Luận án Ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” trong Tiếng Việt

Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo được”. Đó là nhận định của Ăng-ghen trong Điếu văn đọc trước mộ Các-Mác, trong đó “ăn” được xếp vào nhu cầu bản thể đầu tiên của con người – tất nhiên, đồ ăn luôn có ý nghĩa sống còn với sự sinh tồn. Hơn thế, đồ ăn còn được chú ý đến trên bình diện văn hóa tinh thần. Đỗ Hữu Châu trong [7] đã nêu quan điểm: văn hóa khác nhau thì ngôn ngữ khác nhau, ngôn ngữ khác nhau thì ứng xử văn hóa khác nhau. Trong ngôn ngữ, ẩn dụ là một điểm mở để tìm hiểu văn hóa. Ẩn dụ là những hiểu biết, những tín điều, tình cảm; ẩn dụ có ý nghĩa đánh giá, gợi ra những ý nghĩa tốt, xấu khác nhau – ẩn dụ là một bộ phận của văn hóa.

docx209 trang | Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 2874 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” trong Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ BÍCH HỢP ẨN DỤ Ý NIỆM MIỀN “ĐỒ ĂN” TRONG TIẾNG VIỆT Chuyên ngành : Ngôn ngữ Việt Nam Mã số : 62.22.01.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Thị Hảo Tâm HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu thống kê là hoàn toàn trung thực do tôi thực hiện. Đề tài nghiên cứu và các kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào khác. Tác giả luận án Nguyễn Thị Bích Hợp LỜI CẢM ƠN Luận án này được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội với sự giúp đỡ quý báu của nhiều tập thể và cá nhân. Trước tiên, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc nhất tới PGS.TS. Đặng Thị Hảo Tâm, người đã luôn quan tâm khích lệ, tận tình hướng dẫn, truyền nhiệt huyết cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu; giúp tôi hình thành, hoàn thiện luận án và trưởng thành trong khoa học. Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển học và Bách khoa thư, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội và các nhà khoa học đã trang bị kiến thức, chỉ bảo cho tôi trong quá trình học tập, nâng cao chất lượng đề tài nghiên cứu. Tôi đặc biệt biết ơn Ban Giám hiệu – Lãnh đạo trường Đại học Tân Trào, các Phòng ban, Khoa – Bộ môn và đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ và chia sẻ với tôi về mọi mặt trong suốt chương trình học tập Nghiên cứu sinh. Tôi xin cảm ơn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận án. Tôi ghi nhớ và trân trọng tình cảm, sự nhiệt tình của anh chị em Nghiên cứu sinh, bạn bè đã cùng tôi vượt qua nhiều thử thách, giúp tôi thực hiện các điều tra xã hội học, góp ý cho tôi để kết quả nghiên cứu được trọn vẹn. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Bố Mẹ, Chồng và các Con, cùng toàn thể gia đình – những người luôn yêu thương, ủng hộ, chia sẻ, gánh vác, sát cánh bên tôi trong những năm tháng nghiên cứu và phấn đấu. Trân trọng! Hà Nội, tháng 12 năm 2015 Tác giả luận án Nguyễn Thị Bích Hợp MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.2.1.1h. Các thành tố của khái niệm “đồ ăn” 36 Bảng 2.2.1.1i. Kết quả khảo sát mức độ KHÔNG liên quan của các yếu tố đến đồ ăn 37 Bảng 2.2.2.1a. Thống kê ý niệm thuộc miền “đồ ăn” 39 Biểu đồ 2.2.2.1b. Tỉ lệ các ý niệm trong miền “đồ ăn” 41 Bảng 2.2.2.2a. Các ý niệm tiêu biểu của miền “đồ ăn” 42 Bảng 2.2.2.2b. Các ý niệm tiêu biểu theo điều tra xã hội học 43 Bảng 2.2.2.2c. Các điển mẫu trong miền “đồ ăn” 44 Bảng 2.2.3c. So sánh ý niệm tương ứng trên hai hình nền “đồ ăn” và “cơ thể sinh vật” 47 Bảng 3.2.1.2a. Các cặp khái niệm không gian tiếng Việt 75 DANH MỤC MÔ HÌNH, HÌNH Mô hình 2.2.1.1a: Cấu trúc hạt nhân của ý niệm “đồ ăn” 30 Mô hình 2.2.1.1c: Cấu trúc hạt nhân của ý niệm “cơm” 32 Mô hình 2.2.1.1d: Cấu trúc hạt nhân của ý niệm “bột” 33 Mô hình 2.2.1.1e: Cấu trúc hạt nhân của ý niệm “ăn” 34 Mô hình 2.2.1.2a. Cấu trúc ý niệm “đồ ăn” 38 Hình 1.2.6. Mô hình pha trộn ý niệm 24 Hình 2.3.2a. Sơ đồ hình ảnh “mâm cơm” 52 Hình 2.3.2b. Sơ đồ không gian “mâm cơm” 52 Hình 2.3.2c. Sơ đồ hình ảnh chuyển động “vào mâm” 53 Hình 2.3.2d. Sơ đồ ý niệm hóa hình tượng “đầu nồi” 55 Hình 2.3.4a. Mô hình tri nhận hoán dụ “cơm” 56 Hình 2.3.4b. Mô hình tri nhận hoán dụ “nhà bếp” 57 Hình 3.1.1. Mô hình tỏa tia của “Cơm” 61 Hình 3.1.2. Mô hình tỏa tia của “Ăn” 63 Hình 3.1.3. Mô hình tỏa tia của “Mặn” 63 Hình 3.1.4. Mô hình tỏa tia của “Bát” 64 Hình 3.1.5. Mô hình tỏa tia của “Đói” 65 Hình 3.2.1.1a. Hệ thống thành tố của ý niệm “thực thể” 68 Hình 3.2.1.1b. Ý niệm bậc trên của miền “đồ ăn” 68 Hình 3.2.1.1c. Lược đồ ánh xạ từ miền “thực thể” tới miền “hoạt động liên quan đến đồ ăn” 69 Hình 3.2.1.1e. Lược đồ ánh xạ từ miền “thực thể” tới ý niệm “nấu ăn” 70 Hình 3.2.1.1f. Lược đồ ánh xạ từ miền “thực thể” tới miền “mùi vị đồ ăn” 71 Hình 3.2.1.1g. Lược đồ ánh xạ từ miền “thực thể” tới miền “cảm giác, cảm nhận” 71 Hình 3.2.1.1k. Mô hình tri nhận ẩn dụ vật chứa “bữa” 73 Hình 3.2.1.1m. Ví dụ mô hình tri nhận vật chất “đồ ăn” 74 Hình 3.2.1.1n. Ánh xạ tới miền đích “đồ ăn” 74 Hình 3.2.1.2b. Lược đồ ánh xạ từ miền “thực thể” tới miền “mùi vị đồ ăn” 76 Hình 3.2.1.2b. Ánh xạ từ miền nguồn “phương hướng” tới miền đích “mùi vị” 77 Hình 3.2.2.1a. Lược đồ ánh xạ từ miền nguồn “đồ ăn” đến miền đích “thời gian” 78 Hình 3.2.2.1b. Lược đồ ánh xạ từ ý niệm “món ăn” đến ý niệm “đơn vị thời gian” 79 Hình 3.2.2.2a. Lược đồ ánh xạ từ miền nguồn “đồ ăn” đến miền đích “con người” 80 Hình 3.2.2.2b. Lược đồ ánh xạ từ miền nguồn “đồ ăn” đến miền đích “tư tưởng” 81 Hình 3.2.2.3a. Lược đồ ánh xạ từ miền nguồn “đồ ăn” đến miền đích “tự nhiên-xã hội” 82 Hình 3.2.2.3b. Lược đồ ánh xạ từ miền nguồn “hoạt động liên quan đến đồ ăn” đến miền đích “hoạt động tự nhiên-xã hội” 83 Hình 3.2. Bản đồ ánh xạ qua miền trung tâm “đồ ăn” 85 Hình 3.3.1a. Mô hình pha trộn ý niệm “bánh vẽ” 86 Hình 3.3.1b. Mô hình pha trộn ý niệm “mặt thớt” 87 Hình 3.3.2a. Mô hình pha trộn ý niệm “nấu cháo điện thoại” 88 Hình 3.2.2b. Mô hình pha trộn ẩn dụ ý niệm “VỢ CHỒNG LÀ ĐÔI ĐŨA” 89 Hình 3.3.3a. Mô hình pha trộn ẩn dụ ý niệm “no mắt” 91 Hình 3.3.3b. Mô hình tri nhận của ẩn dụ “bữa tiệc ấm cúng” 92 Hình 4.2.1.1a. Sơ đồ miêu tả quá trình hình thành và biến chất của đồ ăn 111 Hình 4.2.1.1b. Mô hình tri nhận ẩn dụ định hướng ĐỒ ĂN TỐT LÀ LÊN 118 DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ, LƯỢC ĐỒ Biểu đồ 2.2.2.1b. Tỉ lệ các ý niệm trong miền “đồ ăn” 41 Sơ đồ 3.2.1.1h. Mô hình tri nhận ý niệm thực thể “bữa” 72 Lược đồ 2.2.1.1b: Cấu trúc hạt nhân của ý niệm “đồ ăn” 31 Lược đồ 2.2.1.1g: Cấu trúc hạt nhân của ý niệm “ăn” 35 Lược đồ 2.2.3a. Các vùng nền của miền ý niệm “đồ ăn” 46 Lược đồ 2.2.3b: Hình bóng-hình nền của ý niệm “Ruột”, “Lòng” 46 Lược đồ 4.1.3.1. Cấu trúc ẩn dụ THỜI GIAN LÀ ĐỒ ĂN 122 Lược đồ 4.1.3.2. Cấu trúc ẩn dụ CON NGƯỜI LÀ ĐỒ ĂN 123 Lược đồ 4.1.3.3a. Cấu trúc ẩn dụ CUỘC ĐỜI LÀ BỮA ĂN 135 Lược đồ 4.1.3.3b. Cấu trúc ẩn dụ SỰ VẬT, HIỆN TƯỢNG LÀ ĐỒ ĂN 137 Lược đồ 4.1.3.3c. Cấu trúc ẩn dụ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI CỦA CON NGƯỜI LÀ HOẠT ĐỘNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỒ ĂN 137 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. “Con người trước hết cần phải ăn, uống, chỗ ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo được”. Đó là nhận định của Ăng-ghen trong Điếu văn đọc trước mộ Các-Mác, trong đó “ăn” được xếp vào nhu cầu bản thể đầu tiên của con người – tất nhiên, đồ ăn luôn có ý nghĩa sống còn với sự sinh tồn. Hơn thế, đồ ăn còn được chú ý đến trên bình diện văn hóa tinh thần. Đỗ Hữu Châu trong [7] đã nêu quan điểm: văn hóa khác nhau thì ngôn ngữ khác nhau, ngôn ngữ khác nhau thì ứng xử văn hóa khác nhau. Trong ngôn ngữ, ẩn dụ là một điểm mở để tìm hiểu văn hóa. Ẩn dụ là những hiểu biết, những tín điều, tình cảm; ẩn dụ có ý nghĩa đánh giá, gợi ra những ý nghĩa tốt, xấu khác nhau – ẩn dụ là một bộ phận của văn hóa. Như vậy, quan điểm nhất quán đã được khẳng định từ lâu là ẩm thực cũng như ngôn ngữ (cụ thể hơn là ẩn dụ) đều có quan hệ mật thiết với văn hóa. Nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng khái quát “Bản sắc văn hóa Việt Nam đọng trong văn hóa ngôn từ và văn hóa ăn uống”. Có thể nói, tìm hiểu văn hóa dựa trên đối tượng nghiên cứu ẩm thực nói chung trong ngôn ngữ Việt Nam là góc nhìn lí tưởng và rộng mở. Theo quan niệm của Ngôn ngữ học tri nhận thế giới, “đồ ăn” là một trong những miền nguồn cơ bản – được Z. Kovecses xác định là “Cooking and Food” trong [141]. Nghiên cứu ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt trong sự đối sánh với ngôn ngữ khác sẽ giúp thấy được những tương đồng và khác biệt về văn hóa, tư duy. 1.2. Ngôn ngữ phản ánh hiện thực nhưng không đơn thuần là tấm gương phẳng, đó là sự phản chiếu qua lăng kính chủ quan, theo quan điểm của khoa học tri nhận: ngôn ngữ là công cụ tri nhận của con người. Trong đó, ẩn dụ là một trong những công cụ tiêu biểu và hiệu quả. Ngôn ngữ học cấu trúc, Văn học đã xem ẩn dụ là cách diễn đạt bóng bẩy, mang giá trị tu từ, đem lại hiệu quả thẩm mĩ cao và được nghiên cứu chủ yếu ở góc độ tu từ, không liên quan đến tư duy, tâm trí. Ngôn ngữ học tri nhận đã kéo ẩn dụ sang vùng nghiên cứu mới, đặt trong mối tương quan giữa ngôn ngữ - tâm lí. Kể từ công trình kinh điển Metaphors We Live By [149] của G. Lakoff và M. Johnson, ẩn dụ vượt ra hẳn phạm vi Ngôn ngữ học, là đối tượng nghiên cứu của khoa học liên ngành. Ẩn dụ không chỉ xuất hiện trong thơ ca mà còn thể hiện vai trò trong mọi lĩnh vực: đời thường, kinh tế, ngoại giao, quảng cáo, khoa học, điện ảnh, chính trị Ở Việt Nam, đã có hàng trăm công trình, bài viết bàn luận, vận dụng lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận để nghiên cứu Việt ngữ, trong đó đa số quan tâm đến ẩn dụ ý niệm. Trào lưu này đã tạo nên một vòng xoáy khá lớn thu hút về mình cả những nghiên cứu ở những góc độ, lĩnh vực dường như độc lập với tri nhận. Có thể nói, Ngôn ngữ học tri nhận nói chung, ẩn dụ ý niệm nói riêng đang nhận được sự chú ý của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam, bước đầu khẳng định được vai trò của mình trong lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ từ góc độ tâm lí, tư duy và văn hóa. 1.3. Mặc dù số lượng khá lớn, nhưng trong số các nghiên cứu Ngôn ngữ học tri nhận đã có ở Việt Nam, chưa có công trình độc lập nào tìm hiểu về đối tượng ẩm thực trong ngôn ngữ Việt. Các ẩn dụ nổi bật – đã được bàn bạc nhiều chủ yếu liên quan tới các ý niệm tình cảm, thực vật, hành trình, bộ phận cơ thể Kết quả nghiên cứu về nhóm đối tượng này còn tương đối đơn sắc, đa phần liệt kê các ẩn dụ, hoặc minh họa ẩn dụ có sẵn trong tiếng Anh, chỉ ra miền nguồn-đích. Hiện thực đó chưa đi tới bề sâu của vấn đề, chưa trả lời được nhiều câu hỏi mang tính chất tri nhận, chẳng hạn: tại sao một miền ý niệm lại trở thành miền nguồn/đích (?), cơ chế nào chi phối sự ánh xạ từ miền nguồn này tới miền đích khác (?), các ẩn dụ đó có kết nối với nhau hay không (?), có đặc điểm nào khác biệt giữa ẩn dụ này với ẩn dụ khác, hoặc giữa ẩn dụ của dân tộc này với dân tộc khác hay không (?).v.v Xét riêng về phạm vi ăn uống, có nhiều hướng nghiên cứu về đối tượng này như ý niệm hóa, phạm trù hóa, giả thuyết nghiệm thân, hoán dụ, ẩn dụ ý niệm hoặc trên các phạm vi nghiên cứu cụ thể liên quan đến ẩm thực như ăn hoặc uống Trong khuôn khổ luận án, việc bao quát hết tất cả các phương diện và phạm vi nói trên là rất khó khăn, do đó, nghiên cứu riêng ẩn dụ ý niệm liên quan đến đồ ăn có thể là một cách tiếp cận có hứa hẹn. Từ những khoảng trống trong nghiên cứu ẩn dụ ý niệm nói chung, nghiên cứu về đồ ăn nói riêng như trên, với mong muốn góp phần vận dụng Ngôn ngữ học tri nhận vào Việt ngữ, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” trong tiếng Việt . 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là vận dụng lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận vào thực tiễn tiếng Việt để xác lập cấu trúc ý niệm và miền ý niệm “đồ ăn”, tìm hiểu các miền đích, miền nguồn và hệ thống ánh xạ, cơ chế ánh xạ giữa các miền ý niệm; hệ thống hóa ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt; từ đó nghiên cứu đặc trưng tri nhận, bản sắc văn hóa riêng của người Việt qua ẩn dụ ý niệm “đồ ăn”. Ngoài ra, luận án cũng lưu ý tới các hiện tượng hoán dụ tri nhận, hòa trộn ý niệm trong mối tương quan với ẩn dụ ý niệm. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau đây: - Hệ thống hóa các vấn đề Ngôn ngữ học tri nhận làm cơ sở lí thuyết trực tiếp cho đề tài. - Tìm hiểu ý niệm “đồ ăn” và miền ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt; xây dựng cấu trúc của miền, xác định và phân tích điển mẫu thông qua phân tích khối liệu và điều tra xã hội học. - Khảo sát, nghiên cứu các miền ý niệm khác có quan hệ ẩn dụ với miền ý niệm “đồ ăn”, xác lập hệ thống ánh xạ, nhận diện cơ chế ánh xạ và hòa trộn ý niệm giữa các miền. - Thống kê, phân loại, phân tích các ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” nổi bật. - Chắt lọc và lí giải những giá trị văn hóa, bản sắc tư duy dân tộc qua ẩn dụ ý niệm “đồ ăn”. - So sánh, đối chiếu với tiếng Anh trong các trường hợp cần thiết: giá trị tri nhận tương đương nhưng khác biệt về phương thức; hoặc phương thức tương tự nhưng có ý nghĩa khác. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là toàn bộ nội hàm tri nhận, cấu trúc, đặc trưng, cơ chế hoạt động và các vấn đề liên quan của hệ thống ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” trong tiếng Việt. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án là hệ thống ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” tiếng Việt từ truyền thống đến hiện đại, trong mối quan hệ tổng thể từ miền nguồn, miền đích, hệ thống ánh xạ và các giá trị văn hóa, tư duy liên quan. Đề tài chủ yếu tiến hành khảo sát ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” thông qua ngôn ngữ tự nhiên, ca dao, tục ngữ, thành ngữ - nơi lưu giữ quan niệm sống, tri thức văn hóa dân gian của người Việt; ngôn ngữ trong các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại, phim ảnh, báo chí đương thời để nhận diện ẩn dụ ý niệm trong truyền thống cũng như trong đời sống hiện nay người Việt. Ngữ liệu tiếng Anh dùng để đối chiếu trong luận án được trích xuất từ kho Ngôn ngữ khối liệu Anh (British National Corpus), một công cụ tra cứu văn bản tại website 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích, miêu tả: phân tích các biểu thức ngôn ngữ gắn với ngữ cảnh cụ thể, xác định cấu trúc ý niệm; phân tích cấu trúc ẩn dụ ý niệm, xác định miền đích, miền nguồn, hệ thống ánh xạ; miêu tả ý niệm, miền ý niệm, ẩn dụ ý niệm làm cơ sở tìm hiểu các đặc trưng tư duy và hoạt động tâm trí của con người. - Thủ pháp thống kê, phân loại: thống kê, phân loại, hệ thống hóa ý niệm, miền, ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt; khảo sát văn bản học, xây dựng ngữ liệu làm cơ sở thực tiễn để áp dụng lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận; - Phương pháp điều tra xã hội học: điều tra xã hội học bằng bảng hỏi trực tiếp và biểu mẫu trực tuyến qua công cụ Google-docs thu thập ngữ liệu sinh hoạt, tìm hiểu đặc điểm tri nhận người Việt về ý niệm “đồ ăn”, ẩn dụ ý niệm “đồ ăn”. - Phương pháp so sánh: so sánh ẩn dụ ý niệm tiếng Việt và tiếng Anh trong các trường hợp cần thiết để thấy rõ sự khác biệt về tri nhận, văn hóa, tư duy giữa hai dân tộc. 5. Đóng góp mới của luận án 5.1. Về lí luận Các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần khẳng định vị thế của lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam, hệ thống hóa các vấn đề lí thuyết cơ bản của ẩn dụ ý niệm và soi sáng bằng sự phân tích, biện luận trên ngữ liệu ẩn dụ ý niệm – một nguồn ngữ liệu phong phú, hàm chứa giá trị văn hóa, tri nhận cao. Luận án sẽ góp phần thúc đẩy việc nghiên cứu khuynh hướng lí thuyết về ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam, góp phần chứng minh ẩn dụ tri nhận không chỉ là hình thái tu từ của thi ca mà còn là vấn đề của tư duy, là một công cụ quan trọng để con người nhận thức thế giới. 5.2. Về thực tiễn Luận án là công trình vận dụng lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận vào thực tiễn tiếng Việt, kết quả nghiên cứu của luận án có thể phác họa bức tranh tổng quát về ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn”, lí giải những hiện tượng ngôn ngữ có liên quan đến ẩn dụ “đồ ăn” trong thực tiễn giao tiếp, ứng dụng vào việc giảng dạy tiếng Việt, hoặc sử dụng như một ví dụ về để truyền bá – giới thiệu văn hóa Việt Nam. Tóm lại, luận án là công trình bậc tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu chuyên sâu về ẩn dụ ý niệm miền “đồ ăn” theo quan điểm ngôn ngữ tri nhận. Trong khuôn khổ một luận án, chúng tôi cố gắng thực hiện triệt để mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, hi vọng đóng góp vào quá trình ứng dụng ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm 4 chương: - Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu và cơ sở lí thuyết - Chương 2: Miền ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt - Chương 3: Ánh xạ ẩn dụ, pha trộn miền ý niệm “đồ ăn” với các miền ý niệm khác trong tiếng Việt - Chương 4: Hệ thống ẩn dụ ý niệm “đồ ăn” trong tiếng Việt Chương 1 TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT Tổng quan về đề tài nghiên cứu Sơ lược về Ngôn ngữ học tri nhận và nghiên cứu ẩn dụ ý niệm Trên thế giới, những nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm xuất hiện cùng với sự hình thành của Ngôn ngữ học tri nhận những năm 70 của thế kỉ XX. Công trình đầu tiên đánh dấu khuynh hướng này chính là Metaphors We Live By (Chúng ta sống trong ẩn dụ) [149] của G. Lakoff và M. Johnson xuất bản năm 1980. Ẩn dụ từ đây đã thực sự vượt qua ranh giới Ngôn ngữ học thuần túy, trở thành đối tượng nghiên cứu của Tâm lí học, Triết học. Tác giả khẳng định “Hệ thống ý niệm thông thường của chúng ta, dựa vào đó chúng ta vừa suy nghĩ vừa hành động, chủ yếu có tính ẩn dụ trong bản chất”. Thực tiễn cho thấy: trong thi ca, hình thức ngôn ngữ có khác nhưng bản chất ẩn dụ không khác gì cách diễn đạt ngôn ngữ thường ngày. Một điểm nữa cần ghi nhận là trước đây người ta chỉ đề cập đến ẩn dụ một cách chung chung, không định danh từng ẩn dụ riêng biệt; còn G. Lakoff và cộng sự đã gọi tên các ẩn dụ như: ARGUMENT IS WAR, THEORY IS BUILDING .v.v. Những năm qua, Ngôn ngữ học tri nhận thế giới nói chung, nghiên cứu về ẩn dụ ý niệm nói riêng đã ghi danh tên tuổi G. Lakoff, M. Johnson, Z. Kovecses, G. Fauconnier, M. Turner, C. Fillmore, J.E. Grady, M. Green Các tác giả đã đưa ra một số lí thuyết, khái niệm mới như nghiệm thân, khung tri nhận, ẩn dụ ý niệm, ánh xạ, miền ý niệm, không gian tinh thần, pha trộn ý niệm Các ứng dụng thực hành về ẩn dụ ý niệm về các đối tượng tri nhận như cảm xúc [140], không-thời gian [155], tình dục [134]thu được những kết quả rộng khắp trên các lĩnh vực thi ca [143], [151], giáo dục [127], báo chí [141], điện ảnh, chính trị [137] và đặc biệt là ngôn ngữ thường ngày; trong các ngôn ngữ ngoài tiếng Anh, chẳng hạn như tiếng Ma-rốc [125], tiếng Trung [161] đem lại nhiều nhận xét mới mẻ mà lịch sử nghiên cứu ẩn dụ truyền thống nhiều thế hệ hầu như không có. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy mối quan hệ mật thiết giữa ẩn dụ ý niệm và văn hóa, trong sự ràng buộc giữa con người – ngôn ngữ – xã hội, coi ẩn dụ ý niệm là cánh cửa tìm hiểu tâm trí, tư duy con người cũng như các đặc trưng xã hội riêng biệt của dân tộc [140], [142], [150], [153], Ở Việt Nam, Ngôn ngữ học tri nhận chính thức được xướng danh trong Ngôn ngữ học tri nhận nhìn từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt [103] của Lý Toàn Thắng. Tác giả giới thuyết một số khái niệm cơ sở như tri nhận, ý niệm, hình – nền, nguyên lí “dĩ nhân vi trung” và đi sâu trình bày về đặc điểm tri nhận không gian của người Việt. Đây là một công trình quan trọng của Ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam, vừa có ý nghĩa lí luận giới thiệu một xu hướng mới, vừa có giá trị thực tiễn khi áp dụng vào nghiên cứu tiếng Việt và đưa ra những kết luận xác đáng, thuyết phục. Một cách khái quát, Ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam đã dần được định vị bởi nhiều học giả Lý Toàn Thắng; Trần Văn Cơ [12], [15]; Nguyễn Đức Tồn [114]; Nguyễn Thiện Giáp [28]; Nguyễn Văn Hiệp [40], Đặng Thị Hảo Tâm [97], [98] Ẩn dụ ý niệm trở thành đối tượng nghiên cứu được quan tâm đặc biệt trong nghiên cứu tri nhận ở Việt Nam. Các công trình đề cập đến đối tượng này chia thành hai hướng: nghiên cứu trọng tâm về ẩn dụ ý niệm và nghiên cứu về vấn đề tri nhận khác trong đó có một phần nội dung dành cho ẩn dụ ý niệm. Các luận án tập trung tìm hiểu về ẩn dụ ý niệm gồm: Ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên cứ liệu tiếng Việt và tiếng Anh) [60] của Phan Thế Hưng (2010); Ẩn dụ tiếng Việt nhìn từ lí thuyết nguyên mẫu (so sánh với tiếng Anh và tiếng Pháp) [29] của Võ Kim Hà (2011); Đối chiếu phương thức ẩn dụ nhìn từ lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận trên cứ liệu báo chí kinh tế Anh –Việt [32] của Hà Thanh Hải (2011); Nghiên cứu so sánh đối chiếu ẩn dụ trong tiếng Việt và tiếng Hán từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận (trên tư liệu tên gọi bộ phận cơ thể người) [50] của Trịnh Thị Thanh Huệ (2012); Ẩn dụ ý niệm của phạm trù thực vật trong tiếng Việt (có liên hệ với tiếng Anh) [73] của Trần Thị Phương Lý (2012); Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn [36] của Nguyễn
Luận văn liên quan