Một là, nghiên cứu luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam. Trên cơ sở xây dựng quan niệm, luận giải làm rõ nội hàm quan niệm; khái quát phân tích làm rõ đặc điểm, vai trò CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam; tập trung khái quát, luận giải làm rõ những vấn đề về phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN và CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam.
Hai là, xây dựng quan niệm chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam; luận giải những yếu tố quy định chất lượng CTĐ, CTCT và xác định tiêu chí đánh giá thực trạng chất lượng CTĐ, CTCT phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam.
Ba là, dựa chắc vào khung lý thuyết đã xây dựng, tiến hành điều tra, khảo sát thực tiễn, thu thập tư liệu, số liệu, trên cơ sở đó đánh giá đúng thực trạng ưu điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế của chất lượng và xác định những vấn đề đặt ra đối với nâng cao chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam.
Bốn là, phân tích có tính chất dự báo những yếu tố tác động đến nâng cao chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam hiện nay, bao gồm cả yếu tố chủ quan, khách quan, trực tiếp, gián tiếp; trên cơ sở đó xác định yêu cầu, bao gồm: yêu cầu về mục tiêu đạt đến, trách nhiệm của các chủ thể, lực lượng, yêu cầu với nội dung, biện pháp nâng cao và điều kiện bảo đảm cho nâng cao; đề xuất và luận giải những giải pháp nâng cao chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam hiện nay.
219 trang |
Chia sẻ: Đào Thiềm | Ngày: 06/01/2025 | Lượt xem: 51 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chất lượng công tác đảng, công tác chính trị trong phòng, chống vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đỗ Xuân Đoài
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
10
1.1.
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án
10
1.2.
Các công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài luận án
16
1.3.
Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
25
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM KỶ LUẬT QUÂN ĐỘI, PHÁP LUẬT NHÀ NƯỚC Ở CÁC SƯ ĐOÀN BỘ BINH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
30
2.1.
Sư đoàn bộ binh và phòng, chống vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam
30
2.2.
Công tác đảng, công tác chính trị trong phòng, chống vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam
50
2.3.
Quan niệm, những yếu tố quy định và tiêu chí đánh giá chất lượng công tác đảng, công tác chính trị trong phòng, chống vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam
61
Chương 3
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM KỶ LUẬT QUÂN ĐỘI, PHÁP LUẬT NHÀ NƯỚC Ở CÁC SƯ ĐOÀN BỘ BINH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
74
3.1.
Thực trạng chất lượng công tác đảng, công tác chính trị trong phòng, chống vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam
74
3.2.
Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với nâng cao chất lượng công tác đảng, công tác chính trị trong phòng, chống vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam
96
Chương 4
YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM KỶ LUẬT QUÂN ĐỘI, PHÁP LUẬT NHÀ NƯỚC Ở CÁC SƯ ĐOÀN BỘ BINH QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
111
4.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng công tác đảng, công tác chính trị trong phòng, chống vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
111
4.2.
Những giải pháp nâng cao chất lượng công tác đảng, công tác chính trị trong phòng, chống vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
125
KẾT LUẬN
168
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
171
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
172
PHỤ LỤC
190
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
1.
Công tác đảng, công tác chính trị
CTĐ, CTCT
2.
Kỷ luật quân đội
KLQĐ
3.
Pháp luật nhà nước
PLNN
4.
Quân đội nhân dân
QĐND
5.
Sư đoàn bộ binh
SĐBB
6.
Vững mạnh toàn diện
VMTD
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Các sư đoàn bộ binh QĐND Việt Nam là bộ phận cơ bản cấu thành quân đội, lực lượng nòng cốt, thường trực sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; nơi trực tiếp quán triệt, triển khai thực hiện thắng lợi đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Điều lệnh, quy định của Quân đội.
Phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam là trách nhiệm của mọi tổ chức, lực lượng và là kết quả của nhiều mặt hoạt động, công tác. Trong đó, CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN có vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần làm cho mọi tổ chức, con người ở các SĐBB nắm chắc, hiểu rõ, tự giác sống và làm việc theo đúng KLQĐ, PLNN. Chất lượng CTĐ, CTCT càng cao, thì hiệu quả phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB càng lớn.
Công tác đảng, công tác chính trị trong phòng chống vi phạm KLQĐ, PLNN là một nội dung quan trọng trong xây dựng đơn vị VMTD “Mẫu mực, tiêu biểu”, góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Quán triệt phương hướng, nhiệm vụ xây dựng xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, đòi hỏi mỗi tổ chức, lực lượng, mọi quân nhân phải không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, thường xuyên rèn luyện nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm KLQĐ, PLNN.
Nhận thức rõ điều đó, trong những năm qua, các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp ở các SĐBB QĐND Việt Nam đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN chặt chẽ, nghiêm túc; chất lượng thực hiện nội dung, biện pháp CTĐ, CTCT có sự chuyển biến tích cực; kết quả CTĐ, CTCT cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, góp phần quan trọng phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN.
Tuy nhiên, chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam còn hạn chế như: nhận thức, trách nhiệm của một bộ phận cấp uỷ, chỉ huy, cơ quan chức năng, các tổ chức quần chúng, Hội đồng quân nhân và quân nhân về CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN còn hạn chế; nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN có điểm chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đồng thời chưa phát huy hết sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng; sự hiểu biết và thói quen chấp hành nghiêm KLQĐ, PLNN của một bộ phận quân nhân và cơ quan, đơn vị còn hạn chế; không ít quân nhân thiếu tự giác và chưa thành nhu cầu tự thân, vẫn còn vụ việc vi phạm kỷ luật, pháp luật xảy ra, cá biệt có vụ việc nghiêm trọng đến mức phải xử lý hình sự... Những hạn chế trên cho thấy, chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam chưa đáp ứng tốt yêu cầu xây dựng và thực hiện nhiệm vụ đơn vị.
Hiện nay, nhiệm vụ của các SĐBB QĐND Việt Nam có bước phát triển mới, nặng nề hơn, diễn ra trong điều kiện thế giới, khu vực và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, khó dự báo; cùng đó là những tiêu cực từ mặt trái của thể chế kinh tế thị trường, tệ nạn xã hội, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động tác động trực tiếp đến nhận thức, tình cảm, niềm tin, động cơ, trách nhiệm của quân nhân. Các yếu tố trên trực tiếp tác động đến nâng cao chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam.
Từ những lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Chất lượng công tác đảng, công tác chính trị trong phòng, chống vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước ở các sư đoàn bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước là vấn đề có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về chất lượng và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án và chỉ rõ những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu.
Làm rõ những vấn đề về lý luận, thực tiễn CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam và chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam và xác định những vấn đề đặt ra đối với nâng cao chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam.
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB đủ quân QĐND Việt Nam hiện nay.
Phạm vi tiến hành điều tra, khảo sát tại 11 SĐBB đủ quân, thuộc 4 quân đoàn, 7 quân khu: SĐBB 312, SĐBB 325, SĐBB 10, SĐBB 9, SĐBB 3, SĐBB 316, SĐBB 395, SĐBB 324, SĐBB 2, SĐBB 5, SĐBB 330. Các số liệu, tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu được giới hạn chủ yếu từ năm 2015 đến nay, các giải pháp đề xuất ứng dụng đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên hệ thống cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về CTĐ, CTCT; về KLQĐ, PLNN và chấp hành KLQĐ, PLNN trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
* Cơ sở thực tiễn
Hiện thực chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB đủ quân; các chỉ thị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị và những nhận định, đánh giá của cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp về: chấp hành KLQĐ, PLNN; phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN; chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB đủ quân; và các tư liệu, số liệu điều tra, khảo sát của tác giả ở các SĐBB đủ quân.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học ngành và liên ngành. Trong đó, coi trọng các phương pháp: kết hợp lôgic và lịch sử; thống kê và so sánh; phân tích và tổng hợp; tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới của luận án
Xây dựng và luận giải rõ quan niệm chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam.
Xác định những vấn đề đặt ra đối với nâng cao chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam.
Đề xuất những nội dung, biện pháp cụ thể, thiết thực khả thi nâng cao chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú lý luận, thực tiễn về chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN ở các SĐBB QĐND Việt Nam.
Cung cấp luận cứ khoa học phục vụ cho lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp ở các SĐBB QĐND Việt Nam tham khảo, vận dụng vào lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức tiến hành nâng cao chất lượng CTĐ, CTCT trong phòng, chống vi phạm KLQĐ, PLNN.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn CTĐ, CTCT ở các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận gồm: mở đầu, 4 chương (10 tiết), kết luận, danh mục công trình của tác giả đã được công bố có liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài về kỷ luật, pháp luật và phòng chống vi phạm kỷ luật, pháp luật
Montesquieu (1874), Bàn về tinh thần pháp luật [125]. Cuốn sách luận giải về mối quan hệ giữa giáo dục và pháp luật. Tác giả cho rằng, giáo dục có sứ mệnh đào tạo ra một người công dân tốt, một người mà “sẽ gắng sức làm cho động cơ của chính thể chuyên chế phải chùng lại” [125, tr.65]. Nói cách khác, theo quan điểm của Montesquieu, giáo dục pháp luật không có nghĩa là giáo dục người dân phải tuân phục chế độ vô điều kiện, mà chính là giáo dục công lý, lẽ phải để người dân có thể tự quyết định hành động của mình một cách phù hợp với lẽ phải.
Makarenko (2002), Giáo dục trong thực tiễn [110]. Cuốn sách trình bày các phương pháp giáo dục nhằm mang lại hiệu quả nhất, trong đó đã luận giải về vấn đề kỷ luật trong giáo dục. Theo tác giả, kỷ luật là kết quả của quá trình giáo dục “kỷ luật không phải là phương tiện giáo dục mà là kết quả giáo dục” [110, tr.47]. Tác giả cho rằng, kỷ luật cần phải được hiểu rộng hơn các ước lệ được chấp nhận thời kì trước cách mạng. Bởi vì, ước lệ có một hình thức cưỡng chế, huỷ diệt cá tính, huỷ diệt ý chí hoài bão cá nhân, buộc con người phục tùng, tôn sùng yếu tố quyền lực, đó là thứ kỷ luật mà mọi người trong xã hội cũ phải tuân theo. Trong xã hội mới, kỷ luật vừa là sự bắt buộc, vừa là đạo đức, vừa là chính trị, bởi đây là thứ kỷ luật tự giác. Vì vậy, “mỗi nhà sư phạm phải coi trọng kỷ luật, miễn là kỷ luật đó được dùng với ý nghĩa là kết quả của giáo dục” [110, tr.48].
Edward Rubin (2012), “Legal education in the Digital Age (Giáo dục pháp luật trong kỷ nguyên kỹ thuật số)” [203]. Bài báo khẳng định, trong những thập kỷ tới, cuộc cách mạng kỹ thuật số sẽ biến đổi rất nhiều thế giới của chúng ta, giáo dục pháp luật vì thế cũng sẽ biến đổi theo. Việc sản xuất và phân phối tài liệu kỹ thuật số sẽ làm thay đổi mạnh mẽ nội dung và phương pháp giáo dục pháp luật trong các nhà trường và qua các mạng xã hội. Tác giả đã khảo sát tác động của tài liệu số đối với lớp học, với thư viện của trường luật và xem xét sự chuyển đổi tiềm năng của chương trình giảng dạy mà các tài liệu kỹ thuật số có thể tạo ra. Qua đó, tác giả khẳng định trong kỷ nguyên kỹ thuật số, hình thức và biện pháp giáo dục pháp luật cũng phải thay đổi.
Viện Nghiên cứu Xây dựng Đảng, Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (2018), Quản trị Đảng nghiêm minh toàn diện - Thành tựu và kinh nghiệm trong công tác tổ chức và xây dựng Đảng Cộng sản Trung Quốc từ sau Đại hội XVIII [202]. Cuốn sách nêu và phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn, sự xác lập và hình thành chiến lược quản trị Đảng nghiêm minh toàn diện. Đồng thời, phân tích thực trạng, những thành tựu đạt được, những bài học kinh nghiệm rút ra trong quản trị Đảng nghiêm minh toàn diện, được thể hiện trên các lĩnh vực, một trong các lĩnh vực đó là xây dựng kỷ luật của Đảng, coi tăng cường xây dựng kỷ luật là sách lược quan trọng trong việc quản trị Đảng nghiêm minh toàn diện. Đề cập vấn đề kỷ luật của Đảng, ở Chương IX có viết, “Đặt kỷ luật và quy định lên hàng đầu, việc coi trọng quy định, tuân thủ kỷ luật ngày càng phát triển. Thành tựu và kinh nghiệm chủ yếu trong việc xây dựng kỷ luật của Đảng Cộng sản Trung Quốc” [202, tr.404-444], do đó phải đặt kỷ luật và quy định lên hàng đầu “Kỷ luật là sinh mạng của Đảng, là tiêu chuẩn hành vi cho đảng viên. Nếu kỷ luật không được giữ gìn tốt, việc quản trị Đảng nghiêm minh toàn diện không thể thực hiện được” [202, tr.404-444].
Trần Thọ Quang - Hoàng Long (2022), “Một số dấu ấn nổi bật của Đại hội lần thứ XX Đảng Cộng sản Trung Quốc” [141]. Bài báo đã khái quát những phát triển mới về nhận thức, lý luận của Đại hội lần thứ XX Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong đó, nhấn mạnh “Đảng Cộng sản Trung Quốc kiên trì quản lý đảng nghiêm minh toàn diện, lấy xây dựng chính trị của Đảng làm thống lĩnh cho công tác xây dựng Đảng, kiên trì tiến hành song song giữa xây dựng đảng bằng tư tưởng với quản lý đảng bằng chế độ” [141]. Bài báo đã khái quát các nội dung chủ yếu của công tác xây dựng Đảng, trong đó có nội dung về giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật “Đại hội nhấn mạnh tập trung thực hiện 7 nội dung chủ yếu của công tác xây dựng Đảng” [141].
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài về công tác đảng, công tác chính trị; về phòng chống vi phạm kỷ luật, pháp luật trong lực lượng vũ trang
Calinin (1962), Bàn về kỷ luật trong quân đội cách mạng [27]. Cuốn sách khẳng định, bản chất của kỷ luật quân đội là cách mạng, là tự giác, là nghiêm minh, việc chấp hành nghiêm kỷ luật của quân nhân không phải do các yếu tố bên ngoài tác động. Kỷ luật quân đội được chấp hành triệt để, chất lượng chấp hành kỷ luật được nâng cao, thì việc chấp hành của quân nhân phải xuất phát từ bên trong, thôi thúc từ nội tại của mỗi quân nhân. Tác giả nhấn mạnh “các sĩ quan, cán bộ chính trị, nhất là trong hoàn cảnh chiến đấu phải hết sức chú ý giáo dục - vì không giáo dục thì kỷ luật tự giác không thể có” [27, tr.22]. Trong giáo dục, theo tác giả sẽ có nhiều con đường, biện pháp, hình thức giáo dục, tuy nhiên hành động gương mẫu của người chỉ huy, chính trị viên là cách thức giáo dục hiệu quả, trực tiếp tác động đến người chiến sĩ “Trong quân đội hơn đâu hết, kỷ luật nghiêm minh và uy tín của thủ trưởng là cần thiết” [27, tr.22].
A.A.Ê-Pi-Sep (1976), Công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang Liên Xô 1918-1973 [1]. Cuốn sách xác định những cơ sở và nguyên tắc công tác đảng - công tác chính trị trong lực lượng vũ trang Liên Xô, trong đó nhấn mạnh: “Công tác đảng - công tác chính trị trong quân đội và hạm đội tiến hành theo quan điểm đảng, quan điểm giai cấp chặt chẽ, có tính tư tưởng cộng sản cao” [1, tr.31], CTĐ,CTCT có tính cụ thể và nhằm mục đích nhất định, đồng thời chỉ ra tính tích cực là nguyên tắc quan trọng trong tiến hành CTĐ, CTCT. Trong đó, nhấn mạnh “Sự thống nhất giữa công tác tư tưởng và công tác tổ chức là một trong những nguyên tắc quan trọng của công tác đảng - công tác chính trị trong Quân đội và Hải quân Liên Xô” [1, tr.36].
Phi-Đen Ca-Xtơ-Rô Ru-Dơ (1978), Cu - Ba trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội [132]. Cuốn sách luận giải làm rõ nguồn gốc ra đời của Quân đội Cu Ba gồm những chiến sĩ xuất thân từ công nông, khiêm tốn, trung thành, sẵn sàng hy sinh quên mình vì tổ quốc, đặc biệt là “trung thành với hiến pháp, có ý thức tổ chức kỷ luật cao” [132, tr.179]. Mỗi quân nhân trong quân đội phải trở thành “những người đi theo Đảng trung thành nhất, có ý thức chấp hành pháp luật nhất, kỷ luật nhất, khiêm tốn nhất và kiên quyết nhất” [132, tr.179]. Qua đó, tác giả nhấn mạnh những yếu tố tổng hợp tạo lên một quân đội hùng mạnh, trong đó vai trò của kỷ luật, của chấp hành hiến pháp, pháp luật, kỷ luật rất quan trọng.
V.Đ.Culacop (1979), Giáo dục tính kỷ luật cho các chiến sĩ Xô Viết [200]. Cuốn sách luận giải làm rõ kỷ luật quân đội là một hình thức kỷ luật nhà nước, trong quân đội người chiến sĩ Xô Viết thực hiện kỷ luật là quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình một cách nghiêm túc và chủ động “Kỷ luật quân sự thực chất là một trong những hình thức kỷ luật của nhà nước và là tổng thể các mối quan hệ trong đó người quân nhân là chủ thể trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của mình” [200, tr.3]. Trong cuốn sách, tác giả khẳng định vị trí, vai trò hết sức quan trọng của KLQĐ xã hội chủ nghĩa, có thể nói rằng thiếu kỷ luật thì không thể thực hiện được nhiệm vụ, “Là một trong những yếu tố chính của sẵn sàng chiến đấu, kỷ luật quân sự có liên quan chặt chẽ với các khâu khác của sẵn sàng chiến đấu. Có thể nói rằng, nếu thiếu kỷ luật quân sự thì không thể giải quyết bất cứ một vấn đề quan trọng nào của sẵn sàng chiến đấu” [200, tr.3], đồng thời tác giả cũng khẳng định vai trò, hiệu quả của kỷ luật trong quản lý, chỉ huy bộ đội “Người chỉ huy, người cán bộ chính trị không thể chỉ huy bộ đội được kết quả và bảo đảm thắng lợi trong chiến tranh hiện đại nếu thiếu kỷ luật trong đơn vị” [200, tr.3].
A.I.Ê rê men cô (1981), Hãy trở thành người chiến sĩ có kỷ luật [2]. Cuốn sách chỉ ra những kinh nghiệm trong giáo dục, rèn luyện kỷ luật cho các chiến sĩ Xô viết, một trong những yếu tố quan trọng tạo thành sức mạnh chiến đấu của quân đội cách mạng. Theo tác giả, không có kỷ luật thì không thể trở thành quân đội “không có kỷ luật thì không thể trở thành quân đội” [2, tr.7]. Hoạt động của chiến sĩ luôn luôn đòi hỏi tính kỷ luật cao, để có kỷ luật nghiêm đòi hỏi người chiến sĩ phải thường xuyên được giáo dục pháp luật “trong tập thể quân đội, trong gia đình quân đội chúng ta, kỷ luật rất quan trọng và cần thiết” [2, tr.10]. Một quân đội cách mạng, đòi hỏi chiến sĩ phải có kỷ luật cao “kỷ luật quân sự là tuân thủ nghiêm chỉnh và chính xác mọi trật tự và quy tắc của người quân nhân do luật pháp, điều lệnh quân đội quy định” [2, tr.10].
A.I. Ki - Tốp, V.N.Cô - Va - Lép, V.K.Lu - Gie - Ren - Cô (1982), Quân đội hiện đại và kỷ luật [3]. Cuốn sách rút ra những kinh nghiệm trong tăng cường chấp hành kỷ luật, pháp luật, phương hướng cơ bản của việc tăng cường tính tổ