1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kỳ hình thức tổ chức bộ máy nhà nước nào, dù theo chế độ phân
quyền hay tập quyền, thì tư pháp vẫn được coi là một bộ phận cấu thành quyền
lực công, thể hiện quyền uy của Nhà nước đối với xã hội cũng như năng lực bảo
vệ công lý. V.I.Lênin đã từng khẳng định: Một nền tư pháp tồi, xã hội sẽ phải trả
một giá đắt. Luận điểm này cho thấy, công tác tư pháp luôn giữ vai trò quan
trọng trong các phương diện hoạt động của Nhà nước. Trong Thư gửi Hội nghị
Tư pháp toàn quốc lần thứ IV vào tháng 2 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng đã khẳng định: “Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của chính quyền góp
phần mình thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi của nhân dân,
bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Đồng thời, ngăn ngừa, trừng trị những kẻ âm mưu,
phá hoại chế độ, phá hoại lợi ích của nhân dân” [8, tr.10]. Công tác tư pháp trong
tiến trình cách mạng Việt Nam đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc. Bước vào công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, công tác tư
pháp càng được coi trọng, nó phản ánh tính dân chủ và pháp quyền, là công cụ
xây dựng một thể chế chính trị trong sạch, vững mạnh, dân chủ, bảo vệ công lý
và các quyền con người trong thế giới văn minh. Tuy nhiên chất lượng công tác
tư pháp chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường
hợp bỏ lọt tội phạm, còn án oan, án sai, vi phạm các quyền con người, quyền
công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và nền
pháp trị. Những thành tựu cũng như những hạn chế trong lĩnh vực tư pháp đều
lên quan đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của Đảng.
177 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1080 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN KHOA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 62 22 03 15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. ĐOÀN MINH HUẤN
2. PGS.TS. TRẦN TRỌNG THƠ
HÀ NỘI – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, chính
xác, đảm bảo khách quan, khoa học, có nguồn gốc xuất xứ rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Khoa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 6
1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án 6
1.2. Đánh giá kết quả các công trình đã được công bố và những vấn
đề luận án tập trung làm rõ 23
Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ
PHÁP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 26
2.1. Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp (2001- 2005) 26
2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ
tư pháp (2001 - 2005) 41
Chương 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ
PHÁP TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2011 64
3.1. Những nhân tố tác động và chủ trương của Đảng về xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp (2005 - 2011) 64
3.2 Quá trình chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
(2005 - 2011) 75
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 99
4.1. Nhận xét quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp từ năm 2001 đến năm 2011 99
4.2. Một số kinh nghiệm 124
KẾT LUẬN 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 171
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kỳ hình thức tổ chức bộ máy nhà nước nào, dù theo chế độ phân
quyền hay tập quyền, thì tư pháp vẫn được coi là một bộ phận cấu thành quyền
lực công, thể hiện quyền uy của Nhà nước đối với xã hội cũng như năng lực bảo
vệ công lý. V.I.Lênin đã từng khẳng định: Một nền tư pháp tồi, xã hội sẽ phải trả
một giá đắt. Luận điểm này cho thấy, công tác tư pháp luôn giữ vai trò quan
trọng trong các phương diện hoạt động của Nhà nước. Trong Thư gửi Hội nghị
Tư pháp toàn quốc lần thứ IV vào tháng 2 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng đã khẳng định: “Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của chính quyền góp
phần mình thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi của nhân dân,
bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Đồng thời, ngăn ngừa, trừng trị những kẻ âm mưu,
phá hoại chế độ, phá hoại lợi ích của nhân dân” [8, tr.10]. Công tác tư pháp trong
tiến trình cách mạng Việt Nam đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc. Bước vào công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, công tác tư
pháp càng được coi trọng, nó phản ánh tính dân chủ và pháp quyền, là công cụ
xây dựng một thể chế chính trị trong sạch, vững mạnh, dân chủ, bảo vệ công lý
và các quyền con người trong thế giới văn minh. Tuy nhiên chất lượng công tác
tư pháp chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường
hợp bỏ lọt tội phạm, còn án oan, án sai, vi phạm các quyền con người, quyền
công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và nền
pháp trị. Những thành tựu cũng như những hạn chế trong lĩnh vực tư pháp đều
lên quan đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của Đảng.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn quan tâm đến công tác cán bộ, trong đó chú trọng đến công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh. Đội ngũ cán bộ tư pháp đã có
bước phát triển mới về chất lượng và số lượng, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp đổi mới, song vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu
của đời sống xã hội. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
2
Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về “Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020”, nhận định: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ
nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí một số
cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp” [50, tr.1]. Bên
cạnh đó, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học vào nghiên cứu luật pháp quốc tế
phục vụ cho hoạt động xét xử của đội ngũ cán bộ tư pháp cũng còn hạn chế.Từ
đó dẫn tới tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử, xâm phạm và làm
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nhiều vấn đề liên quan
đến xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài, sỡ hữu trí tuệ, thương mại quốc tế,
các loại tội phạm hình sự xuyên quốc gia còn bất cập, khả năng sử dụng ngoại
ngữ, tin học vào nghiên cứu luật pháp quốc tế phục vụ cho hoạt động xét xử đối
với đội ngũ cán bộ tư pháp còn hạn chế. Đó là chưa kể yêu cầu xây dựng đạo
đức nghề nghiệp tư pháp cũng rất đặc thù, ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, đạo đức
của Đảng cầm quyền. Thực tế cho thấy, nếu như tham nhũng trong các lĩnh vực
lập pháp, hành pháp gây nhức nhối trong xã hội thì tham nhũng trong lĩnh vực tư
pháp thường bị đánh giá thiếu đạo đức hơn nhiều lần, do nó làm thay đổi cán cân
công lý, đụng chạm đến những quyền tư pháp của con người. Nghiên cứu nội
dung Đảng lãnh đạo công tác tư pháp, trong đó có lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ tư pháp làm sâu sắc thêm vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với
công cuộc đổi mới nói chung cũng như trong lĩnh vực tư pháp, trong xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp phục vụ công cuộc đổi mới.
Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, việc xây dựng được một đội
ngũ cán bộ tư pháp có trình độ, có năng lực toàn diện và phẩm chất tốt để giải
quyết tốt những yêu cầu xét xử do công cuộc cải cách tư pháp trong thời kỳ hội
nhập quốc tế là một yêu cầu bức thiết. Đến nay, vẫn còn thiếu những nghiên cứu
khoa học làm cơ sở cho những giải pháp thực sự rõ ràng, đồng bộ, hiệu quả để
thực hiện cải cách tư pháp. Đặc biệt với cơ chế quản lý cán bộ theo các ngành
hiện nay, bảo đảm đồng bộ hóa về chất lượng cán bộ tư pháp là điều rất khó
thực hiện. Trong khi đó, nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, trước hết và đột
3
phá phải bắt đầu từ nâng cao chất lượng cán bộ tư pháp. Muốn thực hiện đạt kết
quả tốt nhất, rất cần phải nghiên cứu có hệ thống quá trình Đảng lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp để có một cách nhìn toàn diện về thành công, hạn
chế, đúc kết những kinh nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn hiện nay.
Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ
tư pháp có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng trong quá trình nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Chính vì
vậy, tác giả chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến
sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Làm sáng rõ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội
ngũ cán bộ tư pháp, đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng đội
ngũ cán bộ tư pháp trong công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Làm rõ yêu cầu khách quan và những yếu tố tác động đến quá trình Đảng
lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011.
- Phân tích, luận giải, làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp qua hai giai đoạn: 2001-2005 và 2005- 2011.
- Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân từ quá trình Đảng lãnh đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn 2001-2011
- Đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án tập trung nghiên cứu tiến trình, chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện
xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến
năm 2011.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quan điểm, chủ trương và sự
chỉ đạo của Đảng về các mặt công tác đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn, bổ nhiệm;
chính sách đối với cán bộ tư pháp; kết quả và tác động của công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ đối với nền tư pháp cũng như với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Nội hàm cán bộ tư pháp bao gồm nhiều đối tượng, luận án tiếp cận đối
tượng cán bộ tư pháp là thẩm phán trong cơ quan Toà án và kiểm sát viên trong
cơ quan Viện kiểm sát.
- Về thời gian: Nghiên cứu quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011. Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh sử dụng một số tư liệu liên quan
trước năm 2001 và sau năm 2011.
- Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi cả nước, song, tập trung khảo
sát một số cơ quan đơn vị liên quan trực tiếp đến công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp ở Trung ương và một số địa phương.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng về tư pháp gắn với xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, về cán bộ và công tác cán bộ.
4.2. Nguồn tư liệu nghiên cứu
- Luận án khai thác một số tác phẩm kinh điển của C.Mác và V.I. Lênin;
đặc biệt các tác phẩm của Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước về
tư pháp và cán bộ tư pháp.
- Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI
của Đảng Cộng sản Việt Nam; các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương; các Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung
ương Đảng về công tác tư pháp và cải cách tư pháp; một số bộ luật, luật, pháp
lệnh, chỉ thị của Nhà nước và Chính phủ về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.
5
- Các kế hoạch, chương trình hành động; các đề án cụ thể; báo cáo tổng kết
của các cơ quan tư pháp như Toà án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp và của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, những
tổng kết của các cơ sở đào tạo cán bộ tư pháp.
- Các sách tham khảo, chuyên khảo, luận án, luận văn, hội thảo, kỷ yếu, đề
tài khoa học, các bài báo trên các tạp chí nghiên cứu đã công bố liên quan đến
xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị giúp việc
hoàn thành các nội dung nghiên cứu của luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc và kết
hợp chặt chẽ hai phương pháp đó. Đồng thời còn sử dụng một số phương pháp
phổ dụng khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... nhằm sáng tỏ những
vấn đề luận án đặt ra cần giải quyết.
5. Đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hoá chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp, qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Định dạng một số đặc trưng trong tiến trình lãnh đạo của Đảng đối với
xây dựng cán bộ tư pháp, một lĩnh vực phải giải quyết mâu thuẫn giữa bảo đảm
tính lãnh đạo thống nhất của Đảng với tôn trọng nguyên tắc độc lập tương đối
của lĩnh vực tư pháp.
- Phân tích, đánh giá, rút ra được các nhận xét, kết luận về Đảng lãnh đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp; tổng kết một số kinh nghiệm có ý nghĩa cho
vận dụng vào giai đoạn mới.
6. Bố cục của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội
dung của luận án gồm 4 chương 8 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Do vị trí, tầm quan trọng của vấn đề, trong những năm qua, giới khoa học
trong nước và ngoài nước đã nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể
phân chia thành các nhóm sau.
1.1.1. Nhóm nghiên cứu chung về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
- Các nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp gắn với cải cách tư
pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Cuốn “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” của Trần Đình Thắng [151] là công
trình nghiên cứu công phu, toàn diện dưới góc độ luật học về xây dựng đội ngũ
cán bộ tư pháp theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Bắt đầu từ trình bày
khái niệm, định dạng đặc điểm, phân loại, nhiệm vụ, quyền hạn, khái lược những
vấn đề lịch sử, phân tích thực trạng,... Công trình đã xác định những yêu cầu và
đề xuất giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam
Tác giả Đào Trí Úc trong cuốn “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” [183] đã đề cập đến khái niệm tư pháp, nhiệm vụ, nguyên
tắc cải cách tư pháp; đổi mới chế độ thẩm phán và đội ngũ thẩm phán; thực
trạng đội ngũ thẩm phán toà án nhân dân địa phương. Cuốn “Góp phần tìm
nghiên cứu Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền” của Bùi Ngọc Sơn [121] trong
trình bày những vấn đề chung về Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền, đã dành
một phần bài về toà án trong nhà nước pháp quyền với tính độc lập trong xét xử
trong hoạt động; vai trò độc lập toà án trong việc bảo đảm thực hiện các yêu cầu
nhà nước pháp quyền; yêu cầu tăng trách nhiệm và nâng cao chất lượng, quan
tâm đúng mức đời sống vật chất cho các thẩm phán.
7
Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí trong cuốn:“Cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” [27] đã đề cập một số
khía cạnh đáng quan tâm. Đây là công trình nghiên cứu về cải cách tư pháp từ
sau khi có Nghị quyết 08 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp. Công trình đã phân tích, khái quát một số vấn đề chung
trong cải cách tư pháp như mục tiêu, đối tượng, phương hướng và các giải pháp
cơ bản thực hiện của cải cách tư pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền; đặc
biệt đề cập đến lương tâm của người thẩm phán trong xét xử đảm bảo quyền con
người trong cải cách tư pháp.
Tác giả Nguyễn Đăng Dung trong cuốn “Thể chế tư pháp trong nhà
nước pháp quyền” [30] đã đi sâu làm rõ vị trí, vai trò của thể chế tư pháp trong
Nhà nước pháp quyền; thể chế tư pháp ở một số quốc gia và đặc biệt làm rõ một
số vấn đề thể chế tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến các vấn đề như: quá trình hình thành và phát
triển của hệ thống Toà án ở Việt Nam gắn liền với hoạt động của đội ngũ thẩm
phán, nghiên cứu nhiệm kỳ của thẩm phán, vấn đề thay thế chế định bầu cử thẩm
phán bằng bổ nhiệm theo Hiến pháp 1992, vấn đề tuyển chọn thẩm phán, vấn đề
trách nhiệm, nâng cao chất lượng, biện pháp ổn định công tác cho đội ngũ thẩm phán.
Tác giả Phạm Quý Tỵ với bài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà
án nhân dân” [147] đã khái quát mô hình toà án được tổ chức theo thẩm quyền
xét xử; đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử; phân định rõ ràng thẩm quyền quản
lý và thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan toà án; đặc biệt đề cập đến đổi mới
trình tự thủ tục bổ nhiệm thẩm phán theo hướng thẩm phán được bổ nhiệm dài
hạn, không theo nhiệm kỳ; Nhà nước cần phải đảm bảo về cơ sở vật chất, điều
kiện làm việc, chế độ đãi ngộ cho thẩm phán, tạo điều kiện để thẩm phán độc lập
khi xét xử.
Tác giả Trương Hoà Bình với bài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của
tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”
[6] đã khái quát thực trạng, những bất cập, hạn chế của đội ngũ cán bộ tư pháp
8
trong cơ quan Toà án nhân dân như số lượng, chất lượng, cơ cấu, biên chế. Đặc
biệt công trình đã đưa ra những định hướng lớn trong đổi mới hệ thống toà án
theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc đơn vị hành chính; làm rõ nguyên tắc
tổ chức, hoạt động và biên chế đội ngũ cán bộ của toà án sơ thẩm khu vực, Toà
án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm, Toà án tối cao, qua đó cũng kiến nghị về xây
dựng đội ngũ cán bộ cho phù hợp với từng loại toà án.
Nhóm công trình tiếp cận từ góc độ chính trị học hoặc luật học, bàn sâu
sắc các khía cạnh kỹ thuật tư pháp với những yêu cầu đặt ra cho đội ngũ cán bộ
tư pháp cả về phẩm chất và năng lực. Xây dựng cán bộ tư pháp trong các nghiên
cứu này gắn chặt với yêu cầu cải cách tư pháp theo đường lối, chủ trương của
Đảng. Tất nhiên, hạn chế của những nghiên cứu này là chưa cho thấy rõ tiến
trình lịch sử, vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư pháp, cơ sở lý thuyết của
các đề xuất này, thậm chí nhiều nghiên cứu chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi lý
thuyết cấu trúc quyền lực tư pháp trong các mô hình dân chủ phương Tây. Có
nghiên cứu lại bị ảnh hưởng nhiều cách tiếp cận của các lý thuyết về nhà nước
Xô-viết trước đây, sâu xa là nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, nên lĩnh vực
tư pháp nói chung và công chức tư pháp đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng
một cách xơ cứng.
- Các nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp.
Tác giả Đào Xuân Tiến với bài viết “Đào tạo thẩm phán” [145] đã khái
quát năng lực, trình độ chuyên môn của các thẩm phán. Tác giả nêu lên thực
trạng công tác đào tạo thẩm phán trước năm 2002 còn chồng chéo, nhiều cơ sở
đào tạo do nhiều cơ quan quản lý khác nhau; đưa ra hướng đổi mới như xây
dựng chương trình, đào tạo lại đội ngũ thẩm phán về chuyên môn nghiệp vụ và
bổ sung những kiến thức ngoại ngữ, tin học; kiến thức về sở hữu trí tuệ; tập
trung các cơ sở đào tạo thành một mối.
Bài viết “Về vấn đề đào tạo nguồn để bổ nhiệm các chức danh tư pháp ở
Việt Nam” của tác giả Phạm Mạnh Hùng [92] đã phân tích tính đặc thù của đào
9
tạo nguồn để bổ nhiệm đối với các chức danh tư pháp như thẩm phán, kiểm sát
viên; có so sánh với công tác đào tạo của một số nước; đặt ra yêu cầu chuyên
môn hoá của các ngành như đào tạo thẩm phán cần giao cho ngành toà án đảm
nhiệm và kiểm sát viên do ngành kiểm sát thực hiện.
Tác giả Nguyễn Hữu Hậu với bài viết “Một số suy nghĩ về định hướng đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm sát trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc
tế” [75] đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện đào tạo bồi dưỡng
cán bộ kiểm sát viên như sự chồng chéo giữa Học viện tư pháp với Trường Đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (nay là Đại học Kiểm sát); tình hình nhận thức
chưa đúng mức về công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát là “đào tạo
nghề”-một loại hình đào tạo đặc thù ngành kiểm sát; chưa có Hội đồng thẩm
định chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát chính thống
theo chuẩn quốc gia. Từ đó, tác giả đề xuất một số định hướng về công tác đào
tạo, bồi dưỡng; về xây dựng chương trình, hoàn chỉnh giáo trình cho từng loại
hình; về đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng; về củng cố phát triển đội ngũ giảng
dạy; về cải tạo, nâng cấp cơ sở, vật chất phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của tác giả Phan Chí Hiếu “Cơ sở lý
luận và thực tiễn xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp
đến năm 2020” [17] đã nêu lên cơ sở lý luận xây dựng Chiến lược đào tạo, bồi
dưỡng các chức danh tư pháp đến năm 2020. Trên cơ sở đó, đề tài khái quát thực
trạng đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp và hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ có chức danh tư pháp, đặc biệt nhấn mạnh đến đội ngũ thẩm phán và kiểm sát
viên như đội ngũ thẩm phán còn thiếu về số lượng; cơ cấu đội ngũ thẩm phán
chưa đảm bảo; chất lượng đội ngũ thẩm phán còn hạn chế về trình độ chuyên
môn, trình độ chính trị, trình độ ngoại ngữ tin học; đạo đức thẩm phán. Đề tài
khái quát thực trạng chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát các
hoạt động tư pháp; công tác đào tạo kiểm sát viên cũng có những bất cập như thay
đổi về tên gọi, chức năng nhiệm vụ của cơ sở đào tạ