là gì cũng được. Dường như, không ai nghĩ rằng một lối sống Phật giáo sẽ cần đến Kinh tế học Phật giáo, giống như lối sống duy vật hiện đại đã mang lại Kinh tế học hiện đại.
Bản thân các nhà kinh tế học, giống như hầu hết các chuyên gia, thông thường bị một loại mù quáng Siêu hình học, khi cho rằng khoa học của họ là một khoa học về các chân lý tuyệt đối và bất biến, mà không có bất kỳ tiền-giả định nào. Một số còn đi xa đến mức tuyên bố rằng các qui luật kinh tế là thoát khỏi “Siêu hình học” hoặc “các giá trị” như [thoát khỏi] định luật hấp dẫn. Tuy nhiên, chúng ta không cần phải dính vào các lập luận về phương pháp luận. Thay vào đó, chúng ta hãy lấy một số nguyên tắc cơ bản và xem chúng trông như thế nào khi được nhìn bởi một nhà kinh tế học hiện đại và một nhà kinh tế học Phật giáo.
6 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2131 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế học Phật giáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế học Phật giáo
E. F. Schumacher Hoàng Phú Phương dịch
“Chính nghiệp” là một trong những đòi hỏi tiên quyết của Bát chính đạo của Đức Phật. Thế nên, rõ ràng là phải có một thứ như Kinh tế học Phật giáo.Các quốc gia Phật giáo thường phát biểu rằng họ muốn giữ lòng trung thành với di sản của họ. Và nước Burma[1] cũng vậy: “Nước Burma mới không thấy có bất kỳ xung đột nào giữa các giá trị tôn giáo với sự tiến bộ kinh tế. Sức khỏe tinh thần và phúc lợi vật chất không phải là kẻ thù [của nhau]: chúng là các đồng minh tự nhiên”[2].Hoặc “chúng tôi có thể hoà quyện thành công các giá trị tôn giáo và tinh thần của di sản của chúng tôi với các lợi ích của công nghệ hiện đại”[3] hoặc: “Người Burman chúng tôi có một bổn phận thiêng liêng là làm cho các giấc mơ và hành vi của chúng tôi phù hợp với đức tin của chúng tôi. Đây là điều chúng tôi sẽ luôn thực hiện”[4]Dù sao, các quốc gia ấy vẫn luôn thừa nhận rằng họ có thể mô hình hóa các kế hoạch phát triển kinh tế của họ phù hợp với nền kinh tế hiện đại, và họ kêu gọi các nhà kinh tế hiện đại từ các quốc gia được cho là đã tiến bộ để tư vấn cho họ, để đưa ra các chính sách sẽ được theo đuổi, và để kiến tạo bản thiết kế lớn cho sự phát triển, Kế hoạch 5 năm hay ta có thể gọi là gì cũng được. Dường như, không ai nghĩ rằng một lối sống Phật giáo sẽ cần đến Kinh tế học Phật giáo, giống như lối sống duy vật hiện đại đã mang lại Kinh tế học hiện đại. Bản thân các nhà kinh tế học, giống như hầu hết các chuyên gia, thông thường bị một loại mù quáng Siêu hình học, khi cho rằng khoa học của họ là một khoa học về các chân lý tuyệt đối và bất biến, mà không có bất kỳ tiền-giả định nào. Một số còn đi xa đến mức tuyên bố rằng các qui luật kinh tế là thoát khỏi “Siêu hình học” hoặc “các giá trị” như [thoát khỏi] định luật hấp dẫn. Tuy nhiên, chúng ta không cần phải dính vào các lập luận về phương pháp luận. Thay vào đó, chúng ta hãy lấy một số nguyên tắc cơ bản và xem chúng trông như thế nào khi được nhìn bởi một nhà kinh tế học hiện đại và một nhà kinh tế học Phật giáo.Có sự nhất trí phổ quát rằng một suối nguồn nền tảng của sự giàu có là lao động của con người. Ngày nay, người ta dạy cho nhà kinh tế học hiện đại phải xem “lao động” hay việc làm như cái gì đó còn thấp kém hơn cả một điều xấu cần thiết [necessary evil]. Từ điểm nhìn của người chủ, trong mọi trường hợp thì lao động cũng đơn giản là một món hàng có giá cả, phải được giản lược đến một mức tối thiểu nếu không thể loại bỏ nó hết được, có thể nói là, bằng sự tự động hóa. Từ điểm nhìn của người lao động, nó là một “sự mất tính hữu dụng” [disutility]; [vì] làm việc là chấp nhận một sự hi sinh sự nhàn rỗi và thoải mái của một người, và tiền lương là một loại đền bù cho sự hi sinh ấy. Vì thế, lý tưởng từ điểm nhìn của người chủ là phải có sản lượng mà không cần người lao động, và lý tưởng từ điểm nhìn của người lao động là phải có thu nhập mà không cần làm việc.Các hệ luận của những thái độ ấy trong cả lý thuyết lẫn thực hành, dĩ nhiên, là có ảnh hưởng cực kỳ rộng. Nếu lý tưởng của công việc là phải tống khứ công việc đi, thì mọi phương pháp “giảm thiểu gánh nặng công việc” là một điều tốt. Phương pháp thuyết phục nhất, khi không có đủ sự tự động hóa, là cái gọi là “phân công lao động” và ví dụ kinh điển là nhà máy đinh ghim được ca tụng trong cuốn Wealth of Nations [Sự giàu có của các quốc gia][5] của Adam Smith. Ở đây, nó không phải là một vấn đề về sự chuyên môn hóa thông thường mà nhân loại đã thực hành từ thời thượng cổ, mà là vấn đề về việc phân chia mọi tiến trình hoàn tất của sự sản xuất thành các phần tính bằng phút, để sản phẩm cuối cùng có thể được sản xuất ra với tốc độ lớn mà không cần bất kì ai phải vận động chân tay gì nhiều và, trong hầu hết trường hợp, không cần có kỹ năng.Điểm nhìn Phật giáo xem chức năng của công việc ở ít nhất 3 lớp: 1) mang lại cho con người một cơ hội để sự dụng và phát triển các quan năng của họ; 2) cho phép con người vượt qua tính cái tôi-trung tâm [ego-centeredness] của họ bằng cách kết hợp với những người khác trong một nhiệm vụ chung; và 3) mang lại hàng hóa và các dịch vụ cần thiết cho một sự hiện hữu thích hợp. Hơn nữa, các hệ luận nảy sinh từ quan niệm này là không bao giờ hết. Tổ chức công việc theo một cách thức làm cho nó trở nên vô nghĩa, nhàm chán, mất tính hữu dụng, hoặc hành hạ thần kinh đối với người lao động hẳn sẽ không khác gì tôi phạm; nó sẽ đòi hỏi một sự quan tâm về hàng hóa lớn hơn nhiều là về con người, một sự thiếu cảm thông xấu xa và một mức độ tàn phá linh hồn đối với phương diện nguyên thủy nhất của sự hiện hữu trần thế này. Cũng như vậy, phấn đấu cho sự thư giãn như một chọn lựa thay cho công việc hẳn sẽ được xem như một sự hiểu sai hoàn toàn về một trong các chân lý cơ bản của sự hiện hữu của con người, tức là công việc và sự thư giãn đều là các bộ phận bổ sung của cùng tiến trình sống giống nhau và không thể bị tách rời mà không phá hủy niềm vui của công việc và cái thú của sự thư giãn. Từ điểm nhìn Phật giáo, vì thế có hai kiểu cơ giới hóa mà ta cần phải phân biệt rõ ràng: một kiểu là việc thúc đẩy kỹ năng và năng lực của một người và kiểu kia là biến công việc của con người thành một sự nô lệ có tính cơ giới, để con người vào một vị thế phải phục vụ như nô lệ. Làm thế nào phân biệt cái này với cái kia? Ananda Coomaraswamy, một người có thẩm quyền ngang bằng khi nói về Tây phương hiện đại cũng như Đông phương cổ đại, nói rằng, “chính người thợ luôn có thể, nếu được cho phép, đưa ra sự phân biệt tinh tế giữa máy móc với dụng cụ. Khung dệt thảm [bằng tay] là một dụng cụ, một thiết bị để giữ các sợi vải dọc ở một độ căng để lớp tơ mịn được dệt quanh chúng bằng những ngón tay của người thợ; nhưng khung dệt bằng năng lượng là một cái máy, và ý nghĩa của nó như một kẻ phá hoại văn hóa nằm trong sự kiện rằng nó làm phần công việc thuộc bản chất người”[6]. Vì thế, rõ ràng là kinh tế học Phật giáo phải rất khác với Kinh tế học của thuyết Duy vật hiện đại, vì người Phật tử xem bản chất của sự văn minh không nằm trong một sự nhân lên của các nhu cầu mà nằm trong sự thanh lọc phẩm tính của con người. Phẩm tính ấy, cùng lúc đồng thời, được hình thành chính yếu bởi công việc của một người. Và công việc, được hướng dẫn riêng trong các điều kiện về phẩm giá và tự do con người, ban phước cho những ai thực hiện nó và các các sản phẩm của họ một cách ngang bằng. Triết gia và kinh tế gia người Ấn J. C. Kumarappa tổng kết vấn đề này như sau:Nếu bản tính của công việc được đánh giá và áp dụng đúng, nó sẽ đại diện cho cùng mối quan hệ giống nhau đối với các quan năng cấp cao, như thực phẩm đối với cơ thể vật lý. Nó nuôi dưỡng và gây phấn chấn con người cao quí hơn và thúc giục người ấy tạo ra cái gì tốt nhất mà họ có thể làm được. Nó định hướng ý chí tự do của người ấy đi theo tiến trình đúng và rèn luyện con thú trong họ vào trong các hướng đi tiến bộ. Nó trang bị một nền tảng tuyệt vời cho con người để phô bày thang đo các giá trị và phát triển nhân cách của họ[7]. Nếu một người không có cơ hội nào để có được công việc, họ đang ở trong một vị thế tuyệt vọng, không chỉ vì họ không có thu nhập mà còn vì họ không có nhân tố nuôi dưỡng và gây phấn chấn ấy của công việc có kỷ luật vốn không gì có thể thay thế được. Một nhà kinh tế học hiện đại có thể dính đến những tính toán phức tạp cao về việc liệu có đủ công việc “được trả công” không hoặc liệu việc điều hành một nền kinh tế với ít công việc đầy đủ hơn có thể có “tính kinh tế” hơn để đảm bảo một tính di động lớn hơn nhiều của lao động, một sự cân bằng tốt hơn của mức lương, v.v.. không. Tiêu chuẩn nền tảng của họ cho sự thành công chỉ đơn giản là tổng số lượng hàng hóa được sản xuất ra trong một thời gian nhất định. “Nếu mức cầu cập biên về hàng hóa là thấp”, giáo sư Galbraith nói trong The Affluent Society, “thì mức cầu về việc thuê lao động cho người cuối cùng hoặc người thứ 1 triệu cuối cùng trong lực lượng lao động cũng vậy”[8]. Và hơn nữa: “Nếu…chúng ta có thể đủ sức trợ cấp cho sự thất nghiệp nào đó vì lợi ích của sự cân bằng – một gợi ý, ngẫu nhiên là, của một số tiền lệ được bảo lưu một cách hoàn hảo – thì chúng ta có thể đủ sức để đem lại cho những người thất nghiệp những hàng hóa cho phép họ duy trì mức sống thông thường của họ.” Từ một điểm nhìn Phật giáo, điều này đặt chân lý đứng bằng đầu bằng việc xem hàng hóa như quan trọng hơn con người và sự tiêu dùng là quan trọng hơn hoạt động sáng tạo. Điều đó có nghĩa là chuyển sự nhấn mạnh từ người lao động đến sản phẩm lao động, tức là, từ con người đến cái dưới-con người, một sự đầu hàng trước các thế lực của cái xấu. Điểm xuất phát để lập kế hoạch kinh tế Phật giáo hẳn sẽ là một kế hoạch cho việc có đủ việc làm và mục tiêu chính của điều này thực tế sẽ là việc làm cho tất cả những ai cần một công việc “bên ngoài”: nó sẽ không phải là sự đẩy công việc lên đến tột đỉnh, cũng không phải là đẩy sự sản xuất lên tột đỉnh. Phụ nữ, xét tổng thể, không cần một công việc “bên ngoài”, và công việc trên qui mô rộng của phụ nữ trong các công sở hoặc các nhà máy sẽ được xem như một dấu hiệu của sự thất bại kinh tế nghiêm trọng. Đặc biệt, việc để các bà mẹ có trẻ nhỏ làm việc trong các nhà máy trong khi trẻ em lêu lổng sẽ là phi-kinh tế trong con mắt của một nhà kinh tế học Phật giáo, [nhưng lại] như công việc của một công nhân có kỹ năng như một người lính trong con mắt của một nhà kinh tế học hiện đại. Trong khi nhà duy vật chủ yếu quan tâm đến hàng hóa, người Phật tử lại quan tâm chủ yếu đến sự giải thoát. Nhưng Phật giáo là “Trung đạo” và vì thế hoàn toàn không đối lập với phúc lợi thể xác. Không phải của cải cản trở con đường giải thoát mà là sự bám chấp vào của cải; không phải việc hưởng thụ các sự vật đáng vui thích cản trở con đường giải thoát mà là sự thèm muốn chúng. Vì thế, nguyên tắc chủ đạo của Kinh tế học Phật giáo là sự đơn giản và bất-bạo động. Từ một điểm nhìn kinh tế học, điều thần kỳ của lối sống Phật giáo là tính lý tính hoàn toàn của mẫu hình của nó – phương tiện nhỏ bé đến không ngờ dẫn đến những kết quả cực kỳ mĩ mãn. Đối với nhà kinh tế học hiện đại, điều này rất khó hiểu. Họ đã quen với việc đo lường “tiêu chuẩn sống” bằng lượng tiêu dùng hàng năm, giả định rằng trong suốt thời gian được tính đến một người tiêu dùng nhiều là “khấm khá” hơn một người tiêu dùng ít. Một nhà kinh tế học Phật giáo sẽ xem lối tiếp cận này là phi lý một cách quá đáng: vì sự tiêu dùng chỉ đơn thuần là một phương tiện cho phúc lợi con người, mục tiêu là phải giành được phúc lợi tối đa với ít sự tiêu dùng nhất. Vì vậy, nếu mục đích của quần áo là một lượng giữ nhiệt độ cơ thể nhất định và một vẻ ngoài hấp dẫn, thì nhiệm vụ là phải đạt được mục đích ấy với sự nỗ lực ít nhất có thể, tức là, với sự hủy hoại vải hàng năm ít nhất và với ít sự trợ giúp của các kiểu [quần áo] đòi hỏi ít vất vả đầu vào nhất có thể được.Ít vất vả hơn nghĩa là sẽ có nhiều thời gian và sức lực hơn dành cho sự sáng tạo nghệ thuật. Chẳng hạn, hẳn sẽ rất phi-kinh tế khi ủng hộ việc cắt may phức tạp, giống như Tây phương hiện đại, khi ta có thể đạt đến sự tác động đẹp hơn rất nhiều bằng việc xếp nếp vật liệu chưa bị cắt xén một cách khéo léo. Cao điểm của sự điên rồ hẳn là việc tạo ra vật liệu sao cho nó mau chóng cũ mòn đi, và cao điểm của tính dã man là việc làm cái gì đó trở nên xấu xí, tiêu điều, hoặc tồn tàn. Những điều mới nói về quần áo cũng áp dụng ngang bằng vào mọi nhu yếu phẩm của con người. Giới chủ và sự tiêu dùng hàng hóa là một phương tiện để đạt đến một mục đích, và Kinh tế học Phật giáo là nghiên cứu có hệ thống về việc làm thế nào đạt được các mục đích được mang lại với phương tiện tối thiểu.Mặt khác, Kinh tế học hiện đại xem sự tiêu dùng như một mục đích duy nhất và mục tiêu của mọi hoạt động kinh tế, chẳng hạn như các nhân tố của sản xuất như đất đai, lao động và vốn như phương tiện. Cái trước, nói tóm lại, cố gắng tối đa hóa những sự thỏa mãn của con người bằng mẫu hình tiêu dùng tối ưu, trong khi cái sau cố gắng tối đa hóa sự tiêu dùng bằng mẫu hình tối ưu của nỗ lực sản xuất. Dễ thấy rằng nỗ lực cần thiết phải duy trì một lối sống tìm cách đạt đến mẫu hình tiêu dùng tối ưu có vẻ như nhỏ hơn nhiều so với nỗ lực cần phải duy trì một xu hướng cho sự tiêu dùng tối đa. Vì thế, chúng ta không cần ngạc nhiên rằng áp lực và sự căng thẳng của cuộc sống là ít hơn rất nhiều trong, có thể nói, nước Burma, hơn trong nước Mỹ, bất chấp sự kiện rằng lượng máy móc tiết kiệm lao động được sử dụng trong nước Burma chỉ là một tỷ lệ rất nhỏ so với lượng máy móc được sử dụng ở Mỹ.Sự đơn giản và bất-bạo động rõ ràng là có liên hệ mật thiết với nhau. Mẫu hình tiêu dùng tối ưu, tức việc tạo ra một cấp độ thỏa mãn cao của con người bằng một tỷ lệ tiêu dùng tương đối thấp, cho phép con người sống mà không có áp lực và sự căng thẳng lớn nào và hoàn thành giáo huấn chính trong lời giảng của Đức Phật: “Ngừng làm điều ác; gắng làm điều tốt”. Khi các tài nguyên vật chất bị giới hạn ở khắp nơi, những người thỏa mãn các nhu cầu của họ bằng một sự sử dụng khiêm tốn các nguồn tài nguyên rõ ràng là có vẻ ít tranh giành nhau hơn những người phụ thuộc vào sự sử dụng tài nguyên ở tỷ lệ cao. Cũng như vậy, những người sống trong các cộng đồng địa phương có tính tự túc cao thì có vẻ ít dính líu đến bạo lực ở qui mô lớn hơn những người tồn tại phụ thuộc vào các hệ thống thương mại khắp thế giới.Từ điểm nhìn của Kinh tế học Phật giáo, vì thế, sự sản xuất từ các nguồn tài nguyên địa phương cho các mục đích địa phương là con đường hợp lý nhất của đời sống kinh tế, trong khi sự phụ thuộc vào hàng nhập khẩu từ xa và sự cần thiết hợp logic phải sản xuất để xuất khẩu đến các dân tộc xa xôi, không được biết đến là rất phi-kinh tế và có thể biện minh chỉ trong những trường hợp ngoại lệ và trên một qui mô nhỏ. Giống như nhà kinh tế hiện đại thừa nhận rằng một tỷ lệ tiêu thụ cao về các dịch vụ vận chuyển giữa nhà ở của một người với nơi làm việc của họ biểu thị một sự bất hạnh chứ không phải một tiêu chuẩn sống cao, thì người Phật tử sẽ cho rằng việc thỏa mãn các nhu cầu của con người từ các nguồn tài nguyên xa xôi hơn là các nguồn tài nguyên gần kề biểu thị sự thất bại hơn là thành công. Người trước có xu hướng xem sự thống kê chỉ ra một sự gia tăng về lượng tấn/ dặm trên mỗi đầu người được một hệ thống vận chuyển của một quốc gia đưa ra như là bằng chứng cho sự tiến bộ kinh tế, trong khi đối với người sau – nhà kinh tế học Phật giáo – cùng sự thống kê như vậy hẳn sẽ chỉ ra một sự giảm giá trị rất không mong muốn mẫu hình tiêu dùng.Sự khác nhau đáng chú ý nữa giữa Kinh tế học hiện đại và Kinh tế học Phật giáo nảy sinh từ sự sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bertrand de Jouvenel, Triết gia chính trị nổi bật người Pháp, đã đặc trưng “người Tây phương” bằng các từ có thể được xem như một mô tả công bằng về nhà kinh tế hiện đại như sau:Họ có xu hướng xem không có cái gì như một sự tiêu dùng, trừ nỗ lực của con người; họ dường như không lưu ý đến việc mình đã tiêu phí mất bao nhiêu nước khoáng, và tệ hơn nhiều, là mình đã hủy hoại bao nhiêu thời gian sống. Ông có vẻ hoàn toàn không nhận ra rằng cuộc sống con người là một bộ phận phụ thuộc của một hệ sinh thái của nhiều hình thức sự sống khác nhau. Khi thế giới bị cai trị bởi các thành thị nơi những con người đã bị cắt rời khỏi mọi hình thức sự sống khác với con người, tình cảm về việc thuộc về một hệ sinh thái sẽ không được hồi sinh. Điều này dẫn đến một sự đối xử thô bạo và hoang phí các sự vật mà chúng ta phụ thuộc vào một cách cơ bản như nước và cây cỏ[9].Lời giảng của Đức Phật, mặt khác, huấn thị một thái độ tôn kính và bất-bạo động không chỉ đối với mọi tồn tại có cảm giác mà còn, với sự nhấn mạnh rất lớn, đối với cây cỏ. Mỗi đồ đệ của Đức Phật mỗi vài năm phải trồng một cái cây và chăm sóc nó cho đến khi nó được đã bén rễ một cách an toàn, và nhà kinh tế học Phật giáo có thể chỉ ra một cách không khó khăn gì rằng sự tuân thủ phổ quát qui tắc này sẽ mang lại một tốc độ cao cho sự phát triển kinh tế chân thực không phụ thuộc vào bất kỳ sự trợ giúp nước ngoài nào. Không nghi ngờ gì, phần lớn sự sa sút kinh tế của Đông Nam Á (cũng như của nhiều phần khác của thế giới) là vì một sự bỏ bê cây cỏ một cách vô tâm và đáng hổ thẹn. Kinh tế học hiện đại không phân biệt giữa nguyên liệu có thể phục hồi và không thể phục hồi, vì chính phương pháp của nó là san bằng và lượng hóa mọi thứ bằng một giá tiền. Vì thế, khi xem xét các nhiên liệu thay thế khác nhau như than, dầu, củi hoặc năng lượng nước: sự khác nhau duy nhất giữa chúng được nhà kinh tế học hiện đại nhận ra là giá tương đối trên mỗi đơn vị tương đương. Giá rẻ nhất sẽ tự động là một giá được ưa chuộng hơn, trong khi làm ngược lại hẳn sẽ là phi-lý tính và “phi-kinh tế”. Từ một điểm nhìn Phật giáo, dĩ nhiên, điều này sẽ không như vậy; sự khác biệt bản chất giữa các nhiên liệu không thể phục hồi như một mặt than và dầu, và mặt khác là các nhiên liệu có thể phục hồi như gỗ và năng lượng nước, không thể bị bỏ qua một cách đơn giản. Hàng hóa không thể phục hồi phải được sử dụng chỉ khi chúng không thể thiếu được, và sau đó chỉ với sự giữ gìn cẩn trọng nhất và sự quan tâm kĩ lưỡng nhất để bảo tồn. Việc sử dụng chúng một cách không vô tâm hoặc ngông cuồng là một hành vi bạo lực, và trong khi ta không thể đạt đến sự bất-bạo động hoàn toàn trên trái đất này, tuy nhiên có một bổn phận không thể tránh khỏi áp đặt nên con người để nhắm đến một lý tưởng về sự bất-bạo động trong tất cả những gì họ làm.Giống như một nhà Kinh tế học châu Âu hiện đại sẽ không xem việc mọi kho tàng nghệ thuật châu Âu được bán cho Mỹ với mức giá hấp dẫn là một thành tựu vĩ đại thì nhà Kinh tế học Phật giáo cũng sẽ khăng khăng rằng một dân số đặt cơ sở của đời sống kinh tế của nó trên các nhiên liệu không thể phục hồi là đang sống ký sinh, nhất là đặt chủ yếu lên thu nhập. Một lối sống như vậy có thể không lâu dài và vì thế có thể được biện minh chỉ như một biện pháp hoàn toàn tạm thời. Khi các nguồn tài nguyên năng lượng không thể phục hồi của thế giới – than, dầu và khí tự nhiên – được phân phối cực kỳ không đồng đều trên khắp địa cầu và không nghi ngờ gì là bị giới hạn về lượng, thì rõ ràng là sự khai thác chúng với một tốc độ luôn gia tăng là một hành vi bạo lực chống lại Tự nhiên, vốn tất yếu dẫn đến bạo lực giữa người với người một cách hầu như không thể tránh khỏi.Chỉ riêng sự kiện này thôi cũng có thể đáng phải suy nghĩ thậm chí đối với những người trong các quốc gia Phật giáo vốn không quan tâm gì đến các giá trị tôn giáo và tinh thần của di sản của họ và hăng say ham muốn đi theo thuyết Duy vật của Kinh tế học hiện đại với tốc độ nhanh nhất có thể. Trước khi họ thải hồi Kinh tế học Phật giáo như cái gì đó không hơn gì một giấc mơ hoài cổ, có lẽ họ muốn xem liệu con đường phát triển kinh tế được các nhà Kinh tế học hiện đại vạch ra có khả năng dẫn họ đến những nơi chốn mà họ thực sự muốn hay không. Gần cuối cuốn sách dũng cảm của ông, cuốn The Challenge of Man’s Future [Thách thức tương lai của con người], giáo sư Harrison Brown của Viện Công nghệ California đưa ra lời ca ngợi sau:Vì thế chúng ta thấy rằng, giống như xã hội công nghiệp là không ổng định từ nền tảng và khó tránh khỏi việc quay lại lối sống trồng trọt, thì bên trong nó cũng vậy, các điều kiện mang lại tự do cá nhân cũng không ổn định trong khả năng tránh được các điều kiện vốn áp đặt sự tổ chức cứng nhắc và sự quản lý toàn trị. Thực tế, khi chúng ta khảo sát mọi sự khó khăn có thể thấy trước đang đe dọa sự sống còn của văn minh công nghiệp, thì khó mà thấy làm thế nào có thể làm cho thành tựu của tính ổn định và sự duy trì tự do cá nhân phù hợp với nhau[10].Thậm chí nếu điều này bị thải hồi như một quan niệm lâu đời, thì có câu hỏi trực tiếp về việc liệu “hiện đại hóa”, như đang được thực hành hiện nay mà không xem xét đến các giá trị tôn giáo và tinh thần, có thực sự tạo ra các kết quả vừa ý không. Đối với các đám đông đang nói đến, các kết quả dường như là tai họa – một sự sụp đổ của nền kinh tế nông thôn, một đợt thủy triều đang nổi lên của sự thất nghiệp trong thành phố và quốc gia, và sự lớn mạnh của một giới vô sản thành thị mà không có sự nuôi dưỡng cho thể x