1. Tính cấp thiết của đề tài
- Nhà nước là vấn đề trung tâm của đời sống chính trị trong xã hội có giai cấp. Thực tế lịch sử loài người cho thấy, giai cấp nào muốn thống trị xã hội, cải tạo xã hội phục vụ cho lợi ích của giai cấp mình đều phải giành lấy công cụ quan trọng nhất là chính quyền nhà nước - Nhà nước trở thành vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Vì vậy nhiệm vụ trung tâm của các Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo cách mạng là phải giành lấy chính quyền và quan trọng hơn là phải thường xuyên củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng.
- Lênin đã từng nói: "Giữ vững chính quyền thì khó hơn là giành lấy chính quyền" (V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1976, tập 36, tr.585). Thật vậy, xây dựng và bảo vệ Nhà nước kiểu mới là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp; cuộc đấu tranh đó đòi hỏi không chỉ có tinh thần cách mạng kiên cường mà còn phải có những nhận thức khoa học về Nhà nước. Thường xuyên củng cố và giữ vững bản chất dân chủ của Nhà nước cách mạng, bảo đảm nguyên tắc "Mọi quyền lực thuộc về nhân dân" chính là mục tiêu, là nguồn động lực đồng thời chính là thước đo hiệu lực của Nhà nước XHCN.
- ở nước ta từ sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, Nhà nước cách mạng Việt Nam ra đời và phát triển đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc như Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đã nhận định: "Ra đời từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngay buổi đầu, Nhà nước ta đã thể hiện bản chất tốt đẹp của một Nhà nước gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của dân tộc, của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Từ đó đến nay, Nhà nước ta không ngừng lớn mạnh, làm tròn nhiệm vụ của mình, xứng đáng là công cụ đắc lực của nhân dân trong quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng cuộc sống mới, xã hội mới" (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám BCHTW (khóa VII), H., 1995, tr.20, 21). Chính vì vậy tiếp tục giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp đó của Nhà nước ta là đòi hỏi khách quan của việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước.
Song bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình phát triển Nhà nước ta đã bộc lộ nhiều khuyết nhược điểm đó là bộ máy Nhà nước ta chưa thật trong sạch vững mạnh, tổ chức bộ máy còn nặng nề, quản lý Nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới, sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước, đặc biệt ". tình trạng tham ô, lãng phí, quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, ức hiếp nhân dân không những chưa bị ngăn chặn, giảm bớt mà ngược lại có nơi, có lúc, có việc còn trở nên trầm trọng hơn, gây bất bình trong dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân, làm nản lòng những nhà đầu tư, kinh doanh muốn làm ăn hợp pháp và chính đáng, kìm hãm quá trình phát triển của đất nước" (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Ba BCHTW (khóa VIII), H., 1997, tr.8, 9). Tất cả những điều đó đã và đang ảnh hưởng không tốt đến bản chất dân chủ của Nhà nước kiểu mới, làm giảm hiệu lực quản lý và hiệu quả hoạt động của nó, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Hơn 15 năm qua, trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã có nhiều tìm tòi, nghiên cứu các giải pháp để từng bước xây dựng và hoàn thiện một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Những cố gắng đó đã đưa đến những thành tựu bước đầu đáng phấn khởi. Song so với những đòi hỏi của cuộc sống, trước những vấn đề mới mẻ do bản thân công cuộc đổi mới đặt ra không cho phép chúng ta thỏa mãn, bằng lòng với những gì có được mà trái lại cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa. Vì vậy, "Việc tổng kết hoạt động của Nhà nước, rút ra những kinh nghiệm về xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng của nhân dân trở thành vấn đề có ý nghĩa quan trọng không chỉ về mặt lý luận mà còn cấp bách về mặt thực tiễn".(Đỗ Mười (1991), Xây dựng Nhà nước của nhân dân, thành tựu - kinh nghiệm - đổi mới, Nxb Sự thật, H. trang 7)
Do đó nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Nhà nước XHCN trong những năm 1996 - 2003 là vấn đề thời sự cấp bách, có ý nghĩa quan trọng đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi cả trên phương diện lý luận và thực tiễn do công cuộc đổi mới đặt ra, đồng thời góp phần tổng kết lịch sử Đảng trong thời kỳ đổi mới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Lý luận về Nhà nước nói chung, Nhà nước kiểu mới nói riêng là một trong những vấn đề được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đặc biệt quan tâm. Tư tưởng về một Nhà nước kiểu mới được thể hiện rõ trong các tác phẩm của Mác - Ăngghen như: "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", "Nội chiến ở Pháp", "Phê phán cương lĩnh Gô Ta", "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và Nhà nước". đến thời Lênin những tư tưởng đó tiếp tục được phát triển, trong đó có một loạt các vấn đề cơ bản của Nhà nước xã hội chủ nghĩa được Lênin đề cập một cách có hệ thống trong các bài viết, tác phẩm: "Nhà nước và cách mạng", "Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết", "Về bộ máy của Đảng và Nhà nước", "Thà ít mà tốt".
- ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã có những bài nói, bài viết quan trọng về xây dựng và bảo vệ Nhà nước của nhân dân. Đặc biệt là từ sau Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6.1996) đến nay, nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, chuyên khảo đã được công bố. Tiêu biểu là : Phát huy dân chủ XHCN một giải pháp cơ bản, cấp thiết để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh (Đỗ Mười, Tạp chí Cộng sản số 14/ 1997); Xây dựng Nhà nước và Quốc hội thật sự của dân, do dân, vì dân hoạt động có hiệu lực và hiệu quả (Đỗ Mười, Tạp chí Cộng sản số 19/1997); Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân - mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam (Nguyễn Thị Bình, Báo Nhân Dân, ngày 4.8.1997); Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam (Phùng Văn Tửu, Nxb Chính trị quốc gia, H.1999); Các đề tài thuộc chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước giai đoạn 2001 - 2005 như : “Phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” (Đề tài KX.03.08 do GS,TS Phạm Ngọc Quang làm Chủ nhiệm); “Cơ sở lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” (Đề tài KX.04.01 do GS,TSKH Nguyễn Duy Quý làm Chủ nhiệm); “Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” (Đề tài KX.04.03 do TS Tạ Xuân Đại làm Chủ nhiệm).v.v
- Dưới góc độ khoa học lịch sử cũng có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như : "Về xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân (1975-1990)" (Nguyễn Trọng Phúc - Luận án PTS, Hà Nội, 1991); "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới" (PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc - Nxb CTQG, H., 1999); "Mấy vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta hiện nay" (PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc - Tạp chí Cộng sản số 15, 1995); “Nhìn lại quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam kiểu mới”(Cao Văn Lượng - Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 4.2000) "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng và củng cố Nhà nước từ 1986 đến 1996" (Đoàn Minh Huấn - Luận án tiến sĩ Sử học - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, H., 2003).
Những công trình, tài liệu nêu trên đã làm sáng tỏ nhiều quan điểm, chủ trương cũng như quá trình tổ chức, chỉ đạo thực tiễn việc xây dựng và cải cách bộ máy Nhà nước trong thời kỳ đổi mới song chỉ mới tập trung chủ yếu và thời kỳ mười năm đổi mới (1986 - 1996) hoặc một số giai đoạn trước đó. Tuy vậy, đây là những nguồn tư liệu quý giá mà tác giả sẽ kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài này.
3. Mục đích của luận án
- Thông qua một giai đoạn lịch sử cụ thể (1996-2003), Luận án góp phần làm sáng rõ những quan điểm, đường lối cơ bản cũng như quá trình tổ chức, chỉ đạo thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là những tìm tòi, thể nghiệm đường lối đổi mới, phát triển tư duy lý luận của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có vấn đề xây dựng, bảo vệ Nhà nước; qua đó rút ra những kinh nghiệm nhằm từng bước vận dụng vào quá trình tiếp tục xây dựng và bảo vệ Nhà nước ta hiện nay.
Với mục đích đó, nhiệm vụ của luận án là:
- Trình bày bối cảnh lịch sử và những nhân tố tác động đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam XHCN từ 1996 đến 2003
- Phân tích, luận giải, làm sáng rõ hệ thống những quan điểm, đường lối của Đảng cũng như quá trình tổ chức thực tiễn và từng bước đưa quan điểm, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
- Bước đầu đề cập một số kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa cả trong lãnh đạo chính trị và tổ chức chỉ đạo thực tiễn.
4. Giới hạn nghiên cứu của Luận án
Về mặt thời gian : phạm vi nghiên cứu của đề tài từ 1996 đến 2003, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đến Hội nghị lần thứ Chín, BCHTƯ (khoá IX). Tất nhiên, với yêu cầu của một đề tài khoa học lịch sử, luận án phải đề cập đến một số vấn đề cả trước và sau thời gian của phạm vi nghiên cứu.
Về mặt nội dung : đây là một đề tài lớn, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhiều nội dung nghiên cứu vượt quá khả năng của tác giả cũng như giới hạn của một luận án tiến sĩ, vì vậy, tác giả tập trung nghiên cứu quá trình tìm tòi, thể nghiệm các quan điểm, chủ trương lớn cũng như việc tổ chức chỉ đạo của Đảng trong xây dựng và bảo vệ Nhà nước như : phát huy dân chủ XHCN, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, cải cách bộ máy Nhà nước mà trọng tâm là cải cách nền hành chính, củng cố công cụ bạo lực, xây dựng cơ sở kinh tế - xã hội, đấu tranh làm thất bại các âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch.
5. Đóng góp của luận án
- Phân tích, trình bày một cách tương đối có hệ thống những quan điểm cơ bản của Đảng về xây dựng và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa thông qua những tìm tòi, thể nghiệm, những bước đi và hình thức thích hợp của tiến trình đổi mới từ 1996 đến 2003.
- Luận án bước đầu đúc rút một số kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần tổng kết thực tiễn, vận dụng vào công cuộc xây dựng Nhà nước ta theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, đáp ứng đòi hỏi của đất nước trong thời kỳ mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Kết quả của luận án còn góp phần tổng kết lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam trong 20 năm đổi mới (1986 - 2006). Góp phần tổng kết quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới nói chung, cũng như lý luận về xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện lịch sử mới.
6. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở các nguồn tư liệu :
- Hệ thống các quan điểm của học thuyết Mác - Lênin về Nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản, đặc biệt là những tư tưởng của Lênin về Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, về bản chất dân chủ của Nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân; các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua các văn kiện cũng như các chuyên khảo, tài liệu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước. để thể hiện nội dung nghiên cứu.
- Báo cáo tổng kết, tổng hợp của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Kỷ yếu các kỳ họp Quốc hội, Báo cáo của Chính Phủ, Niên giám thông kê hàng năm.
- Luận án còn sử dụng cũng như kế thừa, tiếp thu một số tài liệu, tư liệu của các nhà khoa học trong và ngoài nước đã được công bố trong các bài viết, các công trình nghiên cứu trên các báo, tạp chí, các đầu sách đã được xuất bản. v.v.
- Là một đề tài khoa học lịch sử nên phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận án là kết hợp lịch sử với lôgíc, bên cạnh đó còn chú ý sử dụng các phương pháp khác như : phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Củng cố và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (1996 - 2001)
Chương 2: Tăng cường lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Nhà nước XHCN trong thời kỳ mới (2001-2003)
Chương 3: Một số kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam XHCN những năm 1996-2003.
34 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3042 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từ năm 1996 đến năm 2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đảng cộng sản việt nam lãnh đạo sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa từ năm 1996 đến năm 2006
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
- Nhà nước là vấn đề trung tâm của đời sống chính trị trong xã hội có giai cấp. Thực tế lịch sử loài người cho thấy, giai cấp nào muốn thống trị xã hội, cải tạo xã hội phục vụ cho lợi ích của giai cấp mình đều phải giành lấy công cụ quan trọng nhất là chính quyền nhà nước - Nhà nước trở thành vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Vì vậy nhiệm vụ trung tâm của các Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo cách mạng là phải giành lấy chính quyền và quan trọng hơn là phải thường xuyên củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng.
- Lênin đã từng nói: "Giữ vững chính quyền thì khó hơn là giành lấy chính quyền" (V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1976, tập 36, tr.585). Thật vậy, xây dựng và bảo vệ Nhà nước kiểu mới là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp; cuộc đấu tranh đó đòi hỏi không chỉ có tinh thần cách mạng kiên cường mà còn phải có những nhận thức khoa học về Nhà nước. Thường xuyên củng cố và giữ vững bản chất dân chủ của Nhà nước cách mạng, bảo đảm nguyên tắc "Mọi quyền lực thuộc về nhân dân" chính là mục tiêu, là nguồn động lực đồng thời chính là thước đo hiệu lực của Nhà nước XHCN.
- ở nước ta từ sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, Nhà nước cách mạng Việt Nam ra đời và phát triển đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc như Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) đã nhận định: "Ra đời từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngay buổi đầu, Nhà nước ta đã thể hiện bản chất tốt đẹp của một Nhà nước gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của dân tộc, của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Từ đó đến nay, Nhà nước ta không ngừng lớn mạnh, làm tròn nhiệm vụ của mình, xứng đáng là công cụ đắc lực của nhân dân trong quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng cuộc sống mới, xã hội mới" (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám BCHTW (khóa VII), H., 1995, tr.20, 21). Chính vì vậy tiếp tục giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp đó của Nhà nước ta là đòi hỏi khách quan của việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước.
Song bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình phát triển Nhà nước ta đã bộc lộ nhiều khuyết nhược điểm đó là bộ máy Nhà nước ta chưa thật trong sạch vững mạnh, tổ chức bộ máy còn nặng nề, quản lý Nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới, sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước, đặc biệt "... tình trạng tham ô, lãng phí, quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, ức hiếp nhân dân không những chưa bị ngăn chặn, giảm bớt mà ngược lại có nơi, có lúc, có việc còn trở nên trầm trọng hơn, gây bất bình trong dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân, làm nản lòng những nhà đầu tư, kinh doanh muốn làm ăn hợp pháp và chính đáng, kìm hãm quá trình phát triển của đất nước" (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Ba BCHTW (khóa VIII), H., 1997, tr.8, 9). Tất cả những điều đó đã và đang ảnh hưởng không tốt đến bản chất dân chủ của Nhà nước kiểu mới, làm giảm hiệu lực quản lý và hiệu quả hoạt động của nó, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Hơn 15 năm qua, trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã có nhiều tìm tòi, nghiên cứu các giải pháp để từng bước xây dựng và hoàn thiện một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Những cố gắng đó đã đưa đến những thành tựu bước đầu đáng phấn khởi. Song so với những đòi hỏi của cuộc sống, trước những vấn đề mới mẻ do bản thân công cuộc đổi mới đặt ra không cho phép chúng ta thỏa mãn, bằng lòng với những gì có được mà trái lại cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa. Vì vậy, "Việc tổng kết hoạt động của Nhà nước, rút ra những kinh nghiệm về xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng của nhân dân trở thành vấn đề có ý nghĩa quan trọng không chỉ về mặt lý luận mà còn cấp bách về mặt thực tiễn".(Đỗ Mười (1991), Xây dựng Nhà nước của nhân dân, thành tựu - kinh nghiệm - đổi mới, Nxb Sự thật, H. trang 7)
Do đó nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Nhà nước XHCN trong những năm 1996 - 2003 là vấn đề thời sự cấp bách, có ý nghĩa quan trọng đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi cả trên phương diện lý luận và thực tiễn do công cuộc đổi mới đặt ra, đồng thời góp phần tổng kết lịch sử Đảng trong thời kỳ đổi mới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Lý luận về Nhà nước nói chung, Nhà nước kiểu mới nói riêng là một trong những vấn đề được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đặc biệt quan tâm. Tư tưởng về một Nhà nước kiểu mới được thể hiện rõ trong các tác phẩm của Mác - Ăngghen như: "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", "Nội chiến ở Pháp", "Phê phán cương lĩnh Gô Ta", "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và Nhà nước"... đến thời Lênin những tư tưởng đó tiếp tục được phát triển, trong đó có một loạt các vấn đề cơ bản của Nhà nước xã hội chủ nghĩa được Lênin đề cập một cách có hệ thống trong các bài viết, tác phẩm: "Nhà nước và cách mạng", "Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết", "Về bộ máy của Đảng và Nhà nước", "Thà ít mà tốt"...
- ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã có những bài nói, bài viết quan trọng về xây dựng và bảo vệ Nhà nước của nhân dân. Đặc biệt là từ sau Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6.1996) đến nay, nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, chuyên khảo đã được công bố. Tiêu biểu là : Phát huy dân chủ XHCN một giải pháp cơ bản, cấp thiết để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh (Đỗ Mười, Tạp chí Cộng sản số 14/ 1997); Xây dựng Nhà nước và Quốc hội thật sự của dân, do dân, vì dân hoạt động có hiệu lực và hiệu quả (Đỗ Mười, Tạp chí Cộng sản số 19/1997); Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân - mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam (Nguyễn Thị Bình, Báo Nhân Dân, ngày 4.8.1997); Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam (Phùng Văn Tửu, Nxb Chính trị quốc gia, H.1999); Các đề tài thuộc chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước giai đoạn 2001 - 2005 như : “Phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” (Đề tài KX.03.08 do GS,TS Phạm Ngọc Quang làm Chủ nhiệm); “Cơ sở lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” (Đề tài KX.04.01 do GS,TSKH Nguyễn Duy Quý làm Chủ nhiệm); “Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” (Đề tài KX.04.03 do TS Tạ Xuân Đại làm Chủ nhiệm).v.v
- Dưới góc độ khoa học lịch sử cũng có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như : "Về xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân (1975-1990)" (Nguyễn Trọng Phúc - Luận án PTS, Hà Nội, 1991); "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới" (PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc - Nxb CTQG, H., 1999); "Mấy vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta hiện nay" (PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc - Tạp chí Cộng sản số 15, 1995); “Nhìn lại quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam kiểu mới”(Cao Văn Lượng - Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 4.2000) "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng và củng cố Nhà nước từ 1986 đến 1996" (Đoàn Minh Huấn - Luận án tiến sĩ Sử học - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, H., 2003)...
Những công trình, tài liệu nêu trên đã làm sáng tỏ nhiều quan điểm, chủ trương cũng như quá trình tổ chức, chỉ đạo thực tiễn việc xây dựng và cải cách bộ máy Nhà nước trong thời kỳ đổi mới song chỉ mới tập trung chủ yếu và thời kỳ mười năm đổi mới (1986 - 1996) hoặc một số giai đoạn trước đó. Tuy vậy, đây là những nguồn tư liệu quý giá mà tác giả sẽ kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài này.
3. Mục đích của luận án
- Thông qua một giai đoạn lịch sử cụ thể (1996-2003), Luận án góp phần làm sáng rõ những quan điểm, đường lối cơ bản cũng như quá trình tổ chức, chỉ đạo thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là những tìm tòi, thể nghiệm đường lối đổi mới, phát triển tư duy lý luận của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có vấn đề xây dựng, bảo vệ Nhà nước; qua đó rút ra những kinh nghiệm nhằm từng bước vận dụng vào quá trình tiếp tục xây dựng và bảo vệ Nhà nước ta hiện nay.
Với mục đích đó, nhiệm vụ của luận án là:
- Trình bày bối cảnh lịch sử và những nhân tố tác động đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam XHCN từ 1996 đến 2003
- Phân tích, luận giải, làm sáng rõ hệ thống những quan điểm, đường lối của Đảng cũng như quá trình tổ chức thực tiễn và từng bước đưa quan điểm, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
- Bước đầu đề cập một số kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa cả trong lãnh đạo chính trị và tổ chức chỉ đạo thực tiễn.
4. Giới hạn nghiên cứu của Luận án
Về mặt thời gian : phạm vi nghiên cứu của đề tài từ 1996 đến 2003, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đến Hội nghị lần thứ Chín, BCHTƯ (khoá IX). Tất nhiên, với yêu cầu của một đề tài khoa học lịch sử, luận án phải đề cập đến một số vấn đề cả trước và sau thời gian của phạm vi nghiên cứu.
Về mặt nội dung : đây là một đề tài lớn, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhiều nội dung nghiên cứu vượt quá khả năng của tác giả cũng như giới hạn của một luận án tiến sĩ, vì vậy, tác giả tập trung nghiên cứu quá trình tìm tòi, thể nghiệm các quan điểm, chủ trương lớn cũng như việc tổ chức chỉ đạo của Đảng trong xây dựng và bảo vệ Nhà nước như : phát huy dân chủ XHCN, nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, cải cách bộ máy Nhà nước mà trọng tâm là cải cách nền hành chính, củng cố công cụ bạo lực, xây dựng cơ sở kinh tế - xã hội, đấu tranh làm thất bại các âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch.
5. Đóng góp của luận án
- Phân tích, trình bày một cách tương đối có hệ thống những quan điểm cơ bản của Đảng về xây dựng và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa thông qua những tìm tòi, thể nghiệm, những bước đi và hình thức thích hợp của tiến trình đổi mới từ 1996 đến 2003.
- Luận án bước đầu đúc rút một số kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần tổng kết thực tiễn, vận dụng vào công cuộc xây dựng Nhà nước ta theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, đáp ứng đòi hỏi của đất nước trong thời kỳ mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Kết quả của luận án còn góp phần tổng kết lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam trong 20 năm đổi mới (1986 - 2006). Góp phần tổng kết quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới nói chung, cũng như lý luận về xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện lịch sử mới.
6. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở các nguồn tư liệu :
- Hệ thống các quan điểm của học thuyết Mác - Lênin về Nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản, đặc biệt là những tư tưởng của Lênin về Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, về bản chất dân chủ của Nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân; các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua các văn kiện cũng như các chuyên khảo, tài liệu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước... để thể hiện nội dung nghiên cứu.
- Báo cáo tổng kết, tổng hợp của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Kỷ yếu các kỳ họp Quốc hội, Báo cáo của Chính Phủ, Niên giám thông kê hàng năm.
- Luận án còn sử dụng cũng như kế thừa, tiếp thu một số tài liệu, tư liệu của các nhà khoa học trong và ngoài nước đã được công bố trong các bài viết, các công trình nghiên cứu trên các báo, tạp chí, các đầu sách đã được xuất bản. v.v...
- Là một đề tài khoa học lịch sử nên phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận án là kết hợp lịch sử với lôgíc, bên cạnh đó còn chú ý sử dụng các phương pháp khác như : phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Củng cố và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (1996 - 2001)
Chương 2: Tăng cường lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Nhà nước XHCN trong thời kỳ mới (2001-2003)
Chương 3: Một số kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam XHCN những năm 1996-2003.
Chương 1
Củng cố và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (1996 - 2001)
1.1. yêu cầu cấp bách, khách quan của việc tiếp tục xây dựng và bảo vệ Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa trước bối cảnh lịch sử mới
1.1.1. Quá trình xây dựng và bảo vệ nhà nước XHCN từ 1975-1996
Với thắng lợi vẻ vang của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, một hình thức Nhà nước kiểu mới, đã ra đời. Hơn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành, Nhà nước cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã vượt lên mọi khó khăn, thử thách và lập nên những thành tựu vĩ đại - "Có thể nói, một trong những thành tựu lớn nhất của cách mạng Việt Nam là đã xác lập, xây dựng và bảo vệ một Nhà nước kiểu mới".
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, Nhà nước ta cũng đã mắc phải những sai lầm, khuyết điểm trong việc thực hiện chức năng thể chế hóa đường lối của Đảng cũng như quản lý, điều hành đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Trong tính đồng bộ và triệt để của đường lối đổi mới, Đảng ta khẳng định tính chất cấp bách và yêu cầu khách quan của việc đổi mới căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước ta.
Với bản lĩnh chính trị, tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo, với trách nhiệm trước lịch sử, trước dân tộc, Đảng đã không né tránh những sai lầm, khuyết điểm của mình trong quá trình lãnh đạo Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trái lại, với "tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói thẳng sự thật", Đảng ta đã khẳng định: trước thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước thực tiễn xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa và thực trạng của bộ máy Nhà nước đã cho thấy cần phải đổi mới căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước ta cũng như của toàn bộ hệ thống chính trị.
1.1.2. Bối cảnh quốc tế và trong nước những năm cuối thập niên 90
1.1.2.1. Những thuận lợi cơ bản
1.1.2.2. Những khó khăn, thách thức
Xuất phát từ yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, từ điều kiện và bối cảnh của tình hình thế giới, trên cơ sở đánh giá khách quan thực trạng tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta trong thời gian qua, vấn đề tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện tổ chức, hoạt động của Nhà nước ta là khách quan và hết sức cấp bách, điều này vừa phản ánh tính đúng đắn, khoa học trong đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, vừa đáp ứng yêu cầu của đất nước khi bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, vừa thể hiện nguyện vọng của nhân dân trong hơn nửa thế kỷ xây dựng và bảo vệ Nhà nước cách mạng Việt Nam, đồng thời đó cũng là điều kiện tất yếu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, bảo đảm thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta.
1.2. Xây dựng và bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa theo đường lối Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6/1996-4/2001)
1.2.1. Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước
Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, Nhà nước ta.Chỉ có dựa vào sức mạnh của nhân dân mới xây dựng được chính quyền trong sạch, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, an ninh, quốc phòng, tạo động lực to lớn phát triển kinh tế - xã hội.
- Tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử các cơ quan dân cử
- Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức của các cơ quan dân cử để các cơ quan này thật sự là cơ quan đại diện của nhân dân
- Nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp, trước hết ở cấp cơ sở
1.2.2. Tiếp tục cải cách nền hành chính Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành chính Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả
- Quản lý kinh tế - xã hội theo pháp luật, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và trật tự kỷ cương; chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng và những ngành kinh tế then chốt, bảo đảm môi trường và điều kiện chung cho nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống
- Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô và vai trò của kinh tế nhà nước để uqản lý thị trường, điều tiết thu nhập, kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội; Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội với tăng cường an ninh quốc phòng và mở rộng hoạt động đối ngoại...
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực,
- Đấu tranh chống tham nhũng...
1.2.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
- Hoạt động tư pháp phải nhằm đấu tranh nghiêm trị các tội chống Tổ quốc, chống chế độ, tội tham nhũng và các tội phạm khác, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Đổi mới và kiện toàn các cơ quan tư pháp, phân định rõ thẩm quyền từng cơ quan, từng cấp, bảo đảm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan đó. Nâng cao tính mẫu mực trong việc tuân thủ pháp luật, thể hiện công lý, tính dân chủ và công khai trong hoạt động của các cơ quan tư pháp.
- Khắc phục những biểu hiện hữu khuynh trong đấu tranh chống tội phạm, đồng thời chống tình trạng bắt giữ oan sai, xét xử không công minh, vi phạm quyền dân chủ của công dân.
Kết luận chương 1
Chương 2
Tăng cường lãnh đạo xây dựng và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới (2001 - 2003)
2.1. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001) với những quan điểm, chủ trương tăng cường xây dựng và bảo vệ Nhà nước
2.1.1. Bối cảnh lịch sử mới và yêu cầu tăng cường xây dựng và bảo vệ Nhà nước
- Nhận định của Đại hội IX về diễn biến của tình hình quốc tế và trong nước - thời cơ và thách thức đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN của Đảng và nhân dân ta
+ Dự báo của đảng ta về diễn biến của tình hình quốc tế những năm đầu thế kỷ XXI
+ Những xu thế tác động mạnh mẽ đến công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN
+ Những thời cơ và thách thức
2.1.2. Quan điểm của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ tăng cường pháp chế, xây dựng và bảo vệ Nhà nước XHCN trong tình hình mới.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
- Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước
- Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, tăng cường pháp chế
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
- Đấu tranh chống tham nhũng
2.2. Đảng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa trước yêu cầu lịch sử mới (2001 - 2003)
2.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa
- Kiện toàn hệ thống tổ chức Đảng gắn với cải cách, đổi mới tổ chức, bộ máy của các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức Đảng, đảng viên trong các cơ quan Nhà nước. Xác định rõ quyền và trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức, xây dựng cơ chế hoạt động, phối hợp, kiểm tra phù hợp và có hiệu quả.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo xây dựng và củng cố Nhà nước.
2.2.2. Củng cố các công cụ bạo lực của Nhà nước, đấu tranh làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
- Nhiệm vụ của Quốc phòng và an ninh trong tình hình mới
- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, lấy Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt
- Đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo, nhân quyền, chia rẽ dân tộc, dập tắt các “điểm nóng” an ninh; đẩy lùi một bước tệ nạn xã hội và tội phạm có tổ chức...
2.2.3. Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ độ