Việt Nam, một nước đang trong quá trình phát triển và hội nhập, từ quốc gia có thu nhập thấp đến nay trở thành quốc gia ở ngưỡng đầu có thu nhập trung bình. Việt Nam có hệ thống tài chính, kinh tế còn nhỏ bé nên dễ bị tổn thương khi có các tác động của khủng hoảng tài chính, kinh tế của thế giới và những khó khăn từ nội tại nền kinh tế.
Đảm bảo an ninh tài chính, đặc biệt đảm bảo an ninh tài chính cho thị trường tài chính là một vấn đề quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, Nghiên cứu sinh chọn đề tài nghiên cứu: “An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” cho luận án tiến sỹ kinh tế của mình
24 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1914 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam, một nước đang trong quá trình phát triển và hội nhập, từ quốc gia có thu nhập thấp đến nay trở thành quốc gia ở ngưỡng đầu có thu nhập trung bình. Việt Nam có hệ thống tài chính, kinh tế còn nhỏ bé nên dễ bị tổn thương khi có các tác động của khủng hoảng tài chính, kinh tế của thế giới và những khó khăn từ nội tại nền kinh tế.
Đảm bảo an ninh tài chính, đặc biệt đảm bảo an ninh tài chính cho thị trường tài chính là một vấn đề quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, Nghiên cứu sinh chọn đề tài nghiên cứu: “An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” cho luận án tiến sỹ kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
+ Chuyên đề thứ nhất: “giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”.
+ Chuyên đê thứ hai: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát vi mô các tổ chức tín dụng ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”.
+ Chuyên đề thứ ba: “Một số giải pháp chủ yếu đảm bảo an ninh tài chính cho hoạt động của thị trường tiền tệ Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”.
Ba chuyên đề nghiên cứu của Nghiên cứu sinh đã được hội động nghiệm thu của Học viện Ngân hàng nghiệm thu thông qua vào ngày 25 tháng 11 năm 2011.
Ngày 22 tháng 3 năm 2013, Nghiên cứu sinh đã bảo vệ đề tài luận án cấp cơ sở trước Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở. Sau khi có kết quả chấm luận án tiến sĩ cấp cơ sở và ý kiến của các Thành viên hội đồng, ý kiến kết luận của Chủ tịch hội đồng, đề tài luận án tiến sĩ tiếp tục được bổ sung và hoàn chỉnh để bảo vệ trước hội đồng.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
+ Làm rõ nội dung khoa học của an ninh tài chính cho thị trường tài chính;
+ Đánh giá, thực trạng an ninh tài chính của thị trường tài chính Việt Nam, trong đó chủ yếu đi sâu phân tích về an ninh tài chính của thị trường tiền tệ và ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm.
+ Đề xuất các giải pháp đảm bảo an ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam.
4. Các phương pháp nghiên cứu
Dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp thống kê, tổng hợp, nghiên cứu thực tiễn tại Ngân hàng Nhà nước và một số bộ, ngành, tại một số tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán, nghiên cứu tài liệu của một số tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán, nghiên cứu tài liệu của một số tổ chức quốc tế để phân tích, quy nạp tìm ra phương án tối ưu cho mục tiêu nghiên cứu.
5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu một cách tổng quan về thị trường tài chính, an ninh thị trường tài chính, chủ yếu tập trung nghiên cứu về thị trường tiền tệ và ngân hàng và thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, là những thành phần chủ yếu chi phối thị trường tài chính trong giai đoạn kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay. Đối với thị trường tiền tệ và ngân hàng, Nghiên cứu sinh tập trung nghiên cứu thị trường hoạt động giữa các tổ chức tín dụng với các tổ chức kinh tế, dân cư và các tổ chức khác.
- Đối tượng nghiên cứu là vấn đề an ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam, lấy thị trường tiền tệ và ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm để khảo sát đánh giá.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Đề tài gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về an ninh tài chính cho thị trường tài chính trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế;
Chương 2: Thực trạng về an ninh tài chính của thị trường tài chính Việt Nam, đánh giá, nhận định, nguyên nhân và bài học;
Chương 3: Giải pháp về an ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ AN NINH TÀI CHÍNH CHO THỊ TRƯỜNG
TÀI CHÍNH TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Tổng quan về an ninh tài chính trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Khái niệm về an ninh tài chính
Theo quan điểm của Thống đốc Ngân hàng Trung ương Thổ Nhĩ Kỳ, an ninh tài chính có thể được tăng cường thông qua sự hiện hữu của hệ thống hoạt động trơn tru. Đây là một quan điểm tổng thể và bao gồm hệ thống thanh toán, cơ sở hạ tầng về công nghệ cũng như khung quản lý và giám sát. Giữa an toàn tài chính và an ninh tài chính có mối liên kết chặt chẽ.
Theo tài liệu An ninh tài chính quốc gia lý luận cảnh bảo, đối sách – Nhà xuất bản tài chính tháng 7 năm 2004 của nhóm tác giả do Giáo sư, tiến sỹ khoa học Tào Hữu Phùng (chủ biên) và tài liệu nghiên cứu của nhóm tác giả Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính, an ninh tài chính có khái niệm như sau:
An ninh tài chính là một khái niệm cơ bản để chỉ một tình trạng tài chính ổn định, an toàn, vững mạnh và không bị khủng hoảng.
Ổn định được hiểu là duy trì được hoạt động bình thường, không có những biến động đột ngột, bất thường. Tuy nhiên, cần phải hiểu sự ổn định trong sự vận động và phát triển. Ổn định không có nghĩa là cố gắng giữ nguyên mọi thứ như cũ mà là giữ được ổn định trong tiến trình phát triển đi lên, không ngừng cải tiến và hoàn thiện.
An toàn được hiểu là trạng thái không bị nguy hiểm do các tác động bên trong và bên ngoài. Giữ được an toàn đồng nghĩa với không tự mình gây hại cho mình đồng thời ngăn chặn và chống lại được sự tấn công phá hoại từ bên ngoài. Nếu ổn định là tiền đề có tính chất nền tảng thì an toàn là cốt lõi chi phối toàn bộ quá trình vận động của tình trạng tài chính.
Vững mạnh là cơ sở cho sự ổn định và an toàn, một trạng thái tài chính yếu không thể giữ được ổn định và đảm bảo an toàn.
Khủng hoảng là giới hạn cuối cùng của sự mất an ninh tài chính, tránh được khủng hoảng là mục tiêu tối thượng của mọi giải pháp đảm bảo an ninh tài chính. Khủng hoảng tài chính bao trùm gắn với mất cân đối tài chính, gắn với nghĩa vụ phải thanh toán lớn hơn nhiều phương tiện dùng để thanh toán tại một thời điểm nào đó.
Nghiên cứu sinh thống nhất với khái niệm an ninh tài chính của các tác giả đã nghiên cứu, tuy nhiên, khái niệm này mới chỉ được khái quát rất chung ở “tình trạng tài chính”. Do đó, để nâng cao tính khoa học và thực tiễn của an ninh tài chính, cần phải nghiên cứu sâu hơn về thị trường tài chính, các khu vực tài chính.
1.1.2. Phân loại an ninh tài chính
1.1.2.1. Phân loại theo cấp hay phạm vi quản lý
a. An ninh tài chính quốc gia;
b. An ninh tài chính doanh nghiệp;
c. An ninh tài chính cá nhân (dân cư - hộ gia đình);
1.1.2.2. Phân loại theo lĩnh vực
a. An ninh tài chính khu vực nhà nước;
b. An ninh tài chính của các trung gian tài chính;
c. An ninh tài chính khu vực doanh nghiệp và dân cư.
1.1.2.3. Phân loại theo chức năng tài chính
a. An ninh tài chính trong huy động các nguồn lực tài chính.
b. An ninh tài chính trong phân bổ các nguồn lực tài chính.
c. An ninh tài chính trong sử dụng các nguồn lực tài chính.
1.1.2.4. Phân loại theo phạm vi địa lý
a. An ninh tài chính địa phương;
b. An ninh tài chính quốc gia;
c. An ninh tài chính khu vực;
d. An ninh tài chính toàn cầu;
1.1.2.5. Phân loại theo tính chất
a. An ninh tài chính thực;
b. An ninh tài chính “ảo” hay an ninh tài chính hình thức
1.1.2.6. Phân loại theo mức độ
a. An ninh tài chính mức độ cao;
b. An ninh tài chính được đảm bảo;
c. An ninh tài chính không được đảm bảo;
d. Mất an ninh tài chính;
1.1.2.7. Phân loại theo thị trường tài chính
a. Căn cứ tính chất chuyên môn hoá thị trường: an ninh thị trường công cụ nợ; an ninh thị trường công cụ vốn; an ninh thị trường công cụ phái sinh. Nói một cách tổng quát, thị trường tài chính hoạt động trên cơ sở giao dịch các loại tài sản tài chính;
b. Căn cứ vào cơ cấu thị trường: an ninh thị trường sơ cấp, an ninh thị trường thứ cấp;
c. Căn cứ vào thời hạn của các công cụ tài chính: an ninh tài chính của thị trường tiền tệ và ngân hàng; an ninh tài chính thị trường vốn; an ninh thị trường bảo hiểm;
1.2. Tổng quan về thị trường tài chính
1.2.1. Khái niệm về thị trường tài chính
Thị trường tài chính là thị trường của các công cụ tài chính và trong đó nguồn tài chính được kết chuyển từ người có vốn dư thừa sang người thiếu vốn, thông qua các mối quan hệ trao đổi, mua bán các công cụ tài chính.
Nếu nhìn nhận đơn giản có thể hiểu, thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các công cụ tài chính.Thị trường tài chính là môi trường ở đó hệ thống tài chính vận động.
Chức năng cơ bản nhất của thị trường tài chính là nơi diễn ra quá trình dẫn vốn từ người dư thừa về vốn tới người cần vốn.
Trong quá trình vận động của thị trường tài chính còn có sự tham gia của các chủ thể giám sát thị trường với mục tiêu hoạt động là tạo dựng thị trường hoạt động minh bạch, có hiệu quả, hạn chế thấp nhất rủi ro hoạt động của thị trường tài chính, duy trì sự ổn định, an toàn cho thị trường và thúc đẩy thị trường tài chính phát triển.
1.2.2. Phân loại thị trường tài chính.
Thị trường tài chính rất đa dạng và phong phú, mỗi loại thị trường tài chính được hình thành và phát triển với các chức năng yêu cầu và mục đích khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội ở mỗi quốc gia khác nhau, vào các công cụ tài chính và các phương thức giao dịch, các đối tượng tham gia thị trường.
1.2.2.1. Căn cứ vào trình tự phát hành, giao dịch và cơ cấu của thị trường: thị trường tài chính được phân chia thành thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp.
1.2.2.2. Căn cứ vào tính chất chuyên môn hoá của thị trường: thị trường tài chính được phân chia thành thị trường công cụ nợ và thị trường công cụ vốn, thị trường công cụ phái sinh
1.2.2.3. Căn cứ vào thời hạn của công cụ tài chính: thị trường tài chính được phân chia thành thị trường tiền tệ và ngân hàng và thị trường vốn.
1.2.2.4. Phân chia thị trường tài chính theo các chủ thể tham gia thị trường, thì thị trường tài chính bao gồm:
+ Thị trường vay và cho vay của chính phủ;
+ Thị trường vay và cho vay của các trung gian tài chính;
+ Thị trường vay và cho vay của các doanh nghiệp;
+ Thị trường vay và cho vay của các cá nhân;
1.2.2.5. Căn cứ vào đặc điểm hoạt động của thị trường
Thị trường tài chính được phân chia thành thị trường tiền tệ và ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm. Đây là phương pháp phân chia phù hợp với trọng tâm nghiên cứu của Đề tài luận án Tiến sĩ.
+ Thị trường tiền tệ và ngân hàng là nơi giao dịch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn về vốn. Thị trường tiền tệ và ngân hàng bao gồm:
- Thị trường huy động vốn và cho vay của tổ chức tín dụng đối với tổ chức kinh tế, dân cư, các tổ chức, các cá nhân khác (thường gọi là thị trường một).
- Thị trường vay và cho vay lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng (thường gọi là thị trường hai);
- Thị trường vay, mua, bán giữa ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng (thường gọi là thị trường ba).
+ Thị trường chứng khoán là thị trường mà ở đó diễn ra các hoạt động giao dịch và mua bán chứng khoán. Xét về mặt bản chất thì thị trường chứng khoán là nơi phân phối lại các nguồn vốn từ chủ thể dư thừa vốn với các chủ thể có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế thị trường tập trung, thị trường phi tập trung.
+ Thị trường bảo hiểm là thị trường diễn ra quá trình mua, bán các sản phẩm bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm bao gồm thị trường bảo hiểm nhân thọ và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.
1.2.3. Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành thị trường tài chính.
Các thị trường cấu thành thị trường tài chính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhất là hai thị trường chủ yếu của thị trường tài chính là thị trường tiền tệ và ngân hàng, thị trường chứng khoán.
Thị trường tiền tệ và ngân hàng ngày càng thống nhất với thị trường vốn trong hoạt động của thị trường tài chính quốc gia, ngày càng mang tính toàn cầu. Những biến động trong nền kinh tế sẽ ảnh hưởng đến thị trường này sau đó sẽ tác động ngay đến thị trường khác.
Ngày nay, theo phát triển của kinh tế toàn cầu, hoạt động thị trường tài chính ngày càng tinh vi, phức tạp, các loại công cụ tài chính có quan hệ chặt chẽ với nhau, các thị trường hoạt động quan hệ qua lại tác động trực tiếp lẫn nhau, ranh giới phân chia các loại thị trường chỉ mang tính tương đối, các công cụ tài chính được lưu thông đan xen giữa các thị trường, chuyển hoá lẫn nhau.
Thị trường tài chính là đối tượng trực tiếp chịu tác động của chính sách tài chính, chính sách tiền tệ nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tế.
1.2.4. Công cụ của thị trường tài chính.
+ Các chứng khoán nợ bao gồm các loại trái phiếu, tín phiếu, thương phiếu và các khoản phải thu khác.
+ Chứng khoán vốn thường được gọi là cổ phiếu, tương đương cho những cổ phần sở hữu trong một doanh nghiệp.
1.3. An ninh tài chính đối với hoạt động của thị trường tài chính.
An ninh tài chính của thị trường tài chính là an ninh tài chính cho các thị trường cấu thành của thị trường tài chính như: thị trường tiền tệ và ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm.
Đó là tính ổn định, tính an toàn, tính phát triển và khả năng chống đỡ khủng hoảng của thị trường tiền tệ và ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm. Ngoài ra các nhân tố tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính đó là ảnh hưởng của nợ công, đáp ứng các tiêu chuẩn về phòng, chống rửa tiền của các quốc gia, của các tổ chức tài chính.
1.3.1. An ninh tài chính cho hoạt động của thị trường tiền tệ và ngân hàng.
1.3.1.1.Khái niệm về an ninh tài chính cho thị trường tiền tệ và ngân hàng
+ Đảm bảo an ninh tài chính cho hoạt động của thị trường tiền tệ và ngân hàng chính là bảo đảm an ninh tài chính cho hoạt động của ba loại thị trường:
* Thị trường huy động vốn và cho vay của tổ chức tín dụng với các cá nhân, tổ chức kinh tế, các tổ chức khác (thị trường một).
* Thị trường vay và cho vay lẫn nhau giữa các tổ chức tín dụng (thị trường hai).
* Thị trường cho vay và mua, bán giữa ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng (gọi là thị trường ba).
An ninh tài chính cho hoạt động của thị trường tiền tệ và ngân hàng là một khái niệm cơ bản chỉ một trạng thái ổn định, an toàn, phát triển và không bị khủng hoảng trong hoạt động của thị trường tiền tệ và ngân hàng.
1.3.1.2. Nhân tố ảnh hưởng và các chỉ tiêu của an ninh tài chính cho hoạt động thị trường tiền tệ và ngân hàng
a. Nhân tố ảnh hưởng
a1. Ổn định hoạt động thị trường tiền tệ và ngân hàng.
*) Ổn định hoạt động thị trường một
+ Ổn định nguồn vốn;
+ Ổn định sử dụng vốn;
*) Ổn định hoạt động của thị trường hai
*) Ổn định hoạt động thị trường ba
a2. An toàn hoạt động thị trường tiền tệ và ngân hàng
*) An toàn hoạt động thị trường một
+ Có nhiều yếu tố đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, trong đó các yếu tố chủ yếu đòi hỏi các tổ chức tín dụng luôn luôn phải đáp ứng, như:
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu;
Các giới hạn về tín dụng;
Tỷ lệ khả năng chi trả;
Các giới hạn góp vốn, mua cổ phần;
Các tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động.
Ngoài ra với đòi hỏi sự phát triển của các quốc gia, và qua các thời kỳ, các quy định về an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng có thể được bổ sung hoặc thay đổi theo chiều hướng ngày càng tăng cao.
*) An toàn hoạt động thị trường hai
Để đảm bảo hoạt động của thị trường này trong cạnh tranh là xác định tính thanh khoản của thị trường, điều kiện vay và trả nợ vay trong chính sách an toàn của hệ thống, đảm bảo các ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng phải có sự kiểm soát và điều tiết của ngân hàng trung ương.
*) An toàn hoạt động thị trường ba
Đây là hoạt động mua, bán cho vay giữa ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng. Cũng như tính ổn định của thị trường này, tính an toàn với nghĩa rộng là tạo ra tính an toàn cho chính sách ổn định giá trị đồng tiền, an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng, không phải đơn thuần là an toàn (thu đủ tiền, khi bán giấy tờ có giá hay thu đủ gốc và lãi khi cho vay…).
a3. Phát triển hoạt động của thị trường tiền tệ và ngân hàng
*) Phát triển hoạt động của thị trường một
*) Phát triển hoạt động thị trường hai
*) Phát triển hoạt động thị trường ba
a4. Tăng cường khả năng ngăn chặn khủng hoảng cho thị trường tiền tệ và ngân hàng
Khủng hoảng là giới hạn cuối cùng của sự mất an ninh cho thị trường tiền tệ và ngân hàng. Thị trường tiền tệ và ngân hàng mang tính hệ thống và tính ảnh hưởng qua lại rất cao
Như vậy, thị trường một là thị trường có vai trò rất quan trọng cho tính an toàn, ổn định và phát triển của thị trường tiền tệ và ngân hàng.
Tóm lại: an ninh tài chính cho hoạt động của thị trường tiền tệ và ngân hàng là một trạng thái ổn định, an toàn, phát triển và tránh không bị khủng hoảng của thị trường tiền tệ và ngân hàng.
b. Các chỉ tiêu phản ánh an ninh tài chính cho thị trường tiền tệ và ngân hàng
b1. An toàn vốn tối thiểu
Đối với tổ chức tín dụng hoạt động quốc tế các quy trình này ít nhất không được thấp hơn mức yêu cầu tương ứng về vốn do ủy ban Basel quy định (hiện tại không được nhỏ hơn 8%).
Tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ và rủi ro hợp nhất là tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất luôn ≥8% (Theo quy định của Ủy ban Basel). Để đảm bảo an ninh tài chính, hấu hết các quốc gia đều quy định mức tối thiểu luôn lớn hơn 9%. Theo quan điểm của Nghiên cứu sinh, tỷ lệ này phải luôn lớn hơn 10% cho từng tổ chức tín dụng và toàn hệ thống tổ chức tín dụng.
b2. Giới hạn tín dụng đảm bảo an ninh tài chính
+ Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 10% vốn tự có của tổ chức tín dụng (giới hạn an toàn không được vượt quá 15% - thông lệ nhiều nước).
+ Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng theo quan điểm của Nghiên cứu sinh không vượt quá 20% vốn tự có của tổ chức tín dụng (giới hạn an toàn là 25% - theo thông lệ của nhiều nước).
+ Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng theo quan điểm của Nghiên cứu sinh không được vượt quá 45% vốn tự có của tổ chức tín dụng (thông lệ của nhiều nước mức giới hạn an toàn là 50%).
+ Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có liên quan theo quan điểm của Nghiên cứu sinh không được quá 55% vố tự có của tổ chức tín dụng (thông lệ của nhiều nước, mức giới hạn an toàn là 60%).
b3. Tỷ lệ về khả năng chi trả đảm bảo an ninh tài chính
+ Tỷ lệ tối thiểu theo quan điểm của Nghiên cứu sinh là 20% giữa tổng tài sản “có” thanh toán ngay và tổng Nợ phải trả (thông lệ của nhiều nước tỷ lệ an toàn là tối thiểu 15%).
+ Tỷ lệ tối thiểu bằng 1,5 giữa tổng tài sản “có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp từ ngày hôm sau và tổng tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau (theo quan điểm của Nghiên cứu sinh). Tỷ lệ này đối với mức an toàn, thông lệ của nhiều nước là 1.
b4. Giới hạn góp vốn, mua cổ phần
+ Mức góp vốn mua cổ phần của tổ chức tín dụng trong một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác không vượt quá 8% (theo quan điểm của Nghiên cứu sinh). Chỉ số an toàn là không vượt quá 11% theo thông lệ.
+ Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng và các công ty con, công ty liên doanh, công ty liên kết của tổ chức tín dụng trong cùng một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, tổ chức tín dụng khác không vượt quá 8% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư tổ chức tín dụng khác (theo quan điểm của Nghiên cứu sinh). Tỷ lệ an toàn là 11% theo thông lệ.
+ Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng trong tất cả các công ty trực thuộc tối đa không quá 20% vốn điều lệ và quỹ dự trữ (theo quan điểm của Nghiên cứu sinh). Theo thông lệ an toàn là 25%.
b5. Tỷ lệ cấp tín dụng trong tổng nguồn vốn huy động
+ Đối với các Ngân hàng chỉ được sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng và sau khi cấp tín dụng đều đảm bảo khả năng chi trả và các tỷ lệ đảm bảo an toàn không được vượt quá 80% cho từng ngân hàng và cho bình quân của hệ thống ngân hàng thương mại.
+ Đối với các tổ chức tài chính phi ngân hàng không quá 85% cho từng tổ chức tài chính phi ngân hàng và cho bình quân cả hệ thống, tổ chức tài chính phi ngân hàng.
b6. Tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ tín dụng
Tỷ lệ này luôn luôn phải nhỏ hơn 5% trong mọi thời điểm đối với từng tổ