Bên cạnh nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn, nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội còn là lực lượng nòng cốt tham gia đấu tranh tư tưởng, lý luận, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây là lực lượng không chỉ có kiến thức chuyên ngành sâu mà còn có kiến thức liên ngành, kiến thức về khoa học kỹ thuật quân sự và khoa học nghệ thuật quân sự cần thiết. Họ được trang bị và nắm vững kiến thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong quá trình hoạt động, thực hiện chức trách, nhiệm vụ ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Đồng thời, họ còn có sự hiểu biết khá sâu sắc về đời sống xã hội và quân đội, về thực tiễn hoạt động quân sự, về con người - quân nhân và các mối quan hệ xã hội, nắm bắt kịp thời những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn. Nhờ có nền tảng kiến thức sâu rộng và vốn sống thực tiễn quân sự khá phong phú nên nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội mới có thể lao động sáng tạo khoa học, thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ một cách hiệu quả; mới có khả năng thích ứng linh hoạt, đa dạng, tiếp cận, nghiên cứu và ứng phó có hiệu quả với những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn đời sống xã hội và quân đội.
Nhờ có nền tảng kiến thức chuyên sâu về khoa học xã hội và nhân văn; có tư duy nhạy bén, sáng tạo; có sự ưu trội về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức nên nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội chính là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tham gia vào hoạt động đấu tranh tư tưởng, lý luận. Chúng ta biết, để tiến hành đấu tranh tư tưởng, lý luận có chất lượng, hiệu quả, đòi hỏi chủ thể phải có tri thức tương đối toàn diện, đặc biệt là tri thức chuyên sâu về khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Những yêu cầu đó, nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội đều đáp ứng đầy đủ. Bên cạnh đó, trong đấu tranh tư tưởng, lý luận đòi hỏi phải có tư duy nhạy bén, sáng tạo. C.Mác đã từng khẳng định: “Sự phê phán không phải là sự hăng say của lý tính mà là lý tính của sự hăng say” [81, tr. 573]. Nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội có tư duy nhanh nhạy và khá sắc bén. Nhờ vậy, họ có thể biết gạt bỏ, sàng lọc những hiện tượng bên ngoài để xác định rõ bản chất của nội dung tư tưởng cần đấu tranh, phê phán, từ đó chắt lọc ngôn từ, đưa ra luận chứng, lựa chọn hình thức đấu tranh phù hợp. Cùng với tri thức và năng lực tư duy, một yếu tố chủ quan không thể thiếu trong đấu tranh tư tưởng, lý luận đó là các phẩm chất cá nhân như: phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, phẩm chất nghề nghiệp Trong đó, đặc biệt là phẩm chất chính trị. Bởi lẽ, nếu không có phẩm chất chính trị thì “sẽ hời hợt, tràng màng, sẽ chẳng thuyết phục nổi ai mà chính lập trường chính trị của mình cũng sẽ nghiêng ngả trước sự tiến công của kẻ thù” [121, tr. 191]. Đây chính là những phẩm chất ưu trội của nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Vì vậy, họ chính là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong hoạt động đấu tranh tư tưởng, lý luận.
214 trang |
Chia sẻ: Đào Thiềm | Ngày: 06/01/2025 | Lượt xem: 64 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu ra trong luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Đình Nguyên
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
5
Chương 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
9
1.1.
Những công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận án
9
1.2.
Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
26
Chương 2:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
34
2.1.
Quan niệm về nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn và chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
34
2.2.
Nhân tố cơ bản quy định chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
61
Chương 3:
CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO
82
3.1.
Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay và nguyên nhân
82
3.2.
Yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay
107
Chương 4:
GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
128
4.1.
Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay
128
4.2.
Tiếp
tục thực hiện tốt chính sách thu hút và sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay
144
4.3.
Phát huy vai trò nhân tố chủ quan của nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong tự học tập, nghiên cứu, tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt
156
KẾT LUẬN
169
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
171
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
173
PHỤ LỤC
186
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là lực lượng nòng cốt, trực tiếp nghiên cứu, giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn; truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; tham gia đấu tranh tư tưởng, lý luận, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Phẩm chất, trình độ, năng lực, tính năng động, sáng tạo của nguồn nhân lực này có vị trí, vai trò to lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của các học viện, trường sĩ quan. Vì vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ góp phần chuẩn hóa đội ngũ cán bộ mà còn nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của các học viện, trường sĩ quan quân đội trong tình hình mới.
Trong những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, các cơ quan chức năng và lãnh đạo, chỉ huy các học viện, trường sĩ quan quân đội đã thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn. Các học viện, trường sĩ quan quân đội đã xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn; cử cán bộ, giảng viên đi đào tạo sau đại học, đi thực tế trên các cương vị lãnh đạo, quản lý, chỉ huy đơn vị nhằm tích lũy kinh nghiêm thực tiễn; thường xuyên phát huy tính tích cực, chủ động trong tự nghiên cứu, tự học tập, bồi dường nâng cao trình độ mọi mặt của mỗi nhân lực đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, giảng viên. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội đã có sự cải thiện đáng kể, phát huy tốt nhiệm vụ, chức trách của mình trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, đấu tranh tư tưởng lý luận, góp phần tích cực vào chất lượng giáo dục - đào tạo của các học viện, trường sĩ quan quân đội. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập: Số lượng, cơ cấu còn mất cân đối, chưa hợp lý; chất lượng nhân lực ở một số học viện, trường sĩ quan còn chưa cao Những hạn chế đó xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản như: Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh còn hạn chế, bất cập; đặc biệt, có một số ít nhân lực khoa học xã hội và nhân văn vẫn chưa thực sự cố gắng rèn luyện, phấn đấu vươn lên trong học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Trong điều kiện hiện nay, sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số; yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội trong tình hình mới; yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo và xây dựng nhà trường quân đội; cùng với đó là sự chống phá của các thế lực thù địch trên mặt trân tư tưởng, lý luận Những yếu tố này đã và đang đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quân sự nói chung, chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội nói riêng.
Tổng hợp các yếu tố trên hợp thành lý do nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay” làm luận án nghiên cứu.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội; trên cơ sở đó đề xuất giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận án.
- Làm rõ những vấn đề lý luận về chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
- Đánh giá thực trạng chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay, xác định yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao.
- Đề xuất giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Phạm vi về không gian: Cán bộ, giảng viên ở các khoa giáo viên thuộc lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn ở một số học viện, trường sĩ quan quân đội như: Học viện Chính trị, Học viện Kỹ thuật quân sự, Học viện Hậu cần, Học viện Hải quân, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân 1, Trường Sĩ quan Pháo binh, Trường Sĩ quan Thông tin.
Phạm vi về thời gian: Số liệu điều tra, khảo sát từ năm 2016 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con người; chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực; xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội.
Cơ sở thực tiễn
Dựa vào báo cáo, tổng kết của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, các cơ quan chức năng, các học viện, trường sĩ quan về chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn; kết hợp với quá trình tổng hợp, khái quát kết quả điều tra, khảo sát thực trạng chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở một số học viện, trường sĩ quan quân đội.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; trong đó, tập trung sử dụng các phương pháp như khái quát hóa, trừu tượng hóa, phân tích và tổng hợp, hệ thống và cấu trúc, lịch sử và lôgíc, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án góp phần làm rõ quan niệm, những nhân tố cơ bản quy định chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội dưới góc độ tiếp cận triết học.
Ý nghĩa thực tiễn
Luận án góp phần nâng cao nhận thức về chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Luận án cung cấp những giải pháp, biện pháp cụ thể cho nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án đã được công bố, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn
Nguyễn An Ninh (2008), Phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội Việt Nam [99]. Trong công trình khoa học này, tác giả đã phân tích và luận giải sâu sắc khái niệm phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội Việt Nam. Đồng thời, chỉ ra một số nhân tố cơ bản quy định việc phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội Việt Nam. Từ khung lý thuyết đã xác định, tác giả đã đi vào khảo sát, đánh giá thực trạng, những ưu điểm, hạn chế; chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng phát huy tiềm năng trí thức khoa học xã hội ở nước ta hiện nay. Tác giả cũng đã đề xuất phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn nữa tiềm năng của đội ngũ này ở Việt Nam hiện nay. Theo đó, các giải pháp mà tác giả đưa ra đó là: Phải nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của khoa học xã hội; tạo động lực cho quá trình phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội Việt Nam; đồng thời, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và tiếp tục đổi mới công tác quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ trí thức khoa học xã hội Việt Nam hiện nay. Với nội dung đã được trình bày trong cuốn sách, đây thực sự là tài liệu có giá trị quý báu, giúp nghiên cứu sinh có thể tham khảo về logic triển khai vấn đề nghiên cứu mà luận án đã xác định.
Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng (2012), Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế [102]. Đây là cuốn sách được tập hợp từ 32 bài viết của các nhà khoa học, chia làm 3 phần: phần I: Những vấn đề lý luận chung; phần II: Kinh nghiệm trong nước và quốc tế về phát triển nguồn nhân lực; phần III: Thực trạng, những kiến nghị, giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Các bài viết đã đưa ra quan niệm, tiêu chí của nguồn nhân lực và khẳng định: Nguồn nhân lực là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của lực lượng sản xuất xã hội, quyết định sức mạnh của một quốc gia. Đặc biệt, trong bài viết, “Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” của tác giả Vũ Văn Phúc cho rằng:
“Nội dung cơ bản phát triển nhân lực của Việt Nam cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau: thứ nhất, gia tăng về số lượng nhân lực có trình độ chuyên môn, nghề nghiệp; thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; thứ ba, chuyển dịch cơ cấu nhân lực theo hướng tiến bộ; thứ tư, phát huy một số tố chất tích cực tiêu biểu của nhân lực Việt Nam” [102, tr.12].
Đây thực sự là tài liệu tham khảo quan trọng, có ý nghĩa thiết thực đối với nghiên cứu sinh trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án, giúp nghiên cứu sinh có thêm cơ sở để luận giải những vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực cũng như chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay.
Nguyễn Cẩm Ngọc (2012), “Trí thức khoa học xã hội nhân với với sự nghiệp đổi mới để phát triển đất nước” [98]. Trong công trình khoa học này, tác giả đã phân tích và luận giải khá sâu sắc về vị trí, vai trò của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Tác giả bài viết quan niệm:
“Trí thức khoa học xã hội và nhân văn nằm trong cơ cấu chung của trí thức Việt Nam và là bộ phận hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Họ có tri thức sâu rộng về xã hội và về con người. Bằng lao động sáng tạo của mình, họ tham gia vào đời sống chính trị - xã hội và trở thành một nguồn lực trí tuệ quan trọng giúp cho xã hội không ngừng tiến bộ” [98, tr.23].
Từ việc luận giải những đặc trưng riêng có của tri thức khoa học xã hội và nhân văn, tác giả bải viết đã khẳng định sức mạnh to lớn của nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Đây là công trình khoa học có ý nghĩa to lớn, giúp nghiên cứu sinh có thể kế thừa và tiếp tục luận giải về vai trò, đặc trưng của nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay.
Trần Văn Phòng (2014), “Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy khoa học xã hội nhân văn trong đấu tranh lý luận hiện nay” [100]. Trong bài viết này, tác giả đã đi sâu phân tích về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy khoa học xã hội và nhân văn trong đấu tranh lý luận. Tác giả luận giải:
“Đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy khoa học xã hội nhân văn là lực lượng nòng cốt làm công tác lý luận, chống lại những quan điểm sai trái, thù địch. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy khoa học xã hội nhân văn là những chuyên gia am hiểu chuyên sâu lĩnh vực này, nên họ có cơ sở khoa học để chỉ ra bản chất phản động, sai trái, phản khoa học của những luận điểm xuyên tạc ấy, bảo vệ một cách thuyết phục sự trong sáng nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng.” [100].
Như vậy, theo tác giả đội ngũ này là những người nghiên cứu chuyên sâu và giảng dạy các môn khoa học có liên quan, gắn bó mật thiết với công tác đấu tranh lý luận của đảng ta. Do vậy, họ có vai trò hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh lý luận hiện nay. Bài viết là tài liệu tham khảo quan trọng, giúp nghiên cứu sinh có thêm cơ sở để khẳng định và luận giải về vị trí, vai trò của nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Nghiêm Đình Vỳ (2015), “Phát huy vai trò khoa học xã hội trong quá trình đào tạo đội ngũ nhà giáo, góp phần phát triển khoa học giáo dục thời kỳ hội nhập quốc tế” [137]. Trong bài viết này, tác giả đã tập trung khái quát vai trò của khoa học xã hội và nhân văn trong đào tạo đội ngũ nhà giáo nhằm góp phần phát triển khoa học giáo dục hiện nay. Tác giả khẳng định rằng, cũng như các ngành khoa học khác, khoa học xã hội và nhân văn có vị trí, vai trò hết sức quan trọng: “Khoa học xã hội nhân văn có sứ mệnh cung cấp nguồn nhân lực, đào tạo những sinh viên sư phạm có trình độ và năng lực đảm nhiệm các công việc giảng dạy, nghiên cứu, quản lý... để sau khi ra trường có thế đảm nhiệm tốt công việc được giao phó” [137]. Như vậy, theo tác giả bài viết, khoa học xã hội và nhân văn không chỉ đóng vai trò là một ngành khoa học trong việc trang bị tri thức nền tảng về khoa học xã hội và nhân văn cho con người mà thông qua quá trình này nó cũng góp phần quan trọng trong việc đào tạo nên đội ngũ nhà giáo. Và chính đội ngũ nhân lực này sau khi được đào tạo trở thành các nhà giáo đã có những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu, giảng dạy khoa học xã hội và nhân văn. Qua đó có thể thấy, bài viết là tài liệu tham khảo quan trọng giúp nghiên cứu sinh có thể kế thừa trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án, nhất là trong việc luận giải về vai trò của nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay.
Nguyễn Hiền Lương (2015), “Tư duy và vấn đề rèn luyện, nâng cao năng lực tư duy của nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay” [81]. Tác giả bài viết đã phân tích và chỉ ra rằng: Một đòi hỏi lớn của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đối với nguồn nhân lực chất lượng cao là phát triển trí lực, trọng yếu là phát triển năng lực tư duy khoa học và phát triển năng lực độc lập sáng tạo với tri thức là tiền đề, cơ sở. Muốn vậy, cần phải tập trung đầu tư của toàn xã hội vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam, chuẩn bị cho họ có đủ sức khỏe, tài năng, đạo đức, ý thức, bản lĩnh chính trị để kế tục sự nghiệp cha anh; đồng thời nguồn nhân lực chất lượng cao phải chăm lo học tập, nâng cao trình độ các môn lý luận chính trị, đặc biệt là triết học macxit để có đủ khả năng phân tích, đánh giá, suy luận bằng các luận cứ khoa học, bằng lý tính. Trong bài viết, tác giả quan niệm rằng:
“Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao là xây dựng nhân cách con người Việt Nam với nội dung toàn diện, từ bồi dưỡng và phát triển thể lực; năng lực trí tuệ; phương pháp tư duy khoa học sáng tạo, không ngừng nâng cao trình độ trên nền tảng học vấn phổ thông vững chắc, đến trình độ tư tưởng, thế giới quan, đạo đức cách mạng” [81, tr.35].
Theo tác giả một trong những điều cốt yếu cần quan tâm trong việc xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao đó là cần quan tâm bồi dưỡng cho họ về thể lực, trí tuệ, những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người. Với những đóng góp khoa học quan trọng của bài viết, đây thực sự là tài liệu tham khảo có ý nghĩa, giúp cho nghiên cứu sinh có thể kế thừa để luận giải và làm rõ thêm về nội hàm của chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay.
Nguyễn Văn Kim (2016), Thực trạng nguồn nhân lực Khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam hiện nay [73]. Trong công trình khoa học này, nhóm tác giả đề tài đã tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam hiện nay trên 3 vấn đề cụ thể: Hệ thống các cơ sở đào tạo nhân lực khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam hiện nay; thực trạng việc sử dụng nhân lực khoa học xã hội và nhân văn với thị trường lao động; đánh giá mối liên kết giữa đào tạo và sử dụng nhân lực khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam hiện nay. Đồng thời chỉ ra một số nguyên nhân của thực trạng cũng như những vấn đề bất cập cần quan tâm giải quyết như: Bất cập trong đào tạo nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn; bất cập về mối quan hệ giữa đào tạo và nhu cầu của thị trường lao động đối với nhân lực khoa học xã hội và nhân văn. Đây là tài liệu tham khảo có ý nghĩa thiết thực đối với nghiên cứu sinh để nghiên cứu, xác định phương pháp và cách thức đánh giá thực trạng chất lượng nguồn nhân lực khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện trường sĩ quan quân đội hiện nay.
Phạm Minh Chính (2018), “Quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển thời kỳ mới của Hội nghị Trung ương 7, khóa XII” [13]. Tác giả cho rằng, công tác cán bộ là vấn đề trọng tâm, có vai trò quyết định đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và khẳng định rằng, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ; tư duy, nhận thức của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác cán bộ đã có sự phát triển phù hợp với tình hình thực tế. Đánh giá về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ, tác giả cho rằng bên cạnh những ưu điểm thì vẫn còn những tồn tại cần khắc phục: Hiện tượng buông lỏng lãnh đạo đối với xây dựng đội ngũ cán bộ và cô