Trong TTHS nước ta, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có vai trò rất quan
trọng đối với cả tiến trình giải quyết vụ án hình sự. Kết quả của giai đoạn điều tra
vụ án hình sự đóng vai trò quyết định đối với chất lượng, hiệu quả của hoạt động
buộc tội và là cơ sở, nền tảng để các chức năng TTHS khác trong các giai đoạn tố
tụng tiếp theo được tiến hành. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự với hoạt động tố
tụng chủ đạo là hoạt động của CQĐT, được đánh giá là giai đoạn tố tụng tiềm ẩn
nhiều nhất nguy cơ sai sót, vi phạm pháp luật, kể cả những sai sót, vi phạm pháp
luật nghiêm trọng dẫn đến việc truy cứu TNHS oan, sai.
182 trang |
Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 2592 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong TTHS nước ta, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có vai trò rất quan
trọng đối với cả tiến trình giải quyết vụ án hình sự. Kết quả của giai đoạn điều tra
vụ án hình sự đóng vai trò quyết định đối với chất lượng, hiệu quả của hoạt động
buộc tội và là cơ sở, nền tảng để các chức năng TTHS khác trong các giai đoạn tố
tụng tiếp theo được tiến hành. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự với hoạt động tố
tụng chủ đạo là hoạt động của CQĐT, được đánh giá là giai đoạn tố tụng tiềm ẩn
nhiều nhất nguy cơ sai sót, vi phạm pháp luật, kể cả những sai sót, vi phạm pháp
luật nghiêm trọng dẫn đến việc truy cứu TNHS oan, sai.
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS có chức năng, nhiệm vụ
THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT và các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Với chức năng, nhiệm vụ đó, VKS
giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn điều tra, đảm bảo tính pháp chế của hoạt động
điều tra, ngay từ khi khởi tố, bắt giữ người phạm tội, yêu cầu điều tra thu thập
chứng cứ cho đến khi kết thúc điều tra nhằm làm rõ toàn bộ sự thật khách quan của
vụ án, nhằm mục đích phát hiện nhanh chóng, chính xác, điều tra để truy tố mọi tội
phạm. Hoạt động THQCT và KSĐT của VKS hướng đến tính chính xác, khách
quan của quá trình chứng minh sự thật của vụ án hình sự thuộc phạm vi trách nhiệm
của CQĐT, bảo đảm việc truy cứu TNHS có căn cứ và hợp pháp, ngăn ngừa xảy ra
các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội.
Thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, từ khi có Nghị quyết
số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”, hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đã
có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng phê chuẩn việc bắt, tạm giữ, tạm giam,
phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can, kiểm sát các hoạt động điều tra ngày
càng nâng cao, đưa tỷ lệ bắt giữ xử lý hình sự đạt 96%, tỷ lệ truy tố đạt 98-99%;
2
hạn chế đáng kể các trường hợp phải đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội và
tòa án tuyên bị cáo vô tội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động THQCT và KSHĐTP trong
giai đoạn điều tra cũng như các hoạt động tiến hành tố tụng khác như điều tra, truy
tố, xét xử, còn có những hạn chế, yếu kém chung là còn được tiến hành theo nếp
cũ, chưa kịp đổi mới tư duy; nhiều thủ tục còn rườm rà, phức tạp làm cho quá
trình giải quyết vụ án chậm chạp, kéo dài, chi phí tiến hành tố tụng tốn kém; tình
trạng áp dụng BPNC bắt, tạm giam quá phổ biến; Chưa có sự phân định hợp lý
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng; Cơ chế đảm
bảo quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng còn bất cập, nhất là
quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Riêng đối với hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra còn có những
những hạn chế, yếu kém, trì trệ đặc thù như: kém năng động trong việc thực thi
nhiệm vụ quyền hạn – THQCT và KSHĐTP, mà pháp luật giao cho, thể hiện qua
việc quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can chưa đạt hiệu quả do hoạt động quản
lý tố giác, tin báo về tội phạm của VKS ở một số địa phương thụ động, lúng túng
về phương thức kiểm sát, dẫn đến nguy cơ bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; tình
trạng đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội còn xảy ra và có trường hợp rất
nghiêm trọng (theo Báo cáo Tổng kết công tác kiểm sát trong các năm 2004 –
2013, số vụ đình chỉ do bị can không phạm tội vẫn còn xảy ra, khoảng 0,14 %
tổng số án thụ lý khởi tố, điều tra hàng năm); chưa quản lý, chi phối chặt chẽ được
quá trình điều tra vụ án hình sự nên chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT và
KSHĐTP còn thấp, thể hiện qua tình trạng: còn có những trường hợp truy tố
không đúng, tòa án tuyên không phạm tội hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung phải
đình chỉ vụ án (theo số liệu của Cục Thống kê VKSNDTC, trong 10 năm qua, số
trường hợp VKS truy tố, tòa án tuyên không phạm tội là 532 trường hợp, đạt tỷ lệ
0,05% tổng số bị can bị khởi tố, điều tra); tình trạng trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ
sung thời gian qua đã phản ánh chất lượng hoạt động của CQĐT và VKS, tuy từng
bước đã được hạn chế nhưng chuyển biến còn chậm, số lượng vụ bị trả hồ sơ
3
nhiều lần mà vẫn chưa đủ chứng cứ kết tội bị cáo còn chiếm tỉ lệ cao trong tổng số
vụ án đã quyết định truy tố (trong 10 năm, tòa án các cấp trả hồ sơ cho VKS để
điều tra bổ sung là 22.262 vụ, chiếm tỷ lệ 3,8% trên tổng số 584.457 vụ VKS đã
truy tố. Số vụ án do tòa án cấp tỉnh các địa phương trả lại các đơn vị nghiệp vụ
của VKSND tối cao trong các năm 2008 và 2009 lên tới 44,5%); hiệu quả về mặt
xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của hoạt động thực thi chức năng,
nhiệm vụ của VKS trong điều tra vụ án hình sự chưa cao, thể hiện qua thực tế:
hoạt động KSĐT ở một số đơn vị kiểm sát còn mang tính hình thức, nặng về phát
hiện vi phạm có tính thủ tục mà chưa phân tích sâu để làm rõ bản chất vi phạm
pháp luật đó đã ảnh hưởng như thế nào đến tính khách quan, tính toàn diện của vụ
án để có thể kiến nghị CQĐT có biện pháp chấn chỉnh, khắc phục; công tác kiến
nghị phòng ngừa tội phạm ở cả ba cấp kiểm sát còn hạn chế, chưa gắn thống kê tội
phạm với việc phân tích tình hình tội phạm, các đặc điểm, đặc trưng, thủ đoạn của
từng loại tội phạm để tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong việc đề ra các biện
pháp phòng ngừa tội phạm một cách hiệu quả, gắn đấu tranh phòng, chống tội
phạm với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với những tồn tại, hạn chế nêu trên, hoạt động của VKS hiện nay
đang đứng trước nhiều thách thức lớn lao xuất phát từ những yếu cầu, đòi hỏi của
công cuộc đổi mới, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế, xã hội của Việt Nam theo
hương hội nhập kinh tế thế giới và toàn cầu hóa. Hệ lụy nghiêm trọng trước mắt
của những thách thức này là tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến phức tạp, khó
tiên liệu, dự báo với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm
tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt; tội phạm tham nhũng, gian lận thương mại vẫn là
những vấn nạn lớn chưa được ngăn chặn có hiệu quả; tội phạm có tổ chức, tội
phạm xuyên biên giới, đa quốc gia và tội phạm có yếu tố nước ngoài có xu hướng
gia tăng. Trước đòi hỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với HĐTP, VKS
phải thực sự là chuẩn mực của việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, và là chỗ dựa
tin cậy của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đấu tranh
phòng chống có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm pháp luật.
4
Trước yêu cầu khách quan đó và do chính vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng
của giai đoạn điều tra, của hoạt động điều tra đối với cả tiến trình TTHS, việc đổi
mới hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trở nên cấp thiết và
được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công cuộc cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về cải cách tư
pháp đều nhấn mạnh đến việc nâng cao trách nhiệm của VKS trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/2/2002 của Bộ Chính trị về
“Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”, đã nhấn
mạnh “Hoạt động công tố phải được tiến hành ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự
và trong suốt quá trình tố tụng”. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2010 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” và
Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đều chỉ rõ: “Tăng cường trách
nhiệm của VKS trong hoạt động điều tra; xây dựng cơ chế công tố gắn với hoạt
động điều tra”.
Để thực hiện các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, khắc phục
những tồn tại, hạn chế các hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự, về phương diện lý luận đã đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu như đổi mới việc
thực hiện hoạt động THQCT theo phương hướng gắn với hoạt động điều tra; đổi
mới phương thức KSĐT ngay từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và
trong suốt quá trình điều tra, nhằm bảo đảm không để lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp
luật; góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ chức Việt Nam XHCN.
Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của đấu tranh phòng, chống tội
phạm, của cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, tác
5
giả chọn vấn đề “Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự theo
yêu cầu cải cách tư pháp” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Từ thực tiễn công tác kiểm sát cho thấy số lượng vụ án thuộc thẩm quyền
thụ lý của TAND các cấp chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu thụ lý án hình sự chung
của các CQĐT. Điều này kéo theo hoạt động điều tra và hoạt động THQCT và
KSHĐTP trong giai đoạn điều tra do CQĐT thuộc lực lượng Công an nhân dân và
VKSND thực hiện là chủ yếu trong thực trạng điều tra, truy tố nói chung. Nhằm
đạt được tính đại diện, tiêu biểu của kết quả và sự thuận lợi trong nghiên cứu, tác
giả luận án chọn đối tượng nghiên cứu là hoạt động của VKSND theo qui định của
BLTTHS năm 2003 trong điều tra vụ án hình sự. Đây là hoạt động nhằm thực hiện
chức năng THQCT, KSHĐTP trong giai đoạn điều tra được tiến hành bởi người
tiến hành tố tụng của VKS.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, luận án nghiên cứu hoạt động của VKSND trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự, từ khi vụ việc vi phạm pháp luật bị CQĐT trong lực lượng
Công an nhân dân hoặc bị cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền khởi động
hoặc tái khởi động tiến trình điều tra vụ án hình sự bằng các quyết định khởi tố vụ
án, điều tra bổ sung, phục hồi điều tra, điều tra lại đến khi CQĐT hoàn thành
nhiệm vụ điều tra bằng việc kết luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc quyết định đình
chỉ điều tra vụ án.
Về thời gian, luận án khảo sát thực trạng hoạt động của VKS trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự từ năm 2004 (năm BLTTHS năm 2003 có hiệu lực)
đến 2013 (thời điểm 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003), nhằm đảm bảo tính
sâu sắc, toàn diện cho việc nghiên cứu.
Về không gian, luận án nghiên cứu hoạt động của VKS trên địa bàn toàn quốc,
nhưng có chú trọng ở một số địa bàn trọng điểm, có số lượng án hình sự thụ lý hàng
năm lớn nhất Việt Nam, mang nhiều sắc thái tiêu biểu của tình hình đấu tranh phòng,
6
chống tội phạm như: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí
Minh và tỉnh Đồng Nai.
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt động của VKS trong điều tra
vụ án hình sự; từ đó tạo cơ sở cho việc nhận thức thống nhất về chức năng, nhiệm
vụ, vị trí, vai trò của VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu
cải cách tư pháp.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu
của cán bộ giảng dạy, sinh viên trong các Trường đại học Luật, các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng các chức danh tư pháp như Học Viện tư pháp, Trường đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ kiểm sát hoặc sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người
quan tâm, nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố Việt Nam trong
điều tra hình sự.
Những kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể dùng tham khảo trong
quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của
VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như Luật tổ chức VKS, BLTTHS,
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự...
4. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần tổng quan tình hình và kết quả nghiên cứu liên
quan đến luận án, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
kết quả nghiên cứu được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về hoạt động của viện kiểm sát trong điều tra
vụ án hình sự.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong điều tra vụ án hình sự.
Chương 3: Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của viện kiểm sát
trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp.
7
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH VÀ
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của VKS trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự để tăng cường khả năng phát hiện và xử lý hiệu quả các loại
tội phạm, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, quyền con người trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự luôn dành được sự quan tâm của các học giả trong và ngoài nước, và
được tranh luận ở nhiều diễn đàn khoa học.
1. T nh h nh nghiên cứu nƣ c ngoài
Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố trong hệ thống
pháp luật của các quốc gia trên thế giới cũng như vấn để hoàn thiện nó không phải
là vấn đề mới. Tuy nhiên việc nghiên cứu thực tiễn và lý luận để nâng cao hiệu
quả hoạt động của cơ quan công tố, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giữ
vững trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh yếu tố quốc tế ngày càng trở nên quan
trọng và được mở rộng trong nền tư pháp của từng quốc gia như các mục tiêu: hợp
tác kinh tế, chính trị, xã hội, quốc tế; phòng chống tội phạm xuyên biên giới, mở
rộng dân chủ, đảm bảo tốt hơn quyền con người, chống nghèo đói,là các vấn đề
được quan tâm, chú trọng thảo luận trong các diễn đàn pháp lý quốc tế. Chức
năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của cơ quan công tố trong TTHS của một số quốc
gia tiêu biểu cho những hệ thống pháp luật hiện đại đều được thể hiện một cách
tập trung, rõ ràng nhất tại các BLTTHS của các quốc gia này. Do vậy, việc nghiên
cứu về các cơ quan công tố nước ngoài nhằm tìm kiếm những giá trị tiến bộ, phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam khi giải quyết các yêu cầu, đòi
hỏi của tiến trình cải cách tư pháp thì không thể không nghiên cứu BLTTHS nước
ngoài. Qua nghiên cứu BLTTHS của Liên bang Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc,... có thể kết luận được rằng ở một số quốc gia có sự thay đổi chế độ chính
trị trong thập niên 1990 đặc biệt là Nga; hoặc ở một số quốc gia đã tiến hành cải
cách tư pháp để đẩy mạnh cải cách kinh tế, củng cố chính trị, trật tự an toàn xã hội
sau chiến tranh nhằm chấn hưng đất nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc,Trung Quốc,
8
Việt Nam,việc cải cách các cơ quan công tố - một bộ phận của cải cách tư pháp,
đã làm xuất hiện một hình thức tổ chức và hoạt động mới của cơ quan công tố nói
riêng và mô hình TTHS nói chung đó là mô hình TTHS kết hợp. Đó là mô hình
TTHS có sự kết hợp các ưu điểm của hai mô hình TTHS tranh tụng và thẩm vấn
trên cơ sở điều kiện riêng biệt về địa lý, chính trị, xã hội, văn hóa, truyền thống
tiến hành TTHS và mục tiêu phát triển của từng quốc gia. Đây có thể xem là một
kinh nghiệm quí, một hướng cải cách tư pháp khả thi vì có thể phù hợp với các
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Các nghiên cứu về hoạt động của viện công tố/ VKS trong điều tra hình sự
ở nước ngoài, đặc biệt là việc nghiên cứu BLTTHS của một số nước cùng với việc
nghiên cứu các ý kiến đánh giá tổng quan của một số học giả nước ngoài thể hiện
qua các trang thông tin điện tử là hoạt động nghiên cứu có giá trị rất quan trọng
trong việc xây dựng và đề xuất các phương hướng, biện pháp hoàn thiện về pháp
luật, chế độ chính sách đối với cán bộ tư pháp. Tuy nhiên, các kinh nghiệm có
được từ việc nghiên cứu pháp luật nước ngoài nói chung đều có điểm hạn chế là
tính tương thích, phù hợp đối với điều kiện, hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội,
truyền thống pháp luật của Nhà nước ta không phải ở khía cạnh, vấn đề nào cũng
đạt được mà đòi hỏi sự chọn lọc, biến đổi nhất định. Trên thế giới hiện nay, không
có nước nào có cơ quan công tố/ VKS với tư cách như là một hệ thống cơ quan
độc lập và phục vụ cho chính thể nhất nguyên như ở Việt nam; Hệ thống cơ quan
công tố, VKS ở một số nước tuy có nhiều điểm tương đồng hoặc về văn hóa, hoặc
về truyền thống pháp luật, hoặc về các mục tiêu chính trị, kinh tế, nhưng chỉ có giá
trị tham khảo khi nghiên cứu để chọn lọc những giá trị tốt đẹp nhằm tìm kiếm và
xây dựng các phương hướng và hoàn thiện theo yêu cầu cải cách tư pháp, như:
Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc,đã thực
hiện. Cũng cần chú ý hạn chế xu hướng trọng vọng các yếu tố nước ngoài trong
khoa học pháp lý, nên việc đề xuất sửa đổi chính sách, pháp luật cần phải thận
trọng và phải được đặt dưới tiêu chí đánh giá quan trọng, là sự phù hợp với điều
kiện chính trị, kinh tế xã hội và truyền thống pháp luật Việt Nam.
9
Tuy nhiên, với sự hạn chế thường thấy của việc nghiên cứu trong nước,
nghiên cứu sinh không có nhiều cơ hội tiếp cận trực tiếp với các công trình nghiên
cứu chuyên sâu ở nước ngoài liên quan đến đề tài. Cơ hội tiếp xúc, nghiên cứu
trực tiếp với các nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài của nghiên cứu sinh là
việc tham dự khóa học ngắn hạn do United Nations Asia and Far East Institute
(UNAFEI) tổ chức tại Nhật bản trong năm 2009 về vấn đề "Luật và Đạo đức nghề
nghiệp của Thẩm phán, Công tố viên và các nhân viên thực thi pháp luật" (Ethics
and Codes of Conduct for Judges, Prosecutors and Law Enforcement Officers).
Kiến thức và kinh nghiệm có được từ các giảng viên đến từ Nhật, Pháp, Mỹ, Hàn
Quốc có giá trị tham khảo rất lớn khi nghiên cứu, đề xuất các phương hướng, giải
pháp nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của VKS, đặc biệt là các giải pháp
liên quan đến yếu tố con người; Việc tham gia các hội thảo khoa học về cải cách
tư pháp, sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 do Viện khoa học kiểm sát tổ chức
dưới sự tài trợ của tổ chức SIDA trong năm 2012; tham gia hội thảo phòng, chống
tiêu cực trong HĐTP - Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới do Bộ tư pháp
tổ chức ngày 03/4/2014 dưới sự tài trợ của Chương trình đối tác tư pháp Liên
minh Châu Âu, cũng là nguồn tài liệu nghiên cứu rất có giá trị trong việc định
hình, xây dựng và hình thành thế giới quan khoa học của tác giả đối với các vấn
đề nghiên cứu của đề tài.
2. T nh h nh nghiên cứu Việt Nam
Về các công trình nghiên cứu lớn như đề tài khoa học cấp bộ của tập thể
các tác giả (Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện khoa học VKSND tối cao, Hà
Nội, 1999), đã đề cập đến các vấn đề lớn, cơ bản, nền tảng của không chỉ hoạt
động của VKS trong TTHS mà còn của tất cả các hoạt động TTHS khác. Công
trình nghiên cứu này đa dạng, phức tạp, đó là sự tổng hợp rất rộng các quan điểm
khoa học TTHS đối với chức năng, nhiệm vụ của VKS không chỉ trong giai đoạn
điều tra mà cả trong tiến trình TTHS với nhiều ý kiến mâu thuẫn, trái chiều, đòi
hỏi người đọc phải có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học nhất định mới có khả
năng có được nhận định, đánh giá, chính xác. Mặt khác, các quan điểm khoa học
10
TTHS này xuất hiện trên cơ sở sự kế thừa các quan điểm của nền khoa học pháp
lý ở các nước Đông Âu trước đây, được thể hiện qua lăng kính yêu cầu “đổi mới”
của Việt Nam thập niên 90 thế kỷ XX nên còn nhiều điểm chưa phù hợp với xu
hướng hội nhập và học hỏi lẫn nhau về ưu điểm giữa các truyền thống pháp luật
thể hiện khá phổ biến trong các quan điểm về cải cách, đổi mới trong khoa học
hình sự, TTHS hiện nay; Các công trình nghiên cứu có nhiều ảnh hưởng đến đề tài
như: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra của Lê Hữu Thể và các tác giả năm 2008; Tăng cường trách nhiệm của
công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học
cấp bộ, Hà Nội, 2008; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục
TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, 2011; Một số
vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp của Nguyễn Hải Phong và
các tác giả.