Trần Việt Dũng (2016), Sáng tạo và việc nâng cao năng lực sáng tạo của sinh viên trường Đại học Hàng hải Việt Nam hiện nay [25]. Ở góc độ tiếp cận triết học, tác giả chỉ ra năng lực sáng tạo có nhiều loại hình khác nhau như: năng lực sáng tạo triết học, năng lực sáng tạo khoa học, năng lực sáng tạo toán học, năng lực sáng tạo kỹ thuật - công nghệ, năng lực sáng tạo nghệ thuật và năng lực sáng tạo trong các hoạt động thực tiễn xã hội. Tác giả quan niệm: “Năng lực sáng tạo là năng lực của chủ thể trong việc tạo ra cái mới có giá trị dựa trên tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân đó phù hợp với yêu cầu và điều kiện của hoạt động sáng tạo sản phẩm mới trong một lĩnh vực hoạt động nhất định” [25, tr. 82]. Cấu trúc của năng lực sáng tạo được tác giả chỉ ra gồm 3 thành phần cơ bản: khả năng tư duy của chủ thể; động cơ sáng tạo ở chủ thể; điều kiện vật chất cho chủ thể hoạt động sáng tạo. Tác giả trình bày các phương pháp chung nhằm nâng cao năng lực sáng tạo của con người và nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của giáo dục đào tạo trong hình thành, phát triển năng lực sáng tạo của các cá nhân trong xã hội. Công trình gợi mở cho nghiên cứu sinh cách thức tiếp cận về năng lực sáng tạo và giải pháp phát triển năng lực sáng tạo ở một đối tượng cụ thể.
Trần Khánh Đức (Chủ biên, 2017), Năng lực học tập và đánh giá năng lực học tập [41]. Tác giả quan niệm: “Năng lực là khả năng tiếp nhận và vận dụng tổng hợp, hiệu quả mọi tiềm năng của con người (tri thức, kỹ năng, thái độ, thể lực, niềm tin ) để thực hiện có chất lượng công việc hoặc xử lý một tình huống, trạng thái nào đó trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp” [41, tr. 11], và khẳng định năng lực được hình thành và phát triển trên cơ sở tổ hợp các kiến thức, kỹ năng và thái độ. Quá trình tư duy tích cực và sáng tạo chỉ thực sự diễn ra khi con người đứng trước những vấn đề đòi hỏi phải tư duy để tìm ra cách giải quyết tốt nhất và qua đó biến thông tin thành tri thức, hình thành năng lực mới để giải quyết vấn đề đặt ra không theo những khuôn mẫu có sẵn. Năng lực tư duy, đặc biệt là tư duy sáng tạo của con người thể hiện tính nhạy bén của tư duy trước những nguồn thông tin và thay đổi liên tục của hiện thực khách quan và phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố, trạng thái và quá trình tâm - sinh lý. Kết quả nghiên cứu của công trình gợi ý cho nghiên cứu sinh tiếp cận về khái niệm và cấu trúc năng lực trong đề tài luận án.
227 trang |
Chia sẻ: Đào Thiềm | Ngày: 07/01/2025 | Lượt xem: 79 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trần Xuân Cần
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
5
Chương 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
10
1.1.
Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án
10
1.2.
Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
28
Chương 2:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC SÁNG TẠO CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI
Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
35
2.1.
Quan niệm năng lực sáng tạo, năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội
35
2.2.
Nhân tố cơ bản quy định năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội
58
Chương 3:
THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI NĂNG LỰC SÁNG TẠO CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
81
3.1.
Thực trạng năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội hiện nay
81
3.2.
Vấn đề đặt ra đối với năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội hiện nay
104
Chương 4:
GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
123
4.1.
Đổi mới công tác giáo dục và đào tạo theo hướng phát triển năng lực sáng tạo cho học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội hiện nay
123
4.2.
Xây dựng môi trường dân chủ, đề cao khoa học, đổi mới, sáng tạo trong học tập, rèn luyện nhằm phát triển năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội hiện nay
138
4.3.
Phát huy nhân tố chủ quan của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội hiện nay trong phát triển năng lực sáng tạo
151
KẾT LUẬN
164
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
166
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
167
PHỤ LỤC
180
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Năng lực sáng tạo là một trong những năng lực rất quan trọng của con người, có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của toàn xã hội, nhằm tạo ra cái mới, có tính hữu dụng về cả vật chất và tinh thần phục vụ cho đời sống con người. Năng lực sáng tạo không chỉ có ở các vĩ nhân, các nhà khoa học lớn, mà luôn được tiềm ẩn trong mỗi con người. Đối với học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội, năng lực sáng tạo có vai trò quan trọng, giúp họ phán đoán, suy xét và đưa ra những quyết định nhanh chóng đối với vấn đề nảy sinh từ thực tiễn học tập, rèn luyện, nghiên cứu khoa học. Từ đó, tạo ra cái mới trong học tập, rèn luyện, góp phần hiện thực hóa chuẩn đầu ra, trở thành người sĩ quan cấp phân đội có phẩm chất, năng lực toàn diện, tham gia xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng ta về giáo dục và đào tạo: “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi” [30, tr. 136], trong quá trình đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, các nhà trường quân đội đã quan tâm đến việc phát triển năng lực sáng tạo cho học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội. Kết quả đạt được đã góp phần xây dựng đội ngũ sĩ quan cấp phân đội có sự nhạy bén, sáng tạo, vận dụng linh hoạt kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp vào thực tiễn quản lý, chỉ huy, huấn luyện bộ đội, tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trên từng cương vị công tác, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng đơn vị trong toàn quân. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội còn một số hạn chế, bất cập nhất định. Một số học viên chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp học tập, rèn luyện; còn biểu hiện rập khuôn, máy móc, ngại đổi mới, thậm chí ngại học, ngại rèn dẫn đến kết quả học tập, rèn luyện và thực hiện các nhiệm vụ được giao còn thấp.
Hiện nay, trước những tác động mạnh mẽ của tình hình quân sự, quốc phòng trên thế giới, khu vực, của cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ số; sự phát triển của nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hướng đến năm 2025 cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại, đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với chất lượng giáo dục và đào tạo ở các nhà trường quân đội. Trong đó, phải không ngừng phát triển năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội, để sau khi tốt nghiệp ra trường họ có tri thức chuyên sâu về chuyên ngành, có khả năng và phẩm chất khoa học cần thiết, biết vận dụng tri thức vào phát hiện và giải quyết đúng đắn, sáng tạo những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình quản lý, chỉ huy, giáo dục, huấn luyện bộ đội, đóng góp vào việc nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới. Do vậy, việc nghiên cứu về “Năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội hiện nay” là vấn đề cơ bản và cấp thiết.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận giải một số vấn đề lý luận, thực trạng năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội; trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp cơ bản phát triển năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
- Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng và xác định một số vấn đề đặt ra đối với năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội hiện nay.
- Đề xuất giải pháp cơ bản phát triển năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội.
Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội trong thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện ở các nhà trường quân đội.
- Về không gian: Tập trung nghiên cứu, khảo sát những vấn đề liên quan năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội trình độ đại học (văn bằng 1) ở một số nhà trường quân đội, gồm: Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Lục quân I, Học viện Quân y, Học viện Kỹ thuật quân sự, Học viện Phòng không - Không quân, Học viện Biên phòng.
- Về thời gian: Các tư liệu, số liệu được sử dụng trong luận án chủ yếu từ năm 2016 đến nay (Là năm bắt đầu triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X).
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về vấn đề con người, về năng lực con người, về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ cách mạng; Nghị quyết của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về lãnh đạo công tác giáo dục và đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội trong tình hình mới.
Cơ sở thực tiễn
Luận án dựa trên thực tiễn công tác giáo dục và đào tạo ở các nhà trường quân đội và thực trạng năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội hiện nay; những đánh giá, nhận định, số liệu trong các nghị quyết, chỉ thị, báo cáo tổng kết công tác giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và các nhà trường quân đội. Đồng thời, sử dụng số liệu khảo sát và điều tra xã hội học của tác giả và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận án.
Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận án tập trung sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành như: lôgic và lịch sử; phân tích và tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; hệ thống và cấu trúc; trừu tượng hoá và khái quát hoá, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, thu thập và xử lý thông tin, tổng kết thực tiễn để làm rõ vấn đề dưới góc độ triết học.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Đưa ra quan niệm và xác định nhân tố cơ bản quy định năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội.
- Phân tích, làm rõ những vấn đề đặt ra và đề xuất giải pháp cơ bản phát triển năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần bổ sung, phát triển một số vấn đề lý luận về năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội ở các nhà trường quân đội.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy ở các nhà trường quân đội trong việc phát triển năng lực sáng tạo của học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội hiện nay.
Đồng thời, kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập các nội dung liên quan cho các đối tượng ở các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến năng lực, sáng tạo, năng lực sáng tạo
Lê Huy Hoàng (2002), Sáng tạo và những điều kiện chủ yếu để kích thích sự sáng tạo của con người Việt Nam hiện nay [47]. Đây là công trình trực tiếp nghiên cứu về sáng tạo dưới góc độ triết học duy vật mácxít, nhấn mạnh đến học thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là cơ sở triết học của sáng tạo. Công trình đã hệ thống hóa những quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về sáng tạo, trình bày quan niệm mácxít về sáng tạo và bản chất của sáng tạo, khẳng định: sáng tạo là loại hoạt động đặc thù theo các quy luật khách quan và chỉ có ở con người. Từ đó, tác giả quan niệm: “Sáng tạo là quá trình hoạt động của con người, trên cơ sở nhận thức được các quy luật của thế giới khách quan, tạo nên những giá trị tinh thần và vật chất mới về chất, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của xã hội” [47, tr. 39]. Để kích thích sự sáng tạo của con người Việt Nam hiện nay, cần phải quan tâm đến những điều kiện chủ yếu như môi trường xã hội và chính sách xã hội khoa học. Công trình là cơ sở để nghiên cứu sinh tìm hiểu quan niệm mácxít về sáng tạo nói chung, năng lực sáng tạo của con người nói riêng và điều kiện cần thiết để phát triển năng lực sáng tạo của con người.
Hồ Bá Thâm (2003), Phát triển năng lực tư duy của người cán bộ lãnh đạo hiện nay [116]. Ở góc độ tiếp cận triết học, tác giả đã khẳng định năng lực sáng tạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với lao động khoa học, lao động nghệ thuật và lao động quản lý. Tác giả cho rằng: “Sáng tạo là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố tri thức, cảm xúc, sự minh mẫn, lôgích, trực giác, kinh nghiệm, sự kiên trì, lòng dũng cảm trong quá trình lao động lâu dài” [116, tr. 44]. Tác giả nhấn mạnh đến các điều kiện để có sự sáng tạo, đó là có động cơ đúng, trong sáng, vì sự tiến bộ của xã hội và con người; phải tích lũy nhiều kiến thức và kinh nghiệm, cập nhật thông tin; luôn suy nghĩ, mài sắc năng lực tư duy, kiên trì hướng nghiên cứu đã chọn; có bản lĩnh tìm chân lý; có môi trường lao động, học tập dân chủ, khuyến khích sáng tạo. Đồng thời, để có được sáng tạo phải khắc phục được các lực cản tâm lý như thái độ bi quan, sợ thất bại, sức ép tâm lý vượt qua những quy định lỗi thời, không để giả thiết đánh lừa, tránh sai lầm về lôgích, tránh tự ti cho bản thân thiếu sáng kiến, không có sự táo bạo trong suy nghĩ và hành động, dựa vào tư duy lý luận để suy nghĩ và giải quyết vấn đề. Kết quả nghiên cứu của công trình giúp nghiên cứu sinh hướng tiếp cận nghiên cứu về quan niệm sáng tạo, năng lực sáng tạo và những điều kiện để phát huy khả năng sáng tạo của con người.
Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Văn Lê, Châu An (2005), Khơi dậy tiềm năng sáng tạo [120]. Các tác giả đã khẳng định sáng tạo là hoạt động cao cấp nhất của con người, chỉ rõ nguồn gốc và cơ sở sinh lý thần kinh của hoạt động sáng tạo. Các tác giả nhấn mạnh đến năng lực sáng tạo của con người bao gồm các năng lực chủ yếu là năng lực tư duy - sáng tạo, năng lực quan sát và sáng tạo, năng lực tưởng tượng và liên tưởng, năng lực phát triển vấn đề, năng lực đọc. Trong đó khẳng định vai trò quan trọng của năng lực tư duy: “không chỉ giúp học tập tốt ở trường học mà còn giúp trở thành người công dân tốt trong việc đưa ra những quyết định thông minh, có ý thức, suy nghĩ sâu sắc để tìm ra những giải pháp sáng tạo, thích hợp tối ưu cho mọi vấn đề xã hội yêu cầu” [119, tr. 60]. Công trình đã giúp nghiên cứu sinh tiếp cận một số nội dung quan trọng trong quan niệm về sáng tạo, năng lực sáng tạo, các yếu tố tác động đến sự hình thành, phát triển năng lực sáng tạo của con người.
Michael Michalko (2009), “Đột phá sức sáng tạo” [88], từ sự nghiên cứu về những nhà tư tưởng vĩ đại trên thế giới thông qua những bản ghi chép, thư từ, trao đổi và các ý tưởng của họ, tác giả đã phát hiện ra những chiến lược tư duy phổ biến, đặc trưng cho phép thiên tài tạo ra vô vàn ý tưởng mới mẻ và độc đáo. Tác giả chỉ ra sự sáng tạo của các thiên tài với những chiến lược tư duy giúp họ nhận ra những điều người khác không thấy và nghĩ những điều không ai nghĩ tới, giới thiệu 9 chiến lược tư duy sáng tạo, hướng dẫn cách áp dụng chúng để trở nên sáng tạo hơn trong công việc, đó là: 1-Biết cách nhìn nhận, 2-Trình bày suy nghĩ bằng những hình ảnh trực quan, 3-Tư duy mạch lạc, 4-Tạo những kết hợp mới mẻ, 5-Kết nối những ý tưởng rời rạc, 6-Nhìn vào mặt khác của vấn đề, 7-Kiếm tìm trong những thế giới khác, 8-Tìm thấy cái bạn không định tìm kiếm, 9-Đánh thức tinh thần hợp tác để nâng cao sức sáng tạo của mình. Công trình đã gợi mở cho nghiên cứu sinh nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của tư duy sáng tạo đối với năng lực sáng tạo của con người và cách thức để nâng cao khả năng sáng tạo trong thực tiễn.
Janet Luongo, Jan Yager (2010), “365 lời khẳng định hàng ngày về sáng tạo” [82], các tác giả trình bày những suy nghĩ về những khía cạnh, tình huống, giai đoạn khác nhau liên quan đến hoạt động sáng tạo từ những xúc cảm, tình cảm, động cơ sáng tạo đến những hoạt động của tư duy giải quyết vấn đề. Nó bao hàm cả những quan niệm và nguyên tắc mang tính thực hành của sáng tạo, những lời động viên, khích lệ sáng tạo. Các tác giả cho rằng: “Cuộc sống nội tâm của một người sáng tạo càng phong phú và sâu sắc chừng nào thì những sáng tạo của họ các độc đáo chừng ấy” [82, tr. 49]. Cuốn sách có tác dụng định hướng nâng cao năng lực sáng tạo của con người không chỉ ở khía cạnh tư duy sáng tạo giải quyết vấn đề mà còn ở khía cạnh động cơ và những yếu tố liên quan đến điều kiện vật chất của hoạt động sáng tạo. Nội dung cuốn sách gợi ý cho nghiên cứu sinh có thêm tư liệu nghiên cứu, xác định các biện pháp cụ thể để nâng cao năng lực sáng tạo.
Phan Dũng (2012), Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới [24]. Đây là cuốn sách thứ nhất trong bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” gồm 10 cuốn trình bày những kiến thức từ cơ sở đến kiến thức ứng dụng về phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. Theo tác giả, trong thời đại tri thức, mỗi người đều phải suy nghĩ để sáng tạo bởi vì mọi việc cần được thực hiện theo cách đơn giản hơn và tốt hơn. Sáng tạo gắn liền với sự thay đổi, đưa ra cái mới (đổi mới), sáng chế, các ý tưởng mới, các phương án lựa chọn mới. Mọi người có thể dùng tính sáng tạo của mình để đặt vấn đề một cách bao quát, phát triển các phương án lựa chọn, làm phong phú các khả năng và tưởng tượng các kết quả có thể nảy sinh. Nghiên cứu sinh nhất trí với nhận định của tác giả cho rằng: sáng tạo có nhiều cấp độ khác nhau và khi con người thực hiện được điều mới, khác biệt với các đã có, mang lại lợi ích nhất định, đó là sáng tạo; sáng tạo nảy sinh ở mọi tầng lớp và mọi giai đoạn trong cuộc sống của chúng ta.
Trần Thị Bích Liễu (2013), Giáo dục phát triển năng lực sáng tạo [81]. Công trình đã trình bày các khái niệm về sáng tạo, giáo dục sáng tạo, quốc gia sáng tạo, cá nhân sáng tạo, phát minh và sáng nghiệp; chỉ ra các đặc điểm của nền kinh tế tri thức và vai trò của giáo dục trong nền kinh tế này, đặc điểm của trường học, giáo viên và lãnh đạo sáng tạo, môi trường sáng tạo, nền giáo dục và quốc gia sáng tạo. Tác giả phân tích các vấn đề liên quan đến mục tiêu, chương trình, nội dung dạy học sáng tạo; giới thiệu chi tiết 14 kỹ thuật và phương pháp sáng tạo trong quá trình dạy - học; chỉ ra cách thức để xây dựng môi trường nhà trường khuyến khích sự sáng tạo, phát triển đội ngũ giáo viên sáng tạo trong trường học. Tác giả khẳng định: “Để đào tạo và giáo dục nên những con người sáng tạo cần có một nền giáo dục sáng tạo, trong đó người học được dạy phương pháp sáng tạo và hình thành các kỹ năng sáng tạo” [81, tr. 45]. Các phương pháp sáng tạo được tác giả đề cập đến bao gồm: kỹ thuật tư duy sáng tạo; ngôi sao sáu cánh; tư duy khác thường; sáng tạo nhóm; tấn công não; sơ đồ tư duy; giải quyết vấn đề, v.v..
Đặng Thị Phương Phi (2014), “Một số giải pháp hình thành năng lực sáng tạo cho học sinh, sinh viên” [99]. Kết quả nghiên cứu nhấn mạnh hoạt động sáng tạo là dạng hoạt động cao nhất của con người, trong đó năng lực sáng tạo là cốt lõi của hoạt động sáng tạo, làm tiền đề bên trong của hoạt động sáng tạo, nó được xác định từ chất lượng đặc biệt của các quá trình tâm lý mà trước hết là quá trình trí nhớ, tư duy, xúc cảm, ý chí. Hoạt động sáng tạo yêu cầu cần có chuyên môn sâu về các vấn đề liên quan, nhưng không phải chỉ là nhớ lại và sử dụng những kiến thức đã có, mà sáng tạo là vận dụng tìm kiếm những điều mới mẻ và kết hợp chúng lại theo những cách thức độc đáo mà trước đó không ai “tưởng tượng” được. Muốn sáng tạo cần phải tập trung vào những suy nghĩ cởi mở, tự do và các thông tin từ cách thức tư duy đó mang lại. Kết quả nghiên cứu giúp nghiên cứu sinh hiểu biết thêm về các giải pháp để hình thành sự sáng tạo.
Hoàng Hòa Bình (2015), “Năng lực và đánh giá theo năng lực” [6]. Công trình đã phân tích luận giải cách tiếp cận vấn đề năng lực của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Từ đó, tác giả đưa ra quan niệm: “Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn, trong những điều kiện cụ thể” [6, tr. 25]. Về cấu trúc của năng lực, tác giả đã tiếp cận ở các khía cạnh khác nhau: một là, theo nguồn lực hợp thành, gồm có: tri thức, kỹ năng, niềm tin, sự sẵn sàng hoạt động; hai là, theo năng lực bộ phận, gồm có: hợp phần (các lĩnh vực chuyên môn tạo nên năng lực), thành tố (các năng lực hoặc kỹ năng bộ phận tạo nên mỗi hợp phần), hành vi (bộ phận được chia tách từ mỗi thành tố). Kết quả nghiên cứu của tác giả giúp nghiên cứu sinh bổ sung thêm nhận thức về quan niệm và cấu trúc năng lực để xây dựng hệ thống khái niệm của luận án.
Trần Việt Dũng (2016), Sáng tạo và việc nâng cao năng lực sáng tạo của sinh viên trường Đại học Hàng hải Việt Nam hiện nay [25]. Ở góc độ tiếp cận triết học, tác giả chỉ ra năng lực sáng tạo có nhiều loại hình khác nhau như: năng lực sáng tạo triết học, năng lực sáng tạo khoa học, năng lực sáng tạo toán học, năng lực sáng tạo kỹ thuật - công nghệ, năng lực sáng tạo nghệ thuật và năng lực sáng tạo trong các hoạt động thực tiễn xã hội. Tác giả quan niệm: “Năng lực sáng tạo là năng lực của chủ thể trong việc tạo ra cái mới có giá trị dựa trên tổ