Luận án Khai thác và tập luyện cho học sinh các hoạt động nhằm phát triển khả năng chiếm lĩnh tri thức trong dạy học đại số - Giải tích ở bậc trung học phổ thông

“Dạy toán là dạy hoạt động Toán học” [165] là một luận điểm đã được thừa nhận. Luận điểm này có thể được hiểu như sau: Muốn dạy Toán có hiệu quả thì nhất thiết phải cho học sinh hoạt động, chỉ bằng con đường đó mới có thể làm cho học sinh nắm bắt được tri thức một cách vững vàng. Luận điểm này cũng hoàn toàn phù hợp với một câu thành ngữ của người Trung Quốc: “Anh nghe thì anh quên, anh nhìn thì anh nhớ, anh làm thì anh hiểu”. Trong Tâm lý học cũng có những khẳng định tương tự, chẳng hạn: Năng lực chỉ có thể được hình thành và phát triển thông qua hoạt động. Tâm lý học và Lí luận dạy học hiện đại khẳng định, con đường có hiệu quả nhất để làm cho học sinh nắm vững kiến thức và phát triển được năng lực sáng tạo, là phải đưa học sinh vào vị trí của chủ thể HĐ nhận thức, thông qua HĐ tự lực, tự giác, tích cực của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển năng lực sáng tạo. Định hướng đổi mới PPDH hiện nay cũng lấy các luận điểm đó làm nền tảng. Tuy nhiên, vì những lí do khác nhau cho nên không phải giáo viên nào cũng biết và hiểu rõ luận điểm đó. Vì vậy, đã và đang tồn tại cách dạy theo lối truyền thụ một chiều. Đối với họ, giảng giải các kiến thức Toán học một cách chi tiết rồi sau đó cho học sinh áp dụng xem như là đủ. Có người không tin vào điều này nhưng cũng không thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó, bởi vì nó đụng chạm đến thời gian, suy ngẫm, chuẩn bị bài và cả tình hình thực tế về mức độ tiếp thu của học sinh

pdf251 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1602 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Khai thác và tập luyện cho học sinh các hoạt động nhằm phát triển khả năng chiếm lĩnh tri thức trong dạy học đại số - Giải tích ở bậc trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH --------***-------- NGUYỄN HỮU HẬU KHAI THÁC VÀ TẬP LUYỆN CHO HỌC SINH CÁC HOẠT ĐỘNG NHẰM PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG CHIẾM LĨNH TRI THỨC TRONG DẠY HỌC ĐẠI SỐ - GIẢI TÍCH Ở BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC VINH - 2012 Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH --------***-------- NGUYỄN HỮU HẬU KHAI THÁC VÀ TẬP LUYỆN CHO HỌC SINH CÁC HOẠT ĐỘNG NHẰM PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG CHIẾM LĨNH TRI THỨC TRONG DẠY HỌC ĐẠI SỐ - GIẢI TÍCH Ở BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học Bộ môn Toán Mã số: 62. 14. 10. 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Nguyễn Văn Thuận 2. PGS. TS. Ngô Hữu Dũng VINH - 2012 Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án Nguyễn Hữu Hậu Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN Viết tắt Viết đầy đủ Viết tắt Viết đầy đủ PP Phương pháp CNTT Công nghệ thông tin PPDH Phương pháp dạy học QTDH Quá trình dạy học DH Dạy học HT Học tập GV Giáo viên VĐ Vấn đề HS Học sinh GQVĐ Giải quyết vấn đề SGK Sách giáo khoa PTTQ Phương tiện trực quan HĐPP Hoạt động phê phán CH Câu hỏi TT Tri thức GTLN Giá trị lớn nhất THPT Trung học phổ thông BPT Bất phương trình DĐ Dự đoán PT Phương trình SLCL Suy luận có lí LT Liên tưởng CLTT Chiếm lĩnh tri thức GTNN Giá trị nhỏ nhất HĐ Hoạt động ĐN Định nghĩa BT Bài toán ĐL Định lí TN Thực nghiệm BĐT Bất đẳng thức ĐC Đối chứng Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 5 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. “Dạy toán là dạy hoạt động Toán học” [165] là một luận điểm đã được thừa nhận. Luận điểm này có thể được hiểu như sau: Muốn dạy Toán có hiệu quả thì nhất thiết phải cho học sinh hoạt động, chỉ bằng con đường đó mới có thể làm cho học sinh nắm bắt được tri thức một cách vững vàng. Luận điểm này cũng hoàn toàn phù hợp với một câu thành ngữ của người Trung Quốc: “Anh nghe thì anh quên, anh nhìn thì anh nhớ, anh làm thì anh hiểu”. Trong Tâm lý học cũng có những khẳng định tương tự, chẳng hạn: Năng lực chỉ có thể được hình thành và phát triển thông qua hoạt động. Tâm lý học và Lí luận dạy học hiện đại khẳng định, con đường có hiệu quả nhất để làm cho học sinh nắm vững kiến thức và phát triển được năng lực sáng tạo, là phải đưa học sinh vào vị trí của chủ thể HĐ nhận thức, thông qua HĐ tự lực, tự giác, tích cực của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển năng lực sáng tạo. Định hướng đổi mới PPDH hiện nay cũng lấy các luận điểm đó làm nền tảng. Tuy nhiên, vì những lí do khác nhau cho nên không phải giáo viên nào cũng biết và hiểu rõ luận điểm đó. Vì vậy, đã và đang tồn tại cách dạy theo lối truyền thụ một chiều. Đối với họ, giảng giải các kiến thức Toán học một cách chi tiết rồi sau đó cho học sinh áp dụng xem như là đủ. Có người không tin vào điều này nhưng cũng không thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó, bởi vì nó đụng chạm đến thời gian, suy ngẫm, chuẩn bị bài và cả tình hình thực tế về mức độ tiếp thu của học sinh. 1.2. Các cơ sở Lí luận dạy học đã khẳng định rằng “Tri thức không phải là cái dễ dàng cho không” [74, tr. 127]. Để dạy một tri thức nào đó, thầy giáo thường không thể trao ngay cho học sinh điều thầy muốn dạy; cách làm tốt nhất thường là cài đặt tri thức đó vào những tình huống thích hợp để học sinh chiếm lĩnh nó thông qua hoạt động tự giác, tích cực và sáng tạo của bản thân. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 6 Thực tiễn sư phạm đã khẳng định tính đúng đắn của nhận định này. Chẳng phải những mong muốn của thầy về sự tiếp thu của học sinh đều trở thành hiện thực. Điều này cho thấy rằng, truyền thụ được tri thức cho học sinh là việc làm không dễ nếu không có cách thức và con đường đúng đắn. Để học sinh chiếm lĩnh được các tri thức Toán học một cách chắc chắn thì con đường hợp lí nhất là tạo ra tình huống dạy học sao cho học sinh phát huy được sự chủ động tối đa trong chừng mực có thể. Không thể nào có một sự chiếm lĩnh tốt thông qua con đường thụ động. 1.3. “Hoạt động” là một khái niệm rất phổ biến; những nghiên cứu cấu trúc của hoạt động đã có tương đối nhiều thế nhưng trong từng hoàn cảnh khác nhau thì các dạng thức HĐ, các cấp độ HĐ, các ý nghĩa của từng loại HĐ,... còn cần và có thể được nghiên cứu thêm. Ngay trong nội bộ môn Toán cũng vậy, dù đã có nhiều công trình, chẳng hạn của Nguyễn Bá Kim, đề cập khá kĩ về các dạng HĐ, nhưng hoàn toàn có thể được nghiên cứu sâu hơn nữa để bổ sung tìm kiếm các dạng HĐ khác. 1.4. Đã có những công trình đề cập đến hoạt động ở các mức độ khác nhau và bình diện khác nhau nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu việc khai thác và tập luyện cho học sinh các hoạt động nhằm nâng cao khả năng chiếm lĩnh tri thức. Hơn nữa, kể từ năm 2008, Chương trình và SGK Phân ban THPT sẽ được đưa vào sử dụng chính thức đến lớp 12. Một trong những sự cải tiến đáng kể so với Chương trình và SGK trước đây đó là những hoạt động được đặt ra cho học sinh. Tuy nhiên, như các tác giả SGK đã nói thì, những hoạt động được nêu trong SGK chỉ mang tính chất gợi ý mà thôi, còn trong những hoàn cảnh cụ thể thì người giáo viên cần có sự bổ sung và điều chỉnh sao cho phù hợp. Trên tinh thần đó, giáo viên thiết kế và tập luyện cho học sinh những HĐ để họ chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động và hiệu quả. Tuy nhiên trong hoàn cảnh cụ thể của nhà trường và HS hiện nay, nhiều khi cần phải có sự trợ giúp nhiều hay ít của GV. Thậm chí, có khi GV phải sử dụng cả việc thông báo, giảng giải minh họa để giúp HS có thể vượt qua những chỗ quá khó, để rồi tiếp tục HĐ tự lực ở giai đoạn tiếp theo một cách có hiệu quả. Chính vì vậy rất cần nghiên cứu kĩ VĐ này. 1.5. Theo định hướng đổi mới PPDH người ta đề cao tính tích cực độc lập sáng tạo của học sinh. Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 7 Phương pháp dạy học có đặc điểm riêng khác biệt với PP tác động của con người lên các đối tượng vô tri trong HĐ sản xuất vật chất nói chung. Đối với việc dạy học, GV là một chủ thể của HĐ dạy học, HS là đối tượng của sự dạy và do đó là đối tượng của HĐ dạy, nhưng đồng thời HS là chủ thể của sự học và do đó cũng là một chủ thể của HĐ dạy học [146, tr. 135]. HĐ dạy học này có đối tượng là cái mà HS cần học. Để đạt được mục đích dạy học được vạch ra bởi giáo viên, GV phải tổ chức tài liệu dạy, tức là phải tác động lên, tư liệu của HĐ dạy học, nhưng đồng thời, và cũng rất quan trọng là, GV phải tác động tới HS sao cho HS tự xác định được mục đích HĐ của mình (phù hợp với mục đích DH), dẫn tới những hành động tương ứng của HS và đạt tới kết quả phù hợp với mục đích được vạch ra bởi GV [146]. Bởi vậy đối với HĐ dạy học, việc suy nghĩ, thảo luận về PPDH gắn liền với sự suy nghĩ, thảo luận về việc tổ chức tình huống học tập và định hướng HĐ nhận thức của HS bởi GV. Phải giải đáp CH sau: GV thực hiện chức năng tổ chức, kiểm tra định hướng hoạt động của HS như thế nào? Nói cách khác là, GV cần tổ chức tình huống như thế nào để dẫn tới sự thích ứng của HS? Định hướng hành động tự chủ của HS như thế nào để HĐ dạy đạt hiệu quả tối ưu? Mặc dù có nhiều định nghĩa về PPDH, nhưng có thể hiểu, về bản chất, PPDH là một hệ thống các hành động có mục đích của GV tổ chức HĐ trí óc và tay chân của HS, đảm bảo cho HS chiếm lĩnh được nội dung DH, đạt được mục tiêu xác định. Một cách trực giác, thuật ngữ “chiếm lĩnh” ít nhiều nói lên trạng thái có tính nỗ lực, mang phong cách chủ động trong quá trình trong quá trình tiếp cận TT. Từ những sự phân tích trên đây, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu của Luận án là: “Khai thác và tập luyện cho học sinh các hoạt động nhằm phát triển khả năng chiếm lĩnh tri thức trong dạy học Đại số - Giải tích ở bậc THPT”. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là nghiên cứu phương thức khai thác và tập luyện cho học sinh THPT những hoạt động trong quá trình dạy học Đại số - Giải tích, nhằm phát triển ở họ khả năng chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động và hiệu quả. 3. Giả thuyết khoa học Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 8 Nếu quan tâm đúng mức và tiến hành hợp lí việc khai thác, tập luyện cho học sinh THPT những HĐ trong quá trình dạy học Đại số - Giải tích thì sẽ phát triển được ở họ khả năng CLTT, góp phần nâng cao chất lượng dạy học toán ở trường THPT. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án có nhiệm vụ giải đáp các câu hỏi khoa học sau đây: 4.1. Nội hàm khái niệm chiếm lĩnh tri thức được hiểu ra sao và trong môn Toán có những cấp độ nào để chiếm lĩnh tri thức? Những dạng tri thức nào cần phải quan tâm khai thác và tập luyện cho học sinh; ý nghĩa của từng loại tri thức? 4.2. Vì sao phải tập luyện các hoạt động thì mới có thể hình thành và phát triển được kĩ năng, kiến thức và tư duy? Các dạng hoạt động trong môn Toán? 4.3. Tình hình thực tế của việc tập luyện cho học sinh các hoạt động trong dạy học Toán là như thế nào? Những định hướng nào cần thực hiện trong quá trình khai thác, tập luyện các hoạt động cho học sinh? Hiện thực hoá những định hướng đó vào tình huống cụ thể như thế nào? Kết quả thực nghiệm sư phạm ra sao? 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu lí luận: tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước về các vấn đề có liên quan đến đề tài luận án. 5.2. Điều tra, quan sát: điều tra, khảo sát thực trạng của việc khai thác và tổ chức cho HS các hoạt động chiếm lĩnh tri thức trong dạy học môn Toán bằng phiếu. Phỏng vấn, tọa đàm với giáo viên để thu thập thông tin về thực hiện đổi mới PPDH, vấn đề sử dụng các hoạt động chiếm lĩnh tri thức trong QTDH Đại số - Giải tích. 5.3. Thực nghiệm sư phạm: tổ chức thực nghiệm sư phạm để xem xét tính khả thi và hiệu quả của các định hướng đã đề xuất. 6. Cái mới và đóng góp của Luận án 6.1. Về mặt lý luận 6.1.1. Đã xác định được (kèm theo những lý giải xác đáng) các dạng hoạt động chiếm lĩnh tri thức trong dạy học Đại số - Giải tích nói riêng và dạy học toán nói chung, đưa ra những lưu ý cần thiết khi vận dụng các hoạt động này trong QTDH; Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 9 6.1.2. Trên cơ sở phân tích đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực đã đưa ra nội hàm khái niệm chiếm lĩnh tri thức, các cấp độ CLTT của học sinh; những thể hiện của sự CLTT trong dạy học toán. 6.1.3. Đã đưa ra những định hướng nhằm góp phần phát triển khả năng chiếm lĩnh tri thức cho HS trong dạy học Đại số - Giải tích. Không chỉ dừng lại ở việc đề xuất mà còn hiện thực hoá việc thực hiện các định hướng (theo hướng tích cực hoá HĐ của HS - phù hợp với định hướng đổi mới PPDH Toán trong giai đoạn hiện nay), nói cách khác, luận án rất quan tâm đến phương thức dẫn dắt, lôi cuốn một cách hợp lý để HS tham gia tích cực vào quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề. 6.2. Về mặt thực tiễn Có thể sử dụng luận án để làm tài liệu tham khảo cho giáo viên Toán nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán ở trường THPT. 7. Những luận điểm đưa ra bảo vệ 7.1. Các dạng hoạt động chiếm lĩnh tri thức, những lưu ý cần thiết khi thực hiện các hoạt động này trong quá trình dạy học, các hoạt động đó mang ý nghĩa lí luận và thực tiễn; 7.2. Các định hướng để khai thác và tập luyện các hoạt động cho học sinh góp phần nâng cao khả năng chiếm lĩnh tri thức Toán học trong dạy học Đại số - Giải tích (đề xuất trong luận án) là khả thi và hiệu quả; 7.3. Trong khi thực hiện các định hướng, đã quan tâm hợp lý đến việc tăng cường hoạt động, bồi dưỡng năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề cho học sinh; 8. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận án có ba chương: Chương 1: Những vấn đề về cở sở lí luận và thực tiễn Chương 2: Những định hướng để khai thác, tập luyện các hoạt động cho học sinh nhằm nâng cao khả năng chiếm lĩnh tri thức Toán học Chương 3: Thực nghiệm sư phạm Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 10 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Quan điểm về hoạt động trong tâm lí học và Giáo dục học hiện đại Hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Theo tâm lý học Macxit, cuộc sống con người là một dòng HĐ, con người là chủ thể của các HĐ thay thế nhau. HĐ là quá trình con người thực hiện các quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên, xã hội. Đó là quá trình chuyển hóa năng lực lao động và các phẩm chất tâm lý khác của bản thân vào sự vật, vào thực tế và quá trình ngược lại là quá trình tách những thuộc tính của sự vật, của thực tế quay trở về với chủ thể, biến thành vốn liếng tinh thần của chủ thể. Như vậy, trong HĐ, con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế giới, vừa tạo ra tâm lý của chính mình. Có thể nói tâm lý của con người chỉ có thể được bộc lộ, hình thành trong HĐ và thông qua HĐ. Các đặc điểm của HĐ bao gồm: - Hoạt động bao giờ cũng có đối tượng: Hoạt động như đã ĐN trên là quá trình tác động vào thế giới cho nên nó là HĐ có đối tượng. Bản thân khái niệm HĐ đã bao hàm cả đối tượng của HĐ. Ví dụ: HĐ học tập có đối tượng là các TT, kĩ năng. HĐ học tập là nhằm vào TT, kỹ năng, kỹ xảo để biết, hiểu, tiếp thu và đưa vào vốn kinh nghiệm của bản thân, tức là lĩnh hội các TT, kỹ năng, kỹ xảo ấy. - Hoạt động bao giờ cũng do chủ thể tiến hành: Giáo viên là chủ thể của HĐ dạy học. HS là chủ thể của HĐ học tập. Chủ thể có khi là một người, có khi là một số người. Chẳng hạn, GV tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo HĐ dạy và HĐ học. HS thực hiện HĐ học, tức là giáo viên và HS cùng nhau tiến hành một HĐ để đi đến một sản phẩm là nhân cách học sinh. - Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp: Trong HĐ lao động người ta dùng công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao động. Công cụ lao động giữ vai trò trung gian giữa chủ thể lao động và đối tượng lao động, tạo ra tính chất gián tiếp trong HĐ lao động. Tương tự như vậy, tiếng nói, chữ viết, con số và các hình ảnh tâm lý khác là công cụ tâm lý được sử dụng để tổ chức, điều khiển thế giới tinh thần ở mỗi con người. Công cụ lao động và công cụ tâm lý đều giữ chức năng trung Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 11 gian trong HĐ và tạo ra tính chất gián tiếp của hoạt động. - Hoạt động bao giờ cũng có mục đích nhất định: Trong mọi HĐ của con người, tính mục đích nổi lên rõ rệt. Mục đích của HĐ thường là tạo ra sản phẩm có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với việc thõa mãn nhu cầu của chủ thể. Tính mục đích gắn bó chặt chẽ với tính đối tượng. Khi có đối tượng của HĐ, chủ thể theo đích đó mà hướng tới. 1.1.1. Lý thuyết HĐ tâm lý của A. N. Leonchev Tất cả các HĐ đều cùng có một cấu trúc chung. Qua nghiên cứu, nhà tâm lý học A.N. Leonchiev đã nghiên cứu, đi đến kết luận quan trọng là “HĐ là bản thể của tâm lý”. Bằng HĐ và thông qua HĐ mỗi người tự sinh thành ra mình, tạo dựng và phát triển ý thức của mình. Cống hiến to lớn của A. N. Leonchiev là chỉ ra bản chất của tâm lý, với các luận điểm: Hoạt động là bản thể của tâm lý; tâm lý, ý thức là sản phẩm của HĐ và làm khâu trung gian để con người tác động vào đối tượng; các hiện tượng tâm lý đều có bản chất hoạt động. A. N. Leonchiev đã chỉ ra được quan hệ giữa tâm lý và HĐ là quan hệ giữa một bên là động cơ, mục đích, điều kiện và một bên là HĐ, hành động, thao tác [86]. Sáu thành tố vừa kể trên cùng với mối quan hệ qua lại giữa chúng tạo thành cấu trúc vĩ mô của HĐ, mà nhờ đó xây dựng được PP tiếp cận HĐ. Khái niệm HĐ gắn liền một cách tất yếu với khái niệm động cơ. Không có HĐ nào không có động cơ; HĐ “không động cơ” không phải là HĐ thiếu động cơ mà là HĐ với một động cơ ẩn giấu về mặt chủ quan và về mặt khách quan” [86, tr. 117]. Thành phần cơ bản “hợp thành” những HĐ riêng rẽ của con người là những hành động thực hiện HĐ ấy. Chúng ta gọi hành động là quá trình bị chi phối bởi biểu tượng về cái kết quả phải đạt được, nghĩa là quá trình nhằm một mục đích được ý thức. Khái niệm mục đích quan hệ với khái niệm hành động cũng giống như khái niệm động cơ quan hệ với khái niệm HĐ [86, tr. 117]. Việc tách ra những hành động có mục đích hợp thành nội dung của những HĐ cụ thể, đương nhiên đặt ra VĐ mối quan hệ bên trong gắn liền chúng lại với nhau. Như trên kia đã nói, HĐ không phải là quá trình cộng thành. Do đó, hành động không phải là những “bộ phận riêng lẻ” đặt biệt cấu thành HĐ. Hoạt động của con người không tồn tại bằng cách nào khác hơn là dưới hình thức những hành động hay Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 12 những chuỗi hành động [86, tr. 119]. Phương thức thực hiện hành động gọi là thao tác. Các thuật ngữ “hành động” và “thao tác” thường không phân biệt nhau. Nhưng trong khung cảnh phân tích HĐ về mặt tâm lý thì phân biệt rành mạch hai thuật ngữ ấy là hoàn toàn cần thiết. Hành động liên quan đến mục đích, còn thao tác liên quan với điều kiện . “Tuy vậy, thao tác vẫn không phải là “phần riêng rẽ” của hành động, giống như hành động so với HĐ” [86, tr. 124]. Như vậy, HĐ của con người có những thành tố đặc thù là con người vươn tới đối tượng, chuyển sự vật, hiện tượng,… thành đối tượng của HĐ, nhằm tạo ra sản phẩm của HĐ, thực hiện mục đích của con người. Các quá trình này vừa chứa đựng, vừa thực hiện động cơ của con người với tinh thần là chủ thể của HĐ. Để thực hiện động cơ, chủ thể phải dùng sức căng cơ bắp, thần kinh, năng lực, kinh nghiệm thực tiễn... để thỏa mãn động cơ, gọi là HĐ. Quá trình chiếm lĩnh từng mục đích gọi là hành động. Chủ thể chỉ có thể đạt được mục đích bằng những điều kiện xác định. Mỗi điều kiện quy định một cách thức hành động gọi là thao tác. Hoạt động luôn có tính hướng đích và hành động là quá trình hiện thực hóa mục đích, còn thao tác do điều kiện quy định. Do đó, sự khác nhau giữa mục đích và điều kiện quy định sự khác nhau giữa hành động và thao tác. Nhưng sự khác nhau đó chỉ là tương đối, bởi để đạt một mục đích ta có thể dùng các phương tiện khác nhau. Khi đó, hành động chỉ thay đổi về mặt kĩ thuật, tức là cơ cấu thao tác chứ không hề thay đổi bản chất. Về mặt tâm lý, hành động sinh ra thao tác, nhưng thao tác không phải là phần riêng lẻ của hành động. Sau khi được hình thành, thao tác có khả năng tồn tại độc lập và có thể tham gia vào nhiều hành động khác. Hoạt động có biểu hiện bề ngoài là hành vi, hai phạm trù này hỗ trợ cho nhau, trong đó, HĐ bao gồm cả hành vi lẫn tâm lý, ý thức. HĐ của con người tất yếu dẫn đến chỗ nảy sinh ý thức và ý thức là thành tố thực sự trong sự vận động của HĐ. Vì vậy, ý thức tâm lý của con người bao giờ cũng mang tính chất tích cực. Hơn nữa, đây là tính tích cực HĐ đặc thù của con người, tức là nó mang tính chất say mê, vì nó luôn gắn bó với việc thực hiện mục đích của hoạt động. Theo A. N. Leonchivev, cấu trúc chức năng của HĐ bao gồm các thành tố có thể mô hình hóa như sau: Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. 13 Mối liên hệ bên trong của HĐ là mối liên hệ giữa: Hoạt động - Hành động - Thao tác, tương ứng với liên hệ giữa: Động cơ - Mục đích - Phương tiện. 1.1.2. Thuyết lịch sử - văn hóa về sự phát triển các chức năng tâm lí cao cấp của L. X. Vưgotxki Theo L. X. Vưgotxki thì bất kì chức năng tâm lí cao cấp của trẻ em trong quá trình phát triển đều được thể hiện hai lần: lần đầu là HĐ tập thể, HĐ xã hội, tức là chức năng tâm lí bên ngoài; lần thứ hai là HĐ cá nhân, là chức năng tâm lí bên t
Luận văn liên quan