Viêm phổi là nguyên nhân mắc và tử vong hàng đầu ở trẻ em dưới 5
tuổi. Theo báo cáo của Qũy Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) và Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO), khoảng 2 triệu trẻ em tử vong vì viêm phổi mỗi năm
trên toàn thế giới [19]. Tử vong do viêm phổi chiếm 19% trong tổng số trẻ tử
vong dưới 5 tuổi ở các nước phát triển [186].
Căn nguyên của viêm phổi trẻ em thường do vi rút, vi khuẩn và các
sinh vật khác [189]. Trong đó, tác nhân gây viêm phổi không điển hình chiếm
một vai trò quan trọng [38], [54], [209]. Tuy nhiên, ở các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam còn chưa được nghiên cứu nhiều [15],[16]. Theo
Forest và cs, tỷ lệ mắc viêm phổi không điển hình trong số viêm phổi mắc
phải cộng đồng ở châu Mỹ khoảng 22% và tỷ lệ được điều trị là 91%. Châu
Âu tỷ lệ mắc là 28%, tỷ lệ được điều trị là 74%. Ở châu Mỹ La tinh, tỷ lệ mắc
là 21% và tỷ lệ được điều trị là 57%. Tại châu Á/ Phi, tỷ lệ mắc là 20%, tỷ lệ
được điều trị là 10% [74].
Viêm phổi điển hình do Streptococus pneumoniae, Hemophilus
influenzae, Moracella catarhalis nhạy cảm với một số dòng kháng sinh
cefalosporin, β lactam trong khi viêm phổi không điển hình do
Mycoplasma pneumoniae (M. pneumoniae), Chlamydia pneumoniae (C.
pneumoniae) và Legionella pneumophila (L. pneumophila) chủ yếu nhạy
cảm với dòng kháng sinh nhóm macrolide, quinolone và tetracycline [65],
[93] [203 ].
Chẩn đoán nguyên nhân vi khuẩn gây viêm phổi không điển hình khó
khăn do phải nuôi cấy trong môi trường đặc biệt, phương pháp huyết thanh
học thì cho kết quả muộn (sau 10-14 ngày), tỷ lệ dương tính thấp [56], [167].
Sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật khuyếch đại gen (PCR) đã giúp chẩn đoán
chính xác, nhanh chóng nguyên nhân vi khuẩn gây bệnh [40], [45], [ 64]. Tại
Việt Nam, kỹ thuật chẩn đoán PCR chỉ làm được ở một số bệnh viện tuyến
trung ương và các trung tâm y tế lớn. Viêm phổi không điển hình đa s ố phải điều
2
trị theo kinh nghiệm. Điều này làm gia tăng chủng vi khuẩn kháng kháng sinh,
kéo dài thời gian điều trị [7], [106].
Viêm phổi không điển h ình do M. pneumoniae, C. pneumoniae có
thể lâm sàng nhẹ hoặc tự giới hạn [ 106], [161]. Viêm phổi do L.
pneumo phila hay gây viêm phổi nặng, tỷ lệ tử vong cao [141]. Viêm phổi
không điển hình nặng được mô tả trong các trường hợp: suy đa tạng [57 ],
[116], có biểu hiện ngo ài phổi như: tổn thương hệ thần kinh [38], huyết
học [100], tổn thương tim, tổn thương da, rối loạn điện giải; Mắc bệnh mạn
tính, suy giảm miễn dịch [67]; Đồng nhiễm với vi khuẩn khác hoặc vi rút
[90], [120].
Ở Việt Nam, viêm phổi không điển hình ở trẻ em có xu hướng tăng lên,
nhất là do M. pneumoniae [9], [15], [16]. Viêm phổi do C. pneumoniae và L.
pneumophila chưa được quan tâm nghiên cứu.
Tìm hiểu đặc điểm dịch tễ học, biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng của
viêm phổi không điển hình ở trẻ em nhập viện vì viêm phổi, áp dụng kỹ thuật
chẩn đoán nguyên nhân vi khuẩn gây viêm phổi không điển hình bằng
phương pháp sinh học phân tử PCR đa mồi (Multiplex-PCR) có kiểm chứng
bằng kỹ thuật miễn dịch gắn men (ELISA) là nghiên cứu có tính cấp thiết và
vấn đề nghiên cứu có tính phổ biến.
Chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học,
lâm sàng viêm phổi không điển hình do vi khuẩn ở trẻ em” nhằm hai mục
tiêu nghiên cứu sau đây:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ, lâm sàng của viêm phổi không
điển hình do Mycoplasma pneumoniae,Chlamydia pneumoniae và
Legionella pneumophila ở trẻ em điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ
tháng 07/ 2010 đ ến 3/2012.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh viêm
phổi không điển hình do vi khuẩn ở trẻ em.
170 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 6835 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng viêm phổi không điển hình do vi khuẩn ở trẻ em, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm phổi là nguyên nhân mắc và tử vong hàng đầu ở trẻ em dưới 5
tuổi. Theo báo cáo của Qũy Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) và Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO), khoảng 2 triệu trẻ em tử vong vì viêm phổi mỗi năm
trên toàn thế giới [19]. Tử vong do viêm phổi chiếm 19% trong tổng số trẻ tử
vong dưới 5 tuổi ở các nước phát triển [186].
Căn nguyên của viêm phổi trẻ em thường do vi rút, vi khuẩn và các
sinh vật khác [189]. Trong đó, tác nhân gây viêm phổi không điển hình chiếm
một vai trò quan trọng [38], [54], [209]. Tuy nhiên, ở các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam còn chưa được nghiên cứu nhiều [15],[16]. Theo
Forest và cs, tỷ lệ mắc viêm phổi không điển hình trong số viêm phổi mắc
phải cộng đồng ở châu Mỹ khoảng 22% và tỷ lệ được điều trị là 91%. Châu
Âu tỷ lệ mắc là 28%, tỷ lệ được điều trị là 74%. Ở châu Mỹ La tinh, tỷ lệ mắc
là 21% và tỷ lệ được điều trị là 57%. Tại châu Á/ Phi, tỷ lệ mắc là 20%, tỷ lệ
được điều trị là 10% [74].
Viêm phổi điển hình do Streptococus pneumoniae, Hemophilus
influenzae, Moracella catarhalis nhạy cảm với một số dòng kháng sinh
cefalosporin, β lactam trong khi viêm phổi không điển hình do
Mycoplasma pneumoniae (M. pneumoniae), Chlamydia pneumoniae (C.
pneumoniae) và Legionella pneumophila(L. pneumophila) chủ yếu nhạy
cảm với dòng kháng sinh nhóm macrolide, quinolone và tetracycline [65],
[93] [203].
Chẩn đoán nguyên nhân vi khuẩn gây viêm phổi không điển hình khó
khăn do phải nuôi cấy trong môi trường đặc biệt, phương pháp huyết thanh
học thì cho kết quả muộn (sau 10-14 ngày), tỷ lệ dương tính thấp [56], [167].
Sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật khuyếch đại gen (PCR) đã giúp chẩn đoán
chính xác, nhanh chóng nguyên nhân vi khuẩn gây bệnh [40], [45], [64]. Tại
Việt Nam, kỹ thuật chẩn đoán PCR chỉ làm được ở một số bệnh viện tuyến
trung ương và các trung tâm y tế lớn. Viêm phổi không điển hình đa số phải điều
2
trị theo kinh nghiệm. Điều này làm gia tăng chủng vi khuẩn kháng kháng sinh,
kéo dài thời gian điều trị [7], [106].
Viêm phổi không điển hình do M. pneumoniae, C. pneumoniae có
thể lâm sàng nhẹ hoặc tự giới hạn [106], [161]. Viêm phổi do L.
pneumophila hay gây viêm phổi nặng, tỷ lệ tử vong cao [141]. Viêm phổi
không điển hình nặng được mô tả trong các trường hợp: suy đa tạng [57],
[116], có biểu hiện ngoài phổi như: tổn thương hệ thần kinh [38], huyết
học [100], tổn thương tim, tổn thương da, rối loạn điện giải; Mắc bệnh mạn
tính, suy giảm miễn dịch [67]; Đồng nhiễm với vi khuẩn khác hoặc vi rút
[90], [120].
Ở Việt Nam, viêm phổi không điển hình ở trẻ em có xu hướng tăng lên,
nhất là do M. pneumoniae [9], [15], [16]. Viêm phổi do C. pneumoniae và L.
pneumophila chưa được quan tâm nghiên cứu.
Tìm hiểu đặc điểm dịch tễ học, biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng của
viêm phổi không điển hình ở trẻ em nhập viện vì viêm phổi, áp dụng kỹ thuật
chẩn đoán nguyên nhân vi khuẩn gây viêm phổi không điển hình bằng
phương pháp sinh học phân tử PCR đa mồi (Multiplex-PCR) có kiểm chứng
bằng kỹ thuật miễn dịch gắn men (ELISA) là nghiên cứu có tính cấp thiết và
vấn đề nghiên cứu có tính phổ biến.
Chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học,
lâm sàng viêm phổi không điển hình do vi khuẩn ở trẻ em” nhằm hai mục
tiêu nghiên cứu sau đây:
1. Mô tả một số đặc điểm dịch tễ, lâm sàng của viêm phổi không
điển hình do Mycoplasma pneumoniae,Chlamydia pneumoniae và
Legionella pneumophila ở trẻ em điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ
tháng 07/ 2010 đến 3/2012.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến tình trạng nặng của bệnh viêm
phổi không điển hình do vi khuẩn ở trẻ em.
3
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Một số khái niệm
Viêm phổi không điển hình
Viêm phổi do M. pneumoniae đã được công nhận từ nhiều năm trước
khi nhận dạng bản chất của tác nhân gây bệnh. Sự thất bại trong việc sử dụng
sulfonamides hoặc penicillin để điều trị viêm phổi đã phân biệt được tác nhân
gây viêm phổi do M. pneumoniae hay viêm phổi điển hình do phế cầu
(pneumococci). Việc không đáp ứng với trị liệu kháng khuẩn đã được nghĩ là
“không điển hình” (atypical). Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi để nói tới
bệnh viêm đường hô hấp do M. pneumoniae đối với con người [212]. Sau đó,
các tác nhân khác gây bệnh cảnh lâm sàng tương tự đã được đưa vào nhóm
viêm phổi không điển hình như C. pneumoniae, L. pneumophila... [11].
Đồng nhiễm
Thông thường một bệnh nhiễm trùng chỉ do một mầm bệnh gây ra. Khi
đồng thời cùng một lúc có hai hay nhiều mầm bệnh cùng phối hợp tác động
gây bệnh. Khi đó gọi là nhiễm trùng hỗn hợp hay đồng nhiễm [8].
Bội nhiễm
Trong khi bệnh đang tiến triển, chưa khỏi lại có mầm bệnh khác nhờ
điều kiện thuận lợi đó mà xâm nhập cùng gây bệnh thì gọi là nhiễm trùng thứ
phát hay bội nhiễm [8].
Viêm phổi không điển hình đơn thuần
Bệnh nhân mắc viêm phổi chỉ do một tác nhân vi khuẩn gây viêm phổi
không điển hình gây nên.
Viêm phổi không điển hình đồng nhiễm trong nhóm
Bệnh nhân mắc viêm phổi do từ hai tác nhân vi khuẩn gây viêm phổi
không điển hình gây nên.
Viêm phổi không điển hình đồng nhiễm ngoài nhóm
Tình trạng trẻ mắc viêm phổi do hai hay nhiều tác nhân vi sinh gây
nên, trong đó một tác nhân là do ít nhất một trong ba vi khuẩn gây viêm
phổi không điển hình gây nên.
4
1.2. Lịch sử nghiên cứu viêm phổi không điển hình do Mycoplasma
pneumoniae, Chlamydia pneumoniae và Legionella pneumophila.
1.2.1. Viêm phổi do Mycoplasma pneumoniae
Vi khuẩn Mycoplasma đầu tiên được phân lập từ môi trường nuôi cấy
bệnh phẩm viêm phổi ở bò có tên Mycoplasma mycoides do Nocad và Roux
công bố năm 1898 [160]. Năm 1930, Klieneberger mô tả Mycoplasma là vi
khuẩn dạng L, không có thành tế bào, sống cộng sinh với các vi khuẩn có
thành tế bào khác [122]. Dienes và Edsall lần đầu tiên đã phân lập được
Mycoplasma từ một ổ áp xe hạch ở người vào năm 1937 [61]. Năm 1938,
Reimann mô tả ca bệnh nhiễm Mycoplasma ở người, với thuật ngữ viêm
phổi không điển hình tiên phát [180]. Năm 1941, Eaton đã thành công trong
việc gây viêm phổi ở chuột bởi các mẫu đờm lấy từ bệnh nhân bị viêm phổi
không điển hình tiên phát [66]. Vi sinh vật này được đặt tên là tác nhân
Eaton, lúc đầu được cho là virut cho đến khi Liu (1957) phát hiện các kháng
sinh có thể tác động lên nó [132]. Năm 1961, Marmion và Goodburn công
nhận tác nhân Eaton là PPLO và nó không phải là vi rút [140]. Đến năm
1963, Chanock và cộng sự đã thành công trong việc nuôi cấy tác nhân Eaton
trong môi trường không có tế bào và gọi nó là M. pneumoniae [48].
Trong các loài Mycoplasma gây bệnh ở người, M. pneumoniae được
nghiên cứu nhiều nhất. Những năm gần đây, nhiều nghiên cứu về sinh
học tế bào, đáp ứng miễn dịch, các kỹ thuật phát hiện M. pneumoniae
trong phòng thí nghiệm, dịch tễ học và vai trò gây bệnh đường hô hấp
của M. pneumoniae [212].
1.2.2. Viêm phổi do Chlamydia pneumoniae
Năm 1965 Woolridge lần đầu tiên phân lập được vi khuẩn tại ổ viêm kết
mạc ở trẻ nhỏ tại Đài Loan và được đặt tên là TW 183 [227]. Đến năm 1983
Grayston lần đầu tiên phân lập được Chlamydia từ bệnh phẩm đường hô hấp với
tên gọi AP-39 [88]. Sau đó được đổi tên là TWAR và được sử dụng trong các
phòng xét nghiệm. Grayston cho rằng bệnh đã lưu hành trong dân cư từ nhiều
thập kỷ trước [87]. Hiện nay, tên C. pneumoniae vẫn được sử dụng trong đa số
các ấn phẩm khoa học [161].
5
1.2.3. Viêm phổi do Legionella pneumophila
Năm 1943 lần đầu tiên vi khuẩn L. pneumophila được phân lập bởi
Tatlok [201]. MacDade và cs (1977) đã sử dụng phương pháp cô lập rickettsia
để phát hiện Legionella [146]. Năm 1979 các chi của Legionella được Fraser
phân lập từ ổ dịch xảy ra ở Phyladelphya – Mỹ [78]. Dondero [62], Glick [83]
nhận ra môi trường truyền bệnh qua nguồn không khí ô nhiễm, tháp làm mát,
hệ thống nước. Katz (1987) phát hiện môi trường thích hợp cho sự nhân lên của
Legioella là 25- 420c, tối ưu là 350c [117]. Năm 1996 Fields đã công bố
Legionella là vi khuẩn ký sinh nội bào trong nguyên sinh động vật nước ngọt
cũng như động vật có vú [71]. Benson (1998) phân chia Legionella thành các
loài và các typ huyết thanh [36].
1.3. Đặc điểm dịch tễ học viêm phổi không điển hình do Mycoplasma
pneumoniae, Chlamydia pneumoniae và Legionella pneumophila
1.3.1. Đặc điểm dịch tễ học viêm phổi do Mycoplasma pneumoniae
Tác nhân vi sinh Mycoplasma pneumoniae
Vị trí và phân loại Mycoplasma pneumoniae
Vào những năm 1960, Mycoplasma được xếp vào nhóm Mollicutes
[212]. Phân loại hiện nay trong lớp Mollicutes bao gồm 4 dưới lớp, 5 họ, 8 bộ
và khoảng 200 loài đã được biết đến và được phát hiện ở người, động vật có
xương sống, động vật chân đốt và thực vật. M. pneumoniae là một thành viên
trong họ Mycoplasmataceae và dưới lớp Mycoplasmatales [21].
Hình thái học và cấu trúc của Mycoplasma pneumoniae
Cấu trúc tế bào Mycoplasma pneumoniae
M pneumoniae là loại vi sinh vật rất nhỏ có cấu trúc 300-500 nm. Các
vi khuẩn này thiếu thành tế bào do vậy chúng có nhiều hình và mềm dẻo.
Khuẩn lạc điển hình của M. pneumoniae khi nuôi cấy trong môi trường được
làm giàu như thạch SP4 hiếm khi vượt quá 100µm và phải sử dụng kính hiển vi
đa lập thể mới quan sát được đặc điểm hình thái của chúng [21], [212].
6
Hình 1.1: Nhóm khuẩn lạc Mycoplasma pneumoniae hình cầu phát triển
trên môi trường thạch SP4 [212].
Cấu trúc phân tử Mycoplasma pneumoniae
Bộ gen của M. pneumoniae đã được Himmelreich giải trình tự vào năm
1996, bao gồm 816.394bp với 687 gen [103]. Cấu trúc gen học của M.
pneumoniae gồm khoảng 800-850 cặp KB, chứa một gen RNA, cấu trúc RNA
được sắp xếp theo thứ tự 5’-16S -23S - 5S - 3. Trong nhân có hai loại protein
rất quan trọng gây ra đáp ứng miễn dịch là protein kết dính P1 và protein kết
dính gián tiếp lên các tế bào bằng cách nhận diện các glycolypid trên bề mặt
hoặc các sialoglycosaccharide alpha 2-3 nằm trên các glycoprotein [145].
Cấu trúc cơ quan bám dính Mycoplasma pneumoniae
Bám dính vào biểu mô của cơ quan hô hấp là một bước quan trọng để
M. pneumoniae lây nhiễm và xâm nhập thành công. Cơ quan này nằm ở một
đầu của vi khuẩn, bao gồm một mạng các protein bám dính và các protein cần
thiết khác. Protein bám dính chủ yếu (cytadhesin) tập trung dày đặc trên bề
mặt của cơ quan này là protein P1 [193].
Hình 1.2: Cấu trúc cơ quan bám dính của Mycoplams pneumoniae [127]
7
Cơ chế gây bệnh Mycoplasma pneumoniae
Cơ chế bệnh sinh của M. pneumoniae có liên quan đến nhiều thành
phần, bao gồm quá trình kết dính giữa vi sinh vật và tế bào, sự tiết các chất
H2O2 và O, sự hình thành các tự kháng thể [82], [123].
Hình 1.3. Sơ đồ sinh bệnh học của viêm phổi, hen suyễn, và
các biểu hiện ngoài phổi do nhiễm trùng Mycoplasma [156].
Có 2 đặc tính liên quan đến sinh bệnh học của M. pneumoniae gây bệnh ở
người: vi khuẩn có ái lực chọn lọc trên tế bào biểu mô đường hô hấp, bám dính
vào đầu sợi lông mao biểu mô đường hô hấp, di chuyển nhanh, gây ra bong tế
bào biểu mô đường hô hấp. Ngoài ra, vi khuẩn sản xuất ra hydrogen peroxid,
Đáp ứng miễn
dịch tối thiểu trên
bề mặt hô hấp
Biểu mô hô hấp
Vận chuyển thụ động
trong vòng tuần hoàn
Cung cấp cho cơ quan xa
Đặc điểm ngoài phổi (trực tiếp)
Đặc điểm ngoài phổi ( gián tiếp)
Gồm các cytokine tại chỗ
Đặc điểm ngoài phổi( sự lấp mạch)
Điều chế miễn dịch
Chất trung gian hoa
học
Tường lửa
Tế bào B
Bạch cầu
trung tính
Viêm phổi
Chấn thương trực
tiếp – yếu
Cytokine Th2- Type
Đại thực bào
Kích thích
Hen
Viêm mạnh
Mạch máu
Ô xy
Kích
hoạt
Cytokine Th2 - Type
8
một chất gây phá hủy tế bào, phá huỷ của màng hồng cầu. Sinh bệnh học của
M. pneumoniae có liên quan đến hoạt động của các cytokin [139].
Mycoplasma có yếu tố tự miễn dịch, có thể giải thích cho những biểu
hiện ngoài phổi [29], [82]. Nồng độ của các tự kháng thể tương quan thuận
với mức độ nặng của bệnh [65]. Phản ứng miễn dịch qua trung gian tế bào và
việc kích thích sản xuất cytokine càng nhiều, bệnh cảnh lâm sàng và tổn
thương phổi càng trầm trọng [115].
Cơ chế sinh bệnh học các biểu hiện ngoài phổi do nhiễm trùng M.
pneumoniae được phân thành ba loại: thứ nhất, loại trực tiếp, sản xuất
cytokine tại chỗ; thứ hai, loại gián tiếp, điều chế miễn dịch - tự miễn dịch; thứ
ba, loại gây tắc mạch máu, viêm mạch, huyết khối hoặc tình trạng tăng đông hệ
thống. Cuối cùng, gây ra các loại biểu hiện trực tiếp ngoài phổi [156].
Nguồn truyền nhiễm Mycoplasma pneumoniae
M. pneumoniae có ở khắp nơi trong tự nhiên, gây ra nhiều loại bệnh ở
động vật. Ở người, M. pneumoniae không thuộc hệ vi khuẩn chí của đường hô
hấp, việc phát hiện vi khuẩn này ở đường hô hấp có ý nghĩa lâm sàng nếu có
kèm theo triệu chứng viêm đường hô hấp. Vi khuẩn này sống trong họng và
dịch tiết hô hấp nhiều ngày trước khi khởi bệnh và tồn tại nhiều tuần sau đó.
Ở giai đoạn lui bệnh chúng còn hiện diện trong dịch tiết hô hấp 6 – 8 tuần
nữa. Nếu bệnh nhân ho thì đây là nguồn lan truyền mầm bệnh ra cộng đồng
[115], [212].
Phương thức lây truyền Mycoplasma pneumoniae
Nhiễm khuẩn M. pneumoniae lây truyền từ người sang người qua
đường hô hấp từ các dịch tiết đường hô hấp khi ho, hắt hơi. Trẻ em tuổi đến
trường là vật chủ trung gian quan trọng nhất lây lan trong và ngoài gia đình
[115], [212].
Giai đoạn ủ bệnh
Thời gian ủ bệnh có xu hướng âm ỉ trung bình khoảng 3 tuần [212].
Tính cảm nhiễm và miễn dịch
Tính cảm nhiễm
Nhiễm trùng M. pneumoniae xảy ra ở cả người lớn và trẻ em với mức độ
bệnh khu trú hoặc bệnh dịch. Tỷ lệ mắc cao gặp ở lứa tuổi học sinh [77], [212].
9
Những trẻ em bị suy giảm hệ thống miễn dịch hay dùng thuốc ức chế miễn
dịch có nguy cơ cao bị viêm phổi nặng khi nhiễm M. pneumoniae [34].
Tính miễn dịch
Nhiều phản ứng xảy ra sau khi nhiễm M. pneumoniae. Kháng thể đặc
hiệu IgM xuất hiện sớm nhất khoảng 1 tuần sau khi khởi bệnh, tiếp theo là
IgA và sau cùng là IgG [212]. Các kháng thể đặc hiệu do các protein kết dính
kích thích tạo ra (IgM, IgA) sẽ ức chế sự kết dính giữa M. pneumoniae và các
tế bào biểu mô đường hô hấp giúp hạn chế các tổn thương xảy ra. IgA trong
dịch tiết hô hấp có tác dụng lớn hơn IgA trong huyết thanh trong việc chống
lại nhiễm trùng tái phát do Mycoplasma. Một số biến chứng ngoài phổi xảy
ra do nhiễm trùng Mycoplasma có liên quan đến cơ chế miễn dịch, không
phải trực tiếp do nhiễm khuẩn. Chức năng miễn dịch bị biến đổi gây ra bởi
M. pneumoniae có thể tạo điều kiện thuận lợi cho nhiễm trùng với các vi sinh
vật khác giải thích lý do đồng nhiễm dẫn đến bệnh nặng [28].
Miễn dịch đối với M. pneumoniae thường tạm thời và tái phát thường
xuyên [209]. Miễn dịch kéo dài khoảng bốn năm [70]. Những người có kháng
thể sẽ được bảo vệ sau khi bị tái nhiễm M. pneumoniae [212].
Phân bố và sự lưu hành
Phân bố theo tuổi
Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi, phổ biến nhất ở tuổi đi học 5- 14 tuổi [212].
Hình 1.4. Tỷ lệ viêm phổi do nhiễm Mycoplasma pneumoniae theo tuổi [75]
10
Phân bố theo mùa
Bệnh xảy ra bất cứ thời điểm nào trong năm nhưng có xu hướng bùng
phát vào cuối hè và mùa thu. Ở các nước ôn đới bệnh xảy ra vào đầu mùa thu
và đỉnh cao vào mùa đông [167], [212].
Dịch tễ của M. pneumoniae xảy ra có tính chu kỳ từ 4 - 8 năm. Xu
hướng thường xuyên hơn ở những quần thể kín như quân đội, nhà tù, trại trẻ.
Các dịch bệnh có thể kéo dài 1-2 năm trong các cộng đồng lớn hơn [212].
Phân bố theo địa lý
Dịch bệnh xuất hiện ở tất cả các quốc gia. Dịch tễ học về bệnh chủ yếu
được nghiên cứu ở Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản [24], [70], [169], [212].
Ở Mỹ, nhiễm trùng do M. pneumoniae chiếm từ 15 - 20% các trường hợp
viêm phổi mắc phải ở cộng đồng. Đặc biệt vào mùa hè có thể gây 50% trong
tổng số viêm phổi mắc phải ở cộng đồng [212].
Ở châu Âu, báo cáo từ 10 quốc gia trong Liên minh châu Âu, từ cuối
năm 2010 đến 2012, một số nước châu Âu đã trải qua sự bùng phát nhiễm M.
pneumoniae. Một số dịch liên quan đến tình trạng kháng macrolid của M.
pneumoniae [70]. Dịch bệnh từ 4,1/100.000 dân (10/2010) tăng lên
23,1/100.000 dân (10/2011) [24], [40], [208]. Ở Phần Lan từ năm 1995 đến
2011, có 22.835 trường hợp đã được thông báo. Dịch bệnh trước đó xảy ra
trong những mùa đông năm 2000-2002 và năm 2004-2006. Đỉnh cao trong
năm 2005 (1881 trường hợp, 36/100.000 dân) [169].
Một nghiên cứu đa quốc gia ở châu Á (2005) cho thấy M. pneumoniae
là nguyên nhân quan trọng gây viêm phổi mắc phải ở cộng đồng trong đó trẻ
em chiếm 22,3% [158].
Giới tính
Tỷ lệ nhiễm M. pneumoniae ở cả hai giới là tương đương. Ở Tecumseh,
tỷ lệ nhiễm ở phụ nữ cao hơn do họ tiếp xúc gần với trẻ em [75].
Chủng tộc
Hầu như không có sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm bệnh cũng như triệu
chứng lâm sàng của viêm phổi giữa các chủng tộc [212].
11
Nghề nghiệp
Tỷ lệ nhiễm cao trong các tân binh, các bà mẹ có con ở tuổi đến trường,
ở những người làm việc trong môi trường bệnh viện [212].
Yếu tố kinh tế xã hội
Ở những quốc gia kinh tế phát triển, có điều kiện vệ sinh cao, phơi
nhiễm với M. pneumoniae bị trì hoãn đến cuối thời thơ ấu, khi bị bệnh dễ biểu
hiện nhiều triệu chứng nặng hơn [212].
1.3.2. Đặc điểm dịch tễ học viêm phổi do Chlamydia pneumoniae
Tác nhân vi sinh Chlamydia pneumoniae
Vị trí và phân loại Chlamydia pneumoniae
Chlamydia gồm hai chi Chlamydia và Chlamydophila thuộc họ
Chlamydiaceae, bộ Chlamydiales. C. pneumoniae là một trong 4 loài thuộc
họ Chlamydiaceae gây bệnh cho người.
Hình thái, cấu trúc Chlamydia pneumoniae
Cấu trúc tế bào Chlamydia pneumoniae
Chlamydia là sinh vật bắt buộc phải sống trong tế bào vật chủ. Vách
của Chlamydia có cấu tạo giống vách của vi khuẩn Gram âm, với
lipopolysaccharide ở màng ngoài [124].
Hình 1.5: Sơ đồ mô phỏng Chu trình nhân lên của Chlamydia
tiểu thể cơ bản EB (Elementary Body) truyền nhiễm
và tiểu thể dạng lưới RB (reticulate body) không truyền nhiễm [20].
Hình thức khác
thường
12
Tiểu thể cơ bản - Elementary Body (EB) ở dạng đặc biệt không hoạt
động, tồn tại trong môi trường ngoại bào. Bên trong tế bào, thể lưới -
reticulate body (RB) ở dạng hoạt động và có khả năng sinh sản. Chlamydia
cần adenosine triphosphate (ATP) và nguồn chất dinh dưỡng từ một tế bào
chủ để trao đổi chất và nhân lên [161].
Cấu trúc kháng nguyên Chlamydia pneumoniae
Chlamydia có nhiều kháng nguyên protein đặc hiệu cho chi, cho loài và
cho typ huyết thanh [20].
- Lipopolysaccharide (LPS): đặc hiệu chung cho chi. LPS đóng vai trò
quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của nhiễm trùng Chlamydia [20].
- Protein chính ở màng ngoài (MOMP) – protein 40 kilo Dalton (KDa)
là kháng nguyên (KN) nổi trội ở màng ngoài do gen omp1 quy định [20].
- Phức hợp protein màng ngoài (omc) được hình thành bởi 3 protein:
MOMP và 2 protein giàu cystein omcA và omcB [182].
- Protein màng ngoài đa hình thái (PMP) là một nhóm protein (20
protein) nằm ở bề mặt [20].
- Hệ thống dịch tiết type III: khi được hoạt hóa, protein của Chlamydia
được bơm vào trong bào tương của tế bào chủ, tạo tín hiệu cho tế bào chủ
chuyển chất dinh dưỡng vào cho thể vùi. Các protein này còn tham gia vào quá
trình ly giải tế bào chủ để giải phóng EB [20].
- Protein shock nhiệt (Hsp) Hsp 10, Hsp60 và Hsp 70 có tính sinh miễn
dịch cao nên có vai trò chủ yếu trong cơ chế bệnh sinh và tham gia gây bệnh
tự miễn dịch, dẫn đến xơ hóa [20].
Chlamydia có chứa 60 protein màng được tiết từ bộ máy màng tiết loại
III. Chúng tham gia tiếp xúc với các tế bào chất của tế bào chủ và để lưu trữ tế
bào chất tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng Chlamydia [20].
Cấu trúc phân tử Chlamydia pneumoniae
Bộ gen của C. pneumoniae chủng J39 và chủng CUL 039 đã được giải
trình tự. Bộ gen của C. pneumoniae là 1,13.106 Bp (base pair). Bộ gen của
Chlamydia tương đối bền vững, ít sắp xếp lại [20].
13
Cơ chế g