Luận án Ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của chính sách tiền tệ lên các yếu tố kinh tế vĩ mô

1.1 Giới thiệu Cùng với chính sách tài khóa, CSTT giữ một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm (Cochrane, 1998; Mishkin, 2002; Berument & Dincer, 2008). Một sự thay đổi trong lãi suất điều hành của NHTW sẽ có tác động đến lãi suất thương mại ngắn hạn, dài hạn của hệ thống ngân hàng, và tác động lên các hoạt động kinh tế. Chẳng hạn, khi lãi suất thương mại ngắn hạn và dài hạn giảm xuống, các hộ gia đình sẽ sẵn sàng hơn trong việc tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ, các doanh nghiệp sẽ ở vào vị thế sẵn sàng hơn để thực hiện việc đầu tư nhằm mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, các doanh nghiệp cũng sẽ gia tăng việc thuê mướn nhân công và thúc đẩy sản xuất. Kết quả thông thường là thất nghiệp sẽ giảm đi, tài sản của các gia đình sẽ gia tăng, và kinh tế sẽ tăng trưởng. Bên cạnh đó, CSTT cũng có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát (Chowdhury và cộng sự, 1995; Kahn và cộng sự, 2002; Bhuiyan & Lucas, 2007; Berument & Dincer, 2008). Khi lãi suất giảm, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ gia tăng có xu hướng thúc đẩy tiền lương và các chi phí khác tăng theo, bởi nhu cầu cao hơn đối lao động và nguyên liệu, máy móc cần thiết cho sản xuất. Hơn nữa, diễn biến của CSTT sẽ tạo ra kỳ vọng về cách thức và kết quả mà nền kinh tế sẽ vận hành trong tương lai, trong đó có kỳ vọng về giá cả và tiền lương, và những kỳ vọng này sẽ tác động trực tiếp lên lạm phát hiện tại. Những phân tích trên về vai trò của CSTT đối với thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết việc làm cũng như tác động đến lạm phát chỉ mới xem xét trong điều kiện của một nền kinh tế đóng. Trong một nền kinh tế mở, mọi thứ không chỉ dừng lại ở đó. CSTT thắt chặt đi kèm với sự gia tăng lãi suất trong nước không chỉ tác động đến các nhân tố nội địa mà còn cả những yếu tố ở bên ngoài biên giới quốc gia (Romer, 1993; Rogoff, 2003; Woodford, 2007; Mishkin, 2009). Sự gia tăng này có thể đem lại cho các nhà đầu tư2 nước ngoài một tỷ lệ lợi nhuận cao hơn khi đầu tư vào các tài sản trong nước. Điều đó có nghĩa là những tài sản nội địa (theo đồng nội tệ) sẽ hấp dẫn hơn, do đó mà cán cân vốn sẽ biến động. Kết quả là đồng nội tệ có thể tăng giá, làm giảm giá của hàng nhập khẩu và tăng giá của hàng xuất khẩu, ảnh hưởng đến cán cân thương mại nói riêng và cán cân thanh toán nói chung.

pdf145 trang | Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 944 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của chính sách tiền tệ lên các yếu tố kinh tế vĩ mô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU 1.1 Giới thiệu Cùng với chính sách tài khóa, CSTT giữ một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm (Cochrane, 1998; Mishkin, 2002; Berument & Dincer, 2008). Một sự thay đổi trong lãi suất điều hành của NHTW sẽ có tác động đến lãi suất thương mại ngắn hạn, dài hạn của hệ thống ngân hàng, và tác động lên các hoạt động kinh tế. Chẳng hạn, khi lãi suất thương mại ngắn hạn và dài hạn giảm xuống, các hộ gia đình sẽ sẵn sàng hơn trong việc tiêu dùng các hàng hóa và dịch vụ, các doanh nghiệp sẽ ở vào vị thế sẵn sàng hơn để thực hiện việc đầu tư nhằm mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó, các doanh nghiệp cũng sẽ gia tăng việc thuê mướn nhân công và thúc đẩy sản xuất. Kết quả thông thường là thất nghiệp sẽ giảm đi, tài sản của các gia đình sẽ gia tăng, và kinh tế sẽ tăng trưởng. Bên cạnh đó, CSTT cũng có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát (Chowdhury và cộng sự, 1995; Kahn và cộng sự, 2002; Bhuiyan & Lucas, 2007; Berument & Dincer, 2008). Khi lãi suất giảm, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ gia tăng có xu hướng thúc đẩy tiền lương và các chi phí khác tăng theo, bởi nhu cầu cao hơn đối lao động và nguyên liệu, máy móc cần thiết cho sản xuất. Hơn nữa, diễn biến của CSTT sẽ tạo ra kỳ vọng về cách thức và kết quả mà nền kinh tế sẽ vận hành trong tương lai, trong đó có kỳ vọng về giá cả và tiền lương, và những kỳ vọng này sẽ tác động trực tiếp lên lạm phát hiện tại. Những phân tích trên về vai trò của CSTT đối với thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết việc làm cũng như tác động đến lạm phát chỉ mới xem xét trong điều kiện của một nền kinh tế đóng. Trong một nền kinh tế mở, mọi thứ không chỉ dừng lại ở đó. CSTT thắt chặt đi kèm với sự gia tăng lãi suất trong nước không chỉ tác động đến các nhân tố nội địa mà còn cả những yếu tố ở bên ngoài biên giới quốc gia (Romer, 1993; Rogoff, 2003; Woodford, 2007; Mishkin, 2009). Sự gia tăng này có thể đem lại cho các nhà đầu tư 2 nước ngoài một tỷ lệ lợi nhuận cao hơn khi đầu tư vào các tài sản trong nước. Điều đó có nghĩa là những tài sản nội địa (theo đồng nội tệ) sẽ hấp dẫn hơn, do đó mà cán cân vốn sẽ biến động. Kết quả là đồng nội tệ có thể tăng giá, làm giảm giá của hàng nhập khẩu và tăng giá của hàng xuất khẩu, ảnh hưởng đến cán cân thương mại nói riêng và cán cân thanh toán nói chung. Đến lượt nó, việc giảm giá hàng nhập khẩu và tăng giá hàng xuất khẩu có thể kéo giảm đà tăng giá của hàng hóa và lạm phát trong nước. Việc gia tăng các nguồn vốn chảy vào có thể sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm. Nói cách khác, có thể độ mở nền kinh tế có vai trò trong tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô. Như vậy, các lý thuyết kinh tế đã thừa nhận độ mở của nền kinh tế có ảnh hưởng đến tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô. Về mặt thực nghiệm, trên thế giới cũng đã có những nghiên cứu đề cập đến tác động này. Các nghiên cứu của Karras (1999a, 1999b, 2001), Berument và Dogan (2003), Işık và cộng sự (2005), Işık và Acar (2006), Berument và cộng sự (2007) đã cho thấy vai trò của độ mở đối với tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và tỷ giá hối đoái, ở các quốc gia phát triển và cả đang phát triển. Tuy nhiên, có ít nhất hai vấn đề mà những nghiên cứu thực nghiệm được tìm thấy chưa thể trả lời thỏa đáng. Thứ nhất, CSTT không chỉ có tác động lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và tỷ giá hối đoái ở các quốc gia mà còn có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy việc làm, giảm thất nghiệp; duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính; cân bằng cán cân thanh toán quốc tế và nhiều tác động khác, theo Fry và cộng sự (2000), Mishkin (2004) hay Bordo (2007). Như vậy, độ mở nền kinh tế sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các tác động này (tức tác động lên thất nghiệp, cán cân thanh toán, sự ổn định của hệ thống tài chính và nhiều mục tiêu khác) của CSTT? 3 Thứ hai, ở các quốc gia chuyển đổi - đối tượng chưa có nghiên cứu nào thực hiện - thì có hay không sự ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô; nếu có thì sự tác động này diễn ra như thế nào, giống hay khác với tác động này ở các quốc gia phát triển hay đang phát triển khác. Trên cơ sở các nhận định đó, luận án “Ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của chính sách tiền tệ lên các yếu tố kinh tế vĩ mô” là sự bổ sung cần thiết vào các nghiên cứu mang tính thực nghiệm đó. Luận án này sẽ tiến hành đánh giá tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp ở các quốc gia chuyển đổi1, trong đó có Việt Nam dưới ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế. 1.2 Các nghiên cứu liên quan đến hướng nghiên cứu của luận án Tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô dường như là một đề tài hấp dẫn, bởi những nghiên cứu theo hướng này được thực hiện với số lượng lớn và thực sự đa dạng. Tuy nhiên, đánh giá ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động này vẫn còn một khoảng trống để các nghiên cứu thực nghiệm khác có thể thực hiện. Một trong những nghiên cứu về ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô được ghi nhận là Karras (1999a), đây có thể xem là nghiên cứu mở đường cho những nghiên cứu về sau theo hướng này. Trong nghiên cứu này, Karras (1999a) chọn mẫu số liệu gồm 38 quốc gia, cả phát triển và đang phát triển, sử dụng hai thước đo bao gồm tỷ lệ (XK+NK)/GDP và tỷ lệ NK/GDP để đại diện cho độ mở nền kinh tế. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ mở nền kinh tế càng lớn thì tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế càng yếu, nhưng tác động của CSTT lên lạm phát sẽ càng mạnh hơn. 1 Như đã trình bày, CSTT không chỉ tác động lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp, tại sao luận án chỉ đo lường ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên ba yếu tố này xin được làm rõ ở phần 1.6 chương 1 (Đối tượng và phạm vi nghiên cứu). 4 Cũng trong năm 1999, Karras tiếp tục công bố một nghiên cứu khác theo hướng này. Lần này Karras (1999b) sử dụng dữ liệu của 37 quốc gia, tiến hành đo lường ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên tỷ giá hối đoái. Tác giả rút ra kết luận rằng trong điều kiện độ mở nền kinh tế càng lớn, thì tác động của CSTT lên tỷ giá hối đoái càng yếu đi. Karras (2001) tiếp tục là một nghiên cứu về mối quan hệ giữa độ mở nền kinh tế và tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế. Mẫu nghiên cứu gồm 8 quốc gia (Úc, Canada, Đức, Italia, Nhật Bản, Nam Phi, Anh và Mỹ) trong giai đoạn quý 1/1960 đến quý 4/1993. Kết quả một lần nữa cho thấy độ mở của nền kinh tế càng lớn thì ảnh hưởng của CSTT lên tăng trưởng kinh tế càng nhỏ. Nghiên cứu này của Karras tiếp tục củng cố kết quả mà Karras (1999a) đã đạt được khi tiến hành với mẫu nghiên cứu khác. Sau các nghiên cứu của Karras2, các nghiên cứu tiếp theo của hướng này lặp lại các đo lường mà Karras (1999a, 1999b, 2001) đã thực hiện3, nhưng với các mẫu số liệu khác, trong những khoảng thời gian khác. Có thể kể ra như các nghiên cứu của Berument và Dogan (2003), Işık và cộng sự (2005), Işık và Acar (2006), Berument và cộng sự (2007) hay Coric và cộng sự (2012). Kết quả từ các nghiên cứu này có cả đồng nhất và không đồng nhất với các nghiên cứu mà Karras (1999a, 1999b, 2001) đã thực hiện. Có thể thấy rằng số lượng các nghiên cứu theo hướng này còn tương đối ít. Mặt khác, các nghiên cứu từ Việt Nam khi đánh giá tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô như Nguyễn Quỳnh Hoa (2008), Bùi Duy Phú (2009), Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2010), Hoàng Xuân Bình (2011), Nguyễn Khắc Quốc Bảo (2013), 2 Cho đến thời điểm các nghiên cứu của Karras (1999a, 1999b, 2001) được xuất bản thì tác giả chưa tìm thấy những nghiên cứu khác được công bố trước đó cùng chủ đề này. Trong bài nghiên cứu của mình, Karras (1999a, 1999b, 2001) cũng không cho thấy rằng có những nghiên cứu trước cùng chủ đề đã được công bố. 3 Cho đến thời điểm hoàn thành luận án này, tác giả chưa tìm thấy những nghiên cứu có hướng tiếp cận chủ đề này khác với cách tiếp cận của Karras (1999a, 1999b, 2001). Vì vậy, quan điểm cho rằng “các nghiên cứu tiếp theo của hướng này lặp lại các đo lường và Karras (1999a, 1999b, 2001) đã thực hiện” có thể thay đổi trong trường hợp tác giả tìm thấy những nghiên cứu có cách tiếp cận khác với cách tiếp cận của Karras (1999a, 1999b, 2001). 5 Nguyễn Thị Ngọc Trang và cộng sự (2013) đều chưa xem xét đến yếu tố độ mở kinh tế. 1.3 Khe hở nghiên cứu Về mặt lý thuyết, các nhà kinh tế vẫn còn nhiều tranh cãi về tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô, trong điều kiện không xem xét và có xem xét đến yếu tố độ mở của nền kinh tế4. Khi đề cập đến vai trò của CSTT, như nghiên cứu này sẽ chỉ ra, vẫn tồn tại ít nhất bốn trường phái lớn có những quan điểm khác nhau về vấn đề này (trường phái cổ điển, trường phái Keynes, trường phái các nhà kinh tế học tiền tệ và trường phái các nhà kinh tế học tân cổ điển)5. Trong điều kiện của nền kinh tế mở, hai luồng quan điểm trái ngược nhau của các nhà kinh tế về tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và các yếu tố kinh tế vĩ mô khác vẫn tồn tại song hành (Romer, 1993; Rogoff, 2003; Ball, 2006; IMF, 2006; Kohn, 2006; Yellen, 2006; Papademos, 2007; Woodford, 2007; Mishkin, 2009). Về mặt thực nghiệm, những nghiên cứu được tìm thấy đã xem xét những khía cạnh: (i) ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên lạm phát, tăng trưởng kinh tế; và (ii) ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên tỷ giá hối đoái. Ngoài các nghiên cứu của Karras (1999a, 1999b, 2001), các nghiên cứu tiếp theo dù sử dụng số liệu khác, trong những khoảng thời gian khác song chỉ kiểm định những mối quan hệ mà Karras (1999a, 1999b, 2001) đã thực hiện trước đó. Như vậy, mối quan hệ giữa độ mở nền kinh tế và tác động của CSTT lên thất nghiệp, cán cân thanh toán quốc tế và các yếu tố kinh tế vĩ mô khác vẫn chưa được xem xét. Đối với nghiên cứu về tác động của CSTT đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát dưới ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế, số lượng nghiên cứu ở phạm vi toàn cầu còn khá hạn chế. Hơn nữa, các nghiên cứu này được thực hiện đối với các quốc gia phát triển và 4 Các tranh luận này được trình bày chi tiết ở mục 2.2 và 2.3 chương 2. 5 Được trình bày chi tiết ở mục 2.2 chương 2. 6 đang phát triển mà chưa có nghiên cứu nào được thực hiện đối với các quốc gia chuyển đổi, vốn có những đặc thù so với các quốc gia khác không thuộc nhóm này. Bên cạnh đó, điều đáng quan tâm là các nghiên cứu thực nghiệm đã không đem lại một kết quả nhất quán, nghĩa là khó có thể sử dụng một nghiên cứu thực nghiệm nào đó để diễn giải cho một mẫu quan sát khác. Chẳng hạn, Berument và cộng sự (2007) đi đến kết luận rằng tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế và lạm phát ở các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có thể còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác mà tác giả chưa đề cập đến. Nghiên cứu đã không rút ra được kết luận mang tính tổng quát nào về các mối quan hệ này. Kết quả nghiên cứu đối với trường hợp Thổ Nhĩ Kỳ của Berument và Dogan (2003) cũng có phần không đồng nhất với kết quả nghiên cứu ban đầu của Karras (1999a). Như vậy, không có một kết quả nhất quán cho các trường hợp đã nghiên cứu, và mang lại cơ hội cho những nghiên cứu thực nghiệm mới. Một vấn đề nữa cũng tạo ra cơ hội để luận án này được thực hiện, đó là tác giả chưa tìm thấy nghiên cứu nào ở trong nước xem xét sự thay đổi trong tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô trong điều kiện có quan tâm đến độ mở của nền kinh tế. Những đề tài được tìm thấy thường tập trung nghiên cứu về tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô, các phương thức truyền dẫn của CSTT ở Việt Nam mà chưa xem xét đến yếu tố độ mở của nền kinh tế trong các tác động này của CSTT (Nguyễn Quỳnh Hoa, 2008; Bùi Duy Phú, 2009; Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, 2010; Hoàng Xuân Bình, 2011; Nguyễn Khắc Quốc Bảo, 2013; Nguyễn Thị Ngọc Trang và cộng sự, 2013). Dựa vào những phân tích trên, luận án này sẽ tập trung vào nghiên cứu ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đối với tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô, bao gồm: tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp ở các quốc gia chuyển đổi. Từ đó, những gợi ý chính sách rút ra từ kết quả nghiên cứu có thể hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, trong đó có NHNN trong việc điều hành CSTT thời gian tới. 7 Như vậy, có thể thấy rằng còn nhiều khe hở để luận án này được thực hiện. Tuy vậy, để luận án có ý nghĩa cao hơn, kết quả của luận án có thể là một sự đóng góp thực sự nếu có thể chứng minh được rằng, ngoài việc kiểm tra lại (vì đã được thực nghiệm trước đây) ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế và lạm phát thì việc kiểm tra ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên thất nghiệp (chưa được thực nghiệm trước đây) ở các quốc gia chuyển đổi là một nghiên cứu cần thiết. Sự cần thiết của nghiên cứu này khi và chỉ khi không thể dùng kết quả đánh giá ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế và lạm phát để suy ra ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên thất nghiệp một cách chắc chắn. Thật vậy, tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp vốn là những đối tượng có mối quan hệ với nhau khá mật thiết. Định luật Okun là minh chứng tiêu biểu cho quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp (Okun, 1962), còn sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp theo mô hình đường cong Phillips (Phillips, 1958) là minh chứng cho mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát. Tuy nhiên, không thể lấy kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế hay lạm phát để suy ra kết quả về ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến tác động của CSTT lên thất nghiệp. Việc suy luận đơn giản có thể sẽ dẫn đến sai lầm bởi ít nhất hai lý do sau: Thứ nhất, nhiều lý thuyết cho rằng có sự tồn tại của tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (non- accelerating inflation rate of unemployment - NAIRU), tức mức thất nghiệp thấp nhất của một nền kinh tế mà không có sự đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát (Friedman, 1968; Phelps, 1968; King, 1999b). Các lý thuyết này cho rằng trong dài hạn thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ trở về mức thất nghiệp tự nhiên và sẽ được quyết định duy nhất bởi các yếu tố thuộc về phía cung lao động (Pichelmann & Schuh, 1997) hay được quyết định bởi mức thuế thu nhập cá nhân6, chi phí người sử dụng lao động phải trả, các quy định về thị trường đối với hàng hóa được sản xuất, tỷ lệ tham gia công đoàn và lợi ích thay 6 Tác giả dùng từ tax wedge, tức là sự chênh lệch giữa mức thu nhập mà người lao động đem về nhà so với mức mà người sử dụng lao động trả cho họ. 8 thế của thất nghiệp (Gianella và cộng sự, 2008). Khi đó, không thể dùng tăng trưởng kinh tế hay lạm phát để suy ra thất nghiệp. Điều đó có nghĩa rằng tăng trưởng kinh tế cao không phải bao giờ cũng là câu trả lời chắc chắn của tình trạng thất nghiệp thấp. Còn đường Phillips dài hạn cho rằng nếu một quốc gia cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tự nhiên, thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ vẫn ở mức tự nhiên mà tỷ lệ lạm phát lại bị nâng lên liên tục, tức không có đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp trong dài hạn. Về mặt thực nghiệm, Malley và Molana (2007) trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế chỉ ra rằng ở Đức thì mối quan hệ ngược chiều này là rõ ràng, còn 6 quốc gia còn lại của nhóm G77 cho thấy tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp là tương quan thuận, tức tăng trưởng kinh tế cao cũng đồng thời tồn tại thất nghiệp cao. Hay nghiên cứu về Macedonia, một quốc gia chuyển đổi cho thấy không tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp (Sadiku, 2015). Trong khi đó, Aghion và Howitt (1994) cho rằng tăng trưởng kinh tế nhờ sự phá hủy sáng tạo (creative destruction) sẽ làm thất nghiệp gia tăng. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác cũng cho thấy không có sự đánh đổi đáng kể giữa lạm phát và thất nghiệp trong dài hạn như Gordon (1996), Nishizaki (1997), Apel và Jansson (1999) hay Kajuth (2014). Thứ hai, cần chú ý ảnh hưởng của độ mở đến thất nghiệp ở các quốc gia. Nếu đơn giản cho rằng tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến thất nghiệp giảm đồng nghĩa với việc không xem xét đến vai trò của độ mở nền kinh tế (và rất nhiều yếu tố khác). Khả năng thúc đẩy việc làm thông qua tăng trưởng kinh tế trong một nền kinh tế đóng và trong một nền kinh tế mở là khác nhau. Độ mở có thể góp phần giúp thất nghiệp giảm (Felbermayr và cộng sự, 2011a); có thể làm thất nghiệp gia tăng trong ngắn hạn, sau đó giảm dần trong dài hạn (Dutt và cộng sự, 2009) hay độ mở cũng có thể làm thất nghiệp gia tăng (Wajid & Kalim, 2013). Như vậy, quan điểm cho rằng thương mại tự do có thể 7 Gồm Mỹ, Canada, UK, Pháp, Đức, Ý và Nhật Bản. 9 làm chi phí sản xuất thấp hơn, ít các quy định bảo hộ hơn và sự cạnh tranh giữa các công ty trong nước với các công ty nước ngoài gay gắt hơn có thể làm thất nghiệp gia tăng; trong khi quan điểm ngược lại cho rằng thương mại tự do giúp mở rộng thị trường xuất khẩu, kết quả là nhu cầu về hàng hóa cao hơn có thể giúp nhiều người có việc làm hơn (Davidson và cộng sự, 1999). Vì vậy, việc thực nghiệm ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên thất nghiệp là một nghiên cứu hoàn toàn mới và cần thiết. Kết quả này là điểm mới lớn nhất, cũng là đóng góp quan trọng nhất của luận án đối với hướng nghiên cứu này. 1.4 Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở phân tích khe hở nghiên cứu, luận án này được thực hiện nhằm các mục tiêu như sau:  Mục tiêu 1. Đánh giá sự thay đổi trong tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia chuyển đổi trong giai đoạn 1999-2003.  Mục tiêu 2. Đánh giá sự thay đổi trong tác động của CSTT lên lạm phát ở các quốc gia chuyển đổi trong giai đoạn 1999-2003.  Mục tiêu 3. Đánh giá sự thay đổi trong tác động của CSTT lên thất nghiệp ở các quốc gia chuyển đổi trong giai đoạn 1999-2003. 1.5 Câu hỏi nghiên cứu Sự thay đổi trong tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp thể hiện qua việc tác động này mạnh lên hay yếu đi khi độ mở kinh tế ở các mức độ khác nhau (lớn hoặc nhỏ). Vì vậy, để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu, tức đánh giá được sự thay đổi trong tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô ở các quốc gia chuyển đổi dưới ảnh hưởng 10 của độ mở nền kinh tế trong thời gian nghiên cứu, luận án cần trả lời được các câu hỏi sau:  Câu hỏi 1: Tác động của CSTT lên tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia chuyển đổi sẽ thay đổi như thế nào khi độ mở của nền kinh tế càng lớn (hoặc càng nhỏ)?  Câu hỏi 2: Tác động của CSTT lên lạm phát ở các quốc gia chuyển đổi sẽ thay đổi như thế nào khi độ mở của nền kinh tế càng lớn (hoặc càng nhỏ)?  Câu hỏi 3: Tác động của CSTT lên thất nghiệp ở các quốc gia chuyển đổi sẽ thay đổi như thế nào khi độ mở của nền kinh tế càng lớn hoặc (hoặc càng nhỏ)? 1.6 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án này là sự thay đổi trong tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô của các quốc gia chuyển đổi trong giai đoạn 1999 – 2013, bao gồm tăng trưởng kinh tế, lạm phát và thất nghiệp, dưới ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế. Trong nghiên cứu này, luận án chưa xem xét ảnh hưởng của độ mở nền kinh tế đến sự thay đổi trong tác động CSTT lên sự ổn định của hệ thống tài chính, cán cân thanh toán quốc tế và nhiều mục tiêu khác của CSTT đơn thuần vì lý do hạn chế về số liệu8. Đây là một trong những hạn chế của nghiên cứu này. Tác giả hi vọng có thể tiếp tục thực hiện các nghiên cứu về chủ đề này để hoàn thiện hơn đánh giá ảnh hưởng của độ mở đến tác động của CSTT lên các yếu tố kinh tế vĩ mô ở các quốc gia chuyển đổi trong thời gian tới, khi số liệu cho phép.  Phạm vi nghiên cứu: 8 Tác giả đã tìm kiếm các n
Luận văn liên quan