Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất
nước, kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã
hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an
toàn xã hội [139]. Tây Nguyên là một trong những vùng ưu tiên phát triển bền
vững nhằm tạo ra sự cân đối, từng bước thu hẹp khoảng cách về xã hội và tiến
tới giảm bớt sự chênh lệch về kinh tế giữa các địa phương, vùng miền.
Tây Nguyên gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm
Đồng, có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và
an ninh - quốc phòng của Việt Nam. Ở Tây Nguyên có 54 dân tộc, khoảng 5,3
triệu người, trong đó người dân tộc thiểu số chiếm 36,85%, trong đó đồng bào
dân tộc tại chỗ chiếm 25,52% [2]. Bên cạnh tín ngưỡng đa thần, Tây Nguyên có
4 tôn giáo chính: Công giáo, Phật giáo, Tin lành, Cao đài và một số tôn giáo
khác, với số lượng tín đồ đến năm 2014 là 2,04 triệu, chiếm 36% dân số [2].
Công giáo truyền lên Tây Nguyên từ năm 1848, với hơn 01 triệu tín đồ,
đông nhất trong số các tôn giáo hiện nay ở Tây Nguyên, trong đó gần một nửa
triệu tín đồ là người dân tộc thiểu số. Hoạt động truyền giáo vào vùng dân tộc
thiểu số đã, đang là chiến lược lâu dài của Giáo hội Công giáo. Trong quá trình
truyền giáo và phát triển, Công giáo đã trở thành nhân tố ảnh hưởng sâu rộng
đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa và an ninh - quốc phòng ở
Tây Nguyên. Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và những
nỗ lực của chính quyền địa phương, nhất là hệ thống chính quyền cơ sở vùng dân
tộc thiểu số trong phát triển kinh tế, xã hội bền vững ở Tây Nguyên nhằm nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân thì Công giáo đã góp phần: làm
chuyển biến đời sống tín đồ người dân tộc thiểu số, từ khép kín sang cởi mở, hòa
nhập; loại bỏ một số hủ tục lạc hậu ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế của người
dân, giữ gìn và phát triển văn hóa các dân tộc; thay đổi thói quen từ du canh, du
cư sang định canh, định cư, biết tổ chức cuộc sống hợp lý, bảo vệ môi trường,
đoàn kết cộng đồng và đảm bảo an ninh trong các giáo xứ, giáo họ; tích cực
trong các hoạt động từ thiện xã hội và hưởng ứng chủ trương xã hội hóa y tế,
giáo dục của Đảng và Nhà nước ở Tây Nguyên. Trong quá trình phát triển bền
vững đất nước Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát huy những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước [23],
do vậy, Công giáo ở Tây Nguyên cũng sẽ là nhân tố trong việc tham gia vào quá
trình phát triển bền vững khu vực.
197 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 583 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Ảnh hưởng của công giáo trong phát triển bền vững ở Tây nguyên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ LIÊN
¶NH H¦ëNG CñA C¤NG GI¸O TRONG PH¸T TRIÓN
BÒN V÷NG ë T¢Y NGUY£N HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 60 22 03 08
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. BÙI THỊ NGỌC LAN
2. PGS.TS. NGUYỄN HỒNG DƯƠNG
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Lê Thị Liên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 6
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 6
1.2. Giá trị tham khảo và vấn đề đặt ra luận án cần tập trung nghiên cứu 23
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA
CÔNG GIÁO TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở TÂY
NGUYÊN HIỆN NAY 27
2.1. Cơ sở lý luận về ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền
vững ở Tây Nguyên 27
2.2. Đặc điểm Công giáo ở Tây Nguyên và những yếu tố tác động đến
ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây
Nguyên hiện nay 58
Chương 3: THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO TRONG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 77
3.1. Thực trạng ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở
Tây Nguyên hiện nay 77
3.2. Những vấn đề đặt ra đối với ảnh hưởng của Công giáo trong phát
triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay 107
Chương 4: DỰ BÁO XU HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH
HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC
CỦA CÔNG GIÁO TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở
TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 118
4.1. Dự báo xu hướng ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền
vững ở Tây Nguyên 118
4.2. Những yêu cầu cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của Công giáo trong phát triển bền vững ở
Tây Nguyên hiện nay 123
4.3. Giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực
của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay 130
KẾT LUẬN 151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 154
PHỤ LỤC 172
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Đánh giá về sự khuyên bảo của chức sắc, tu sĩ đối với tín đồ 167
Bảng 3.2: Đánh giá về sự giúp đỡ của chức sắc, tu sĩ đối với tín đồ 167
Bảng 3.3: Đánh giá về lý do theo đạo của tín đồ 168
Bảng 3.4: Đánh giá về một số hoạt động kinh tế, xã hội của tín đồ ở
địa phương 168
Bảng 3.5: Đánh giá về đời sống của tín đồ ở địa phương 169
Bảng 3.6a: Đánh giá về việc tiếp cận các chủ trương, chính sách, pháp
luật về tôn giáo của tín đồ ở địa phương 169
Bảng 3.6b: Đánh giá về việc tín đồ tham gia các tổ chức chính trị, xã
hội ở địa phương 169
Bảng 3.7: Tín đồ tham gia các sinh hoạt động ở địa phương 170
Bảng 3.8: Đánh giá về việc tín đồ tham gia các hoạt động văn hóa, xã
hội do chính quyền địa phương tổ chức 170
Bảng 3.9: Đánh giá về mức độ tham gia các sinh hoạt tôn giáo của tín
đồ hiện nay 171
Bảng 3.10: Đánh giá những nguyên nhân cản trở người Công giáo
trong phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương 171
Bảng 3.11: Biến động cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tôn
giáo cấp tỉnh các tỉnh Tây Nguyên 172
Bảng 3.12: Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã các tỉnh Tây Nguyên
tính đến tháng 9/2014 172
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất
nước, kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã
hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an
toàn xã hội [139]. Tây Nguyên là một trong những vùng ưu tiên phát triển bền
vững nhằm tạo ra sự cân đối, từng bước thu hẹp khoảng cách về xã hội và tiến
tới giảm bớt sự chênh lệch về kinh tế giữa các địa phương, vùng miền.
Tây Nguyên gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm
Đồng, có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và
an ninh - quốc phòng của Việt Nam. Ở Tây Nguyên có 54 dân tộc, khoảng 5,3
triệu người, trong đó người dân tộc thiểu số chiếm 36,85%, trong đó đồng bào
dân tộc tại chỗ chiếm 25,52% [2]. Bên cạnh tín ngưỡng đa thần, Tây Nguyên có
4 tôn giáo chính: Công giáo, Phật giáo, Tin lành, Cao đài và một số tôn giáo
khác, với số lượng tín đồ đến năm 2014 là 2,04 triệu, chiếm 36% dân số [2].
Công giáo truyền lên Tây Nguyên từ năm 1848, với hơn 01 triệu tín đồ,
đông nhất trong số các tôn giáo hiện nay ở Tây Nguyên, trong đó gần một nửa
triệu tín đồ là người dân tộc thiểu số. Hoạt động truyền giáo vào vùng dân tộc
thiểu số đã, đang là chiến lược lâu dài của Giáo hội Công giáo. Trong quá trình
truyền giáo và phát triển, Công giáo đã trở thành nhân tố ảnh hưởng sâu rộng
đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa và an ninh - quốc phòng ở
Tây Nguyên. Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và những
nỗ lực của chính quyền địa phương, nhất là hệ thống chính quyền cơ sở vùng dân
tộc thiểu số trong phát triển kinh tế, xã hội bền vững ở Tây Nguyên nhằm nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân thì Công giáo đã góp phần: làm
chuyển biến đời sống tín đồ người dân tộc thiểu số, từ khép kín sang cởi mở, hòa
nhập; loại bỏ một số hủ tục lạc hậu ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế của người
dân, giữ gìn và phát triển văn hóa các dân tộc; thay đổi thói quen từ du canh, du
cư sang định canh, định cư, biết tổ chức cuộc sống hợp lý, bảo vệ môi trường,
đoàn kết cộng đồng và đảm bảo an ninh trong các giáo xứ, giáo họ; tích cực
trong các hoạt động từ thiện xã hội và hưởng ứng chủ trương xã hội hóa y tế,
2
giáo dục của Đảng và Nhà nước ở Tây Nguyên. Trong quá trình phát triển bền
vững đất nước Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát huy những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước [23],
do vậy, Công giáo ở Tây Nguyên cũng sẽ là nhân tố trong việc tham gia vào quá
trình phát triển bền vững khu vực.
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Công giáo khi truyền vào Tây Nguyên
cũng có ảnh hưởng tiêu cực. Là tôn giáo nhất thần, Công giáo đã gây ra xung đột
văn hóa với truyền thống đa thần và từng bước Công giáo hóa văn hóa, tín
ngưỡng một số dân tộc thiểu số theo đạo. Quan niệm trong sinh sản của Công
giáo không giới hạn số con đã mâu thuẫn và làm cho việc thực hiện chính sách
dân số của Đảng và Nhà nước trong vùng Công giáo gặp khó khăn. Trong lịch sử
truyền giáo ở Việt Nam, dưới thời thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược Công
giáo đã bị lợi dụng để can thiệp vào Việt Nam. Điều này một mặt để lại những
hệ lụy tiêu cực trong quan hệ giữa Công giáo và chính quyền cũng như người
dân không theo Công giáo, mặt khác tạo cớ để các phần tử cực đoan tiếp tục lợi
dụng Công giáo vào hoạt động chống phá gây bất ổn ở Tây Nguyên.
Bên cạnh đó, Tây Nguyên còn nhiều khó khăn, khoảng cách giàu - nghèo
còn cao, trình độ dân trí thấp, bản sắc văn hóa đang có xu hướng mai một, an
ninh - quốc phòng còn nhiều bất ổn, những hạn chế trong quản lý xã hội, quản lý
hoạt động tôn giáo chưa tốt khiến cho không ít tín đồ, chức sắc Công giáo mất
niềm tin vào Đảng, Nhà nước. Những bất cập trên nếu không được nghiên cứu
và có giải pháp giải quyết thỏa đáng, thì những giá trị và ảnh hưởng tích cực của
Công giáo sẽ khó được phát huy, mặc khác những mặt tiêu cực của Công giáo sẽ
là nhân tố tiềm ẩn những bất ổn, ảnh hưởng trực tiếp đến đồng thuận xã hội trong
phát triển bền vững ở Tây Nguyên. Với những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề
"Ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện
nay" làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.2. Mục đích
Trên cơ sở những vấn đề lý luận, kế thừa các công trình nghiên cứu trước
đó, luận án làm rõ thực trạng ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền
3
vững, luận án đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về ảnh hưởng của Công giáo trong phát
triển bền vững ở Tây Nguyên và những yếu tố tác động đến ảnh hưởng của Công
giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay.
- Phân tích thực trạng ảnh hưởng và những vấn đề đặt ra của Công giáo
trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay.
- Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực,
hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây
Nguyên hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là vấn đề lý luận và thực tiễn về
ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: thế giới và Việt Nam đều thống nhất đánh giá về phát triển
bền vững trên 3 tiêu chí: kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, từ tính đặc
thù địa - chính trị - văn hóa ở Tây Nguyên, nên nghiên cứu về ảnh hưởng của
Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên, luận án thấy cần thiết tách
lĩnh vực văn hóa và an ninh - quốc phòng trong tiêu chí xã hội thành những tiêu
chí riêng để phân tích làm sáng tỏ vấn đề, bởi: Công giáo là vấn đề thuộc về tâm
linh, là yếu tố cấu thành văn hóa, ảnh hưởng của Công giáo trên các lĩnh vực chủ
yếu là niềm tin tôn giáo, Tây Nguyên là không gian văn hóa đặc thù của các dân
tộc thiểu số, quá trình truyền giáo Công giáo có những tiếp biến và ảnh hưởng
trực tiếp đến văn hóa các tộc người nơi đây; Tây Nguyên là khu vực có vị trí
chiến lược về an ninh - quốc phòng, biên giới lãnh thổ tiếp giáp với nhiều nước,
là hành lang mà bọn phản động, cực đoan liên tục hoạt động chống phá để thực
hiện ý đồ tách Tây Nguyên khỏi Việt Nam. Trong chiến lược này, chúng sử dụng
tôn giáo như một phần của kế hoạch "diễn biến hòa bình tại Tây Nguyên". Với
4
những lý do đó, luận án nghiên cứu về ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển
bền vững ở Tây Nguyên trên 5 tiêu chí: kinh tế; chính trị, xã hội; văn hóa; môi
trường, an ninh - quốc phòng.
- Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của Công giáo trên
địa bàn 3 tỉnh: Kon Tum, Đắk Lắk và Lâm Đồng, vì đây là 3 tỉnh có đông tín đồ
Công giáo và là nơi đặt trụ sở 3 Tòa Giám mục của Công giáo.
- Về thời gian: từ khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ban hành
Nghị quyết số 25, ngày 12/3/2003 về công tác tôn giáo trong tình hình mới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp phân tích, tổng
hợp, tổng kết thực tiễn và một số phương pháp liên ngành, cụ thể:
Luận án sử dụng phương pháp thống kê, điều tra xã hội học, so sánh: thu
thập, thống kê số liệu thực tiễn về các nội dung nghiên cứu. Đồng thời luận án tổ
chức điều tra xã hội học với 3 mẫu phiếu ở 3 tỉnh Kon Tum, Đắk Lắk và Lâm Đồng
với số lượng phiếu thu về là 399 phiếu cho 3 đối tượng cụ thể: 159 phiếu dành cho
cán bộ làm công tác tôn giáo thuộc các ngành: tôn giáo, dân vận, công an, Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, dân tộc [Phụ lục 1.1]; 132 phiếu dành cho tín
đồ Công giáo [Phụ lục 1.2]; 108 phiếu dành cho chức sắc, tu sĩ Công giáo [Phụ lục
1.3]. Từ kết quả thu thập, tổng hợp, luận án phân tích các vấn đề cần nghiên cứu,
làm rõ tính đặc thù về ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây
Nguyên và đưa ra những đánh giá, nhận định, kết luận có cơ sở khoa học.
Luận án sử dụng phương pháp chuyên gia, tọa đàm khoa học:
Tọa đàm, trao đổi với các giám mục, linh mục, tu sĩ ở 3 giáo phận: Kon Tum,
Ban Mê Thuột và Đà Lạt để làm rõ hơn vấn đề cần nghiên cứu. Trao đổi với cán bộ
làm công tác tôn giáo các tỉnh: Kon Tum, Đắk Lắk, Gia Lai, Lâm Đồng, Ban Chỉ
đạo Tây Nguyên về ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển ở địa phương.
5. Những đóng góp mới của luận án
Một là, luận án làm rõ các tiêu chí đánh giá ảnh hưởng của Công giáo trong
phát triển bền vững trên 05 tiêu chí: kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường và an
ninh - quốc phòng.
5
Hai là, luận án làm rõ đặc điểm và ảnh hưởng của Công giáo trong phát
triển bền vững ở Tây Nguyên; đề xuất các yêu cầu, giải pháp nhằm phát huy ảnh
hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Công giáo trong phát triển bền
vững ở Tây Nguyên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Những kết quả của luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học để các bộ,
ngành và cán bộ, đảng viên nhận thức khách quan về vai trò, ảnh hưởng của
Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên. Góp phần cung cấp thêm
luận cứ khoa học cho việc đề xuất chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan
đến Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu giảng dạy chuyên ngành Chủ nghĩa Xã hội khoa học, chuyên
ngành Tôn giáo học và là tài liệu phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về
Công giáo.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Những nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án của tác giả nước ngoài
- Francis, LAUDATO SI’ of the Holy Father Francis on care for our
common home (Thông điệp về việc chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta) [58].
Cuốn sách là Thông điệp của người đứng đầu Giáo hội Công giáo thế giới về
việc bảo vệ môi trường. Việc quan tâm đến bảo vệ môi trường là một trong
những hoạt động quan trọng của Tòa thánh Vatican trong nhiều thập kỷ qua. Từ
thời Giáo hoàng Phaolo VI đã ban hành Tông thư "Bát thập niên" năm 1967 kêu
gọi tín đồ trên toàn thế giới có trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường tự
nhiên. Các Giáo hội châu Á, trong đó có Việt Nam, năm 2011 đã ra lời kêu gọi
một lối sống mới, một nền văn hóa mới tôn trọng thiên nhiên. Quan điểm của
Giáo hội cho rằng tài nguyên thiên nhiên không phải là nguồn nguyên liệu vô
hạn, thậm chí có một số tài nguyên không thể tái tạo được, do đó không thể khai
thác thiên nhiên một cách thái quá, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn dự
trữ tài nguyên cho thế hệ hiện tại cũng như tương lai. Tiếp nối quan điểm đó,
Giáo hoàng Phanxicô thúc đẩy vấn đề bảo vệ môi trường không chỉ bằng những
lời kêu gọi, thuyết giảng ở các diễn đàn lớn mà còn được đúc kết thành Thông
điệp về Bảo vệ môi trường "Laudato Si’" ban hành ngày 17/6/2015 tại Vatican.
Đây được xem như một văn kiện quan trọng của Giáo hội mà toàn thể các tín đồ
có nghĩa vụ phải thực hiện. Đây không chỉ là tiếp nối hành trình bảo vệ môi
trường của các Giáo hoàng trước, mà còn là chủ trương, thể hiện trách nhiệm của
Giáo hội đối với vấn đề môi trường trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Thông điệp gồm 6 chương với 246 đoạn, đề cập đến các khía cạnh khác
nhau của cuộc khủng hoảng môi trường hiện nay. Từ đó tác giả kêu gọi mọi
người hãy hành động vì môi trường trên tinh thần đối thoại và đề ra các giải
pháp để bảo vệ môi trường sống và xem đó như "một hành trình giáo dục", mà
khởi đầu là trường học, gia đình và các phương tiện truyền thông.
7
- Francis, Esortazione Apostolica Amoris Laetitia, Tông Huấn hậu thượng
hội đồng về "Tình Yêu trong Gia Đình" của Giáo hoàng Phanxicô [59]. Tông
huấn là tổng hợp kết quả của hai Thượng Hội Đồng về gia đình được Giáo hội đề
ra năm 2014 và 2015. Tông huấn gồm 9 chương và 325 đoạn tổng hợp, trích dẫn
những báo cáo cuối cùng của thượng hội đồng, các văn kiện, giáo huấn của các
Giáo hoàng trước đó và nhiều bài giáo lý về gia đình của chính Giáo hoàng
Phanxicô. Dựa trên nền tảng Kinh thánh, hôn nhân trong Công giáo chỉ được
tiến hành trên cơ sở tự do, tự nguyện, đủ tuổi để yêu thương nhau trọn đời và
cùng nhau sinh con. Tuy nhiên, trong xu thế hiện nay tình trạng hôn nhân gia
đình đang đứng trước nhiều thách thức do các yếu tố tác động từ bên ngoài
như: tình trạng di dân, lựa chọn giới tính khi sinh, sử dụng các biện pháp tránh
thai ngoài tự nhiên để hạn chế việc sinh nhiều con Trước tình hình đó, Giáo
hoàng kêu gọi tín đồ cần thiết phải củng cố gia đình trên nền tảng hôn nhân
Công giáo để hạn chế tình trạng ly hôn, vì điều này sẽ gây hậu quả xấu cho các
thành viên trong gia đình. Giáo hoàng kêu gọi tín đồ quan tâm đến gia đình
người khuyết tật và đề cao đạo đức gia đình trong việc tôn trọng và noi gương
người già.
Giáo hoàng nhấn mạnh sự cần thiết phải dành thời gian cho việc chuẩn bị
tâm lý và kiến thức, đạo đức nền tảng về gia đình cho tín đồ trước khi kết hôn.
Do vậy, trách nhiệm của Giáo hội là phải trang bị cho tín đồ những giáo lý về
hôn nhân gia đình và phải đồng hành với các gia đình trẻ trong những năm đầu
kết hôn, giáo dục tín đồ về việc làm cha mẹ có trách nhiệm và cách thức để vượt
qua những khủng hoảng, phức tạp trong cuộc sống gia đình nhằm xây dựng gia
đình bền vững.
- Gaudium et Spes 1965 (Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày
nay) [27]. Đây là một trong những văn kiện của Công đồng Vatican II (1962 -
1965), được ban hành ngày 7/12/1962. Hiến chế được gọi là Mục vụ vì dựa trên
nguyên tắc giáo lý để trình bày thái độ của Giáo hội Công giáo với thế giới và
con người ngày nay. Hiến chế đề cập đến nguyên tắc của Giáo hội đối với đời
sống kinh tế, xã hội, đồng thời chỉ ra một số giải pháp trong phát triển kinh tế
như: phát triển kinh tế để phục vụ con người, phát triển kinh tế dưới sự kiểm soát
8
của con người, phải chấm dứt tình trạng bất bình đẳng quá lớn trên bình diện
kinh tế, xã hội. Hiến chế cũng bàn đến các vấn đề khác trong phát triển kinh tế,
xã hội như: việc làm, điều kiện lao động và giải trí; tổ chức kinh tế thế giới,
tranh chấp lao động, vấn đề đầu tư và tiền tệ, sở hữu và quyền tư hữu.
- P. Dourisboure, Dân Làng Hồ [33]. Đây là cuốn hồi ký của một linh mục
người Pháp, ghi lại quá trình truyền giáo thời kỳ đầu ở Kon Tum của các linh
mục nước ngoài (thừa sai Công giáo) khi đến Tây Nguyên. Cuốn sách tái hiện
đời sống của các dân tộc Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng xưa. Cuộc sống của họ được
bao bọc bởi rừng, sống chết với rừng và những huyền thoại về rừng với nhiều
phong tục, kiêng cữ, tạo nên tính cấu kết cộng đồng bền chặt. Đây cũng chính là
những cản trở, thách thức mà các thừa sai Công giáo khi đến đây phải đối diện.
Tác giả đã tái diễn lại những nỗ lực, sự kiên trì của các thừa sai trước những
thách thức từ con người, thiên nhiên, ngôn ngữ và phong tục tập quán của người
dân Tây Nguyên để thành lập được các trung tâm truyền giáo thu hút người dân
theo đạo, đặt nền tảng cho việc truyền giáo vào Tây Nguyên trong những giai
đoạn sau này.
- Libereria Editrice Vaticana Compendium of the Social Doctrine of the
Church (Tóm lược học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo) [74]. Học thuyết
xã hội của Giáo hội Công giáo là cuốn sách tổng hợp giáo lý Công giáo để giải
thích các vấn đề xã hội một cách hệ thống, trên cơ sở hàng nghìn bản văn về:
Kinh thánh, hiến chế, tông thư, tông huấn, thông điệp của Giáo hội và các Giáo
hoàng. Trên cơ sở lý luận của Giáo hội về thần học, triết học, luân lý học, văn
hóa và mục vụ, từng vấn đề cụ thể của xã hội được luận giải trong 12 chương
của Học thuyết với 1232 chú thích cho thấy một cái nhìn tổng lược của toàn bộ
giáo huấn Công giáo về xã hội.
Học thuyết này được coi như phương tiện quan trọng thể hiện trách nhiệm
của Giáo hội trong xã hội hiện nay, là phương thức thể hiện quan hệ giữa Công
giáo với Nhà nước, đồng thời tác động đến nhận thức của tín đồ về đời sống của
họ trước các vấn đề xã hội.
- Jacques Dournes, POTAO (Một lý thuyết về quyền lực ở Jorai Đông
Dương) [32]. Đây là