Trong số nhiều mắt xích khác nhau của môi trường, diễn biến chất lượng
của môi trường biển - môi trường có tính linh động cao và lan truyền không biên
giới, được quan tâm nhiều và sâu sắc ở tầm mức quốc gia, khu vực và quốc tế.
Việt Nam - đất nước có bờ biển dài khoảng 3260 km và vùng biển đặc
quyền kinh tế rộng gấp nhiều lần diện tích đất liền, đang đứng trước một loạt vấn
đề về môi trường và tài nguyên trong phạm vi biển và đới bờ của mình, trong đó
có những nguyên nhân tại chỗ, khu vực và Quốc tế. Trong số nhiều yếu tố có
khả năng gây ô nhiễm môi trường biển có yếu tố phóng xạ.
Các yếu tố phóng xạ trong môi trường biển, bao gồm:
- Các đồng vị phóng xạ nhân tạo (chủ yếu quan tâm đến các đồng vị
sống dài
90
Sr,
137
Cs,
239,240
Pu, v.v ) xâm nhập vào môi trường biển bởi: (1) Thử
vũ khí hạt nhân trong khí quyển và trong nước; (2) Phóng thích thông lệ có kiểm
soát thải phóng xạ mức thấp của các cơ sở hạt nhân (nhà máy điện hạt nhân, cơ
sở xử lý lại nhiên liệu, cơ sở chế tạo vũ khí hạt nhân, v.v ); (3) Tàng trữ thải
phóng xạ dưới đáy biển trong quá khứ; (4) Sự cố hạt nhân (như sự cố Chernobyl,
sự cố Fukushima, sự cố tàu ngầm nguyên tử, vệ tinh và các sự cố xảy ra trong
quá trình thu nhận, sử dụng, vận chuyển các chất phóng xạ trên đường biển) [2].
- Các đồng vị phóng xạ tự nhiên (chủ yếu quan tâm đến chuỗi U, Th và
các sản phẩm phân rã của chúng, trong đó có
226
Ra).
Trên thế giới, Hội nghị Quốc tế về ô nhiễm biển nhân năm Quốc tế về Đại
dương 1998 được Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) phối hợp với
ủy ban Đại dương liên chính phủ (IOC) của UNESCO, Chương trình môi trường
Liên hợp quốc (UNEP), Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO), Ủy ban Quốc tế về
thám hiểm khoa học Địa Trung Hải (CIEMS) tổ chức tại Ph òng thí nghiệm môi
trường biển Quốc tế ở Monaco vào hạ tuần tháng 10/1998, Chương trình hợp tác
vùng Châu Á - Thái Bình Dương về phóng xạ môi trường biển gồm 12 nước
tham gia trong đó có Việt Nam,v.v đã cung cấp một bức tranh khá toàn diện
2
về thực trạng của nghiên cứu, đánh giá ô nhiễm môi trường biển hiện nay với sự
nhấn mạnh đến vai trò của các phương pháp hạt nhân và đồng vị trong lĩnh vực
này.
Ở Việt Nam, trong những năm qua, việc nghiên cứu đánh giá phóng xạ
môi trường biển cũng đã được bước đầu chú ý đến thông qua việc thực hiện một
số đề tài cấp Bộ KH&CN do Viện Nghiên cứu hạt nhân, Viện Khoa học và Kỹ
thuật hạt nhân, Viện Hải dương học Nha Trang, v,v. thực hiện. Từ các đề tài
này đã tiến hành thu góp mẫu với số lượng hạn chế khoảng 200 mẫu tại các vị trí
chọn lọc (Cát Bà, Cửa Lò, Vịnh Nha Trang, Ninh Thuận, Phan Thiết, Vũng Tàu
và Cửa Đại Sông Tiền) và tiến hành phân tích hàm lượng các nguyên tố trong
các mẫu đã thu góp. Các kết quả tiêu biểu thu được của các đề tài này là đã xác
lập được bộ quy trình thu góp, xử lý, bảo quản và phân tích các nguyên tố phóng
xạ tự nhiên và nhân tạo quan trọng (
238
U,
232
Th,
210
Po,
90
Sr,
137
Cs,
239,240
Pu, v.v
) trong một số đối tượng môi trường biển và bước đầu cung cấp một số các
thông tin về mức hiện hữu các nhân phóng xạ kể trên trong môi trường biển Việt
Nam.
Tính cách (đặc điểm, hành vi, trạng thái, sự chuyển hóa, ), hàm lượng,
sự phân bố, sự dịch chuyển của các nguyên tố hóa học, các đồng vị phóng xạ (tự
nhiên và nhân tạo) trong các đối tượng, hợp phần của môi trường biển luôn thu
hút sự quan tâm nghiên cứu tìm hiểu, khảo sát và đánh giá của giới khoa học vì
biển và đại dương là môi trường sống quan trọng của nhân loại.
Nhiều vấn đề liên quan đến môi trường biển của Việt Nam nói chung và
nói riêng là những vấn đề đối tượng nghiên cứu được liệt kê ở trên còn chưa
được nghiên cứu, hiểu biết một cách thấu đáo, đầy đủ.
Vấn đề nghiên cứu đặt ra cho luận án chính là nhằm mục đích góp phần
bổ khuyết những thiếu hụt hiện nay về thông tin dữ liệu trong lĩnh vực được lựa
chọn.
Bản luận án với tiêu đề: “Nghiên cứu phát triển phương pháp phổ alpha
xác định hàm lượng
226
Ra và khảo sát sự phân bố, hành vi của nó trong môi
trường biển”
161 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1684 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu phát triển phương pháp phổ alpha xác định hàm lượng 226 Ra và khảo sát sự phân bố, hành vi của nó trong môi trường biển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
MÔÛ ÑAÀU
Trong số nhiều mắt xích khác nhau của môi trường, diễn biến chất lượng
của môi trường biển - môi trường có tính linh động cao và lan truyền không biên
giới, được quan tâm nhiều và sâu sắc ở tầm mức quốc gia, khu vực và quốc tế.
Việt Nam - đất nước có bờ biển dài khoảng 3260 km và vùng biển đặc
quyền kinh tế rộng gấp nhiều lần diện tích đất liền, đang đứng trước một loạt vấn
đề về môi trường và tài nguyên trong phạm vi biển và đới bờ của mình, trong đó
có những nguyên nhân tại chỗ, khu vực và Quốc tế. Trong số nhiều yếu tố có
khả năng gây ô nhiễm môi trường biển có yếu tố phóng xạ.
Các yếu tố phóng xạ trong môi trường biển, bao gồm:
- Các đồng vị phóng xạ nhân tạo (chủ yếu quan tâm đến các đồng vị
sống dài 90Sr, 137Cs, 239,240Pu, v.v…) xâm nhập vào môi trường biển bởi: (1) Thử
vũ khí hạt nhân trong khí quyển và trong nước; (2) Phóng thích thông lệ có kiểm
soát thải phóng xạ mức thấp của các cơ sở hạt nhân (nhà máy điện hạt nhân, cơ
sở xử lý lại nhiên liệu, cơ sở chế tạo vũ khí hạt nhân, v.v…); (3) Tàng trữ thải
phóng xạ dưới đáy biển trong quá khứ; (4) Sự cố hạt nhân (như sự cố Chernobyl,
sự cố Fukushima, sự cố tàu ngầm nguyên tử, vệ tinh và các sự cố xảy ra trong
quá trình thu nhận, sử dụng, vận chuyển các chất phóng xạ trên đường biển) [2].
- Các đồng vị phóng xạ tự nhiên (chủ yếu quan tâm đến chuỗi U, Th và
các sản phẩm phân rã của chúng, trong đó có 226Ra).
Trên thế giới, Hội nghị Quốc tế về ô nhiễm biển nhân năm Quốc tế về Đại
dương 1998 được Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) phối hợp với
ủy ban Đại dương liên chính phủ (IOC) của UNESCO, Chương trình môi trường
Liên hợp quốc (UNEP), Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO), Ủy ban Quốc tế về
thám hiểm khoa học Địa Trung Hải (CIEMS) tổ chức tại Phòng thí nghiệm môi
trường biển Quốc tế ở Monaco vào hạ tuần tháng 10/1998, Chương trình hợp tác
vùng Châu Á - Thái Bình Dương về phóng xạ môi trường biển gồm 12 nước
tham gia trong đó có Việt Nam,v.v… đã cung cấp một bức tranh khá toàn diện
2
về thực trạng của nghiên cứu, đánh giá ô nhiễm môi trường biển hiện nay với sự
nhấn mạnh đến vai trò của các phương pháp hạt nhân và đồng vị trong lĩnh vực
này.
Ở Việt Nam, trong những năm qua, việc nghiên cứu đánh giá phóng xạ
môi trường biển cũng đã được bước đầu chú ý đến thông qua việc thực hiện một
số đề tài cấp Bộ KH&CN do Viện Nghiên cứu hạt nhân, Viện Khoa học và Kỹ
thuật hạt nhân, Viện Hải dương học Nha Trang, v,v... thực hiện. Từ các đề tài
này đã tiến hành thu góp mẫu với số lượng hạn chế khoảng 200 mẫu tại các vị trí
chọn lọc (Cát Bà, Cửa Lò, Vịnh Nha Trang, Ninh Thuận, Phan Thiết, Vũng Tàu
và Cửa Đại Sông Tiền) và tiến hành phân tích hàm lượng các nguyên tố trong
các mẫu đã thu góp. Các kết quả tiêu biểu thu được của các đề tài này là đã xác
lập được bộ quy trình thu góp, xử lý, bảo quản và phân tích các nguyên tố phóng
xạ tự nhiên và nhân tạo quan trọng (238U, 232Th, 210Po, 90Sr, 137Cs, 239,240Pu, v.v
…) trong một số đối tượng môi trường biển và bước đầu cung cấp một số các
thông tin về mức hiện hữu các nhân phóng xạ kể trên trong môi trường biển Việt
Nam.
Tính cách (đặc điểm, hành vi, trạng thái, sự chuyển hóa,…), hàm lượng,
sự phân bố, sự dịch chuyển của các nguyên tố hóa học, các đồng vị phóng xạ (tự
nhiên và nhân tạo) trong các đối tượng, hợp phần của môi trường biển luôn thu
hút sự quan tâm nghiên cứu tìm hiểu, khảo sát và đánh giá của giới khoa học vì
biển và đại dương là môi trường sống quan trọng của nhân loại.
Nhiều vấn đề liên quan đến môi trường biển của Việt Nam nói chung và
nói riêng là những vấn đề đối tượng nghiên cứu được liệt kê ở trên còn chưa
được nghiên cứu, hiểu biết một cách thấu đáo, đầy đủ.
Vấn đề nghiên cứu đặt ra cho luận án chính là nhằm mục đích góp phần
bổ khuyết những thiếu hụt hiện nay về thông tin dữ liệu trong lĩnh vực được lựa
chọn.
Bản luận án với tiêu đề: “Nghiên cứu phát triển phương pháp phổ alpha
xác định hàm lượng 226Ra và khảo sát sự phân bố, hành vi của nó trong môi
trường biển” tập trung vào nghiên cứu đối với 226Ra - là đồng vị phóng xạ tự
3
nhiên rất được quan tâm trong sinh thái và vệ sinh phóng xạ vì: chu kỳ bán rã dài
(T1/2: 1600 năm), độc tính phóng xạ cao, phát alpha (4.59 và 4.78 MeV) và
gamma (186 KeV), đồng thời liên tục phân rã ra 222Rn và các con cháu khác –
cũng là các nhân phát alpha và gamma đa năng lượng (E: 295, 352, 609, 1120 và
1764 KeV); vì thế, 226Ra gây nguy hại do cả chiếu ngoài và chiếu trong.
Mục tiêu của luận án:
- Phát triển phương pháp phân tích định lượng 226Ra trong các hợp phần
của môi trường biển: nước, trầm tích và sinh vật bằng kỹ thuật phổ alpha nhằm
cải thiện độ nhạy, độ chính xác so với các phương pháp khác.
- Khảo sát sự phân bố hàm lượng của 226Ra trong các hợp phần môi
trường biển tiêu biểu tại vùng biển tỉnh Ninh Thuận và sự dịch chuyển trong điều
kiện tự nhiên của 226Ra theo chu trình: nước – trầm tích – sinh vật biển.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các hợp phần môi trường biển: nước bề mặt,
trầm tích bề mặt (có độ sâu từ 0-5 cm tính từ bề mặt lớp trầm tích), rong và hải
sản (cá nục, cá bạc má, cá cơm, cá thu, cá mối, sò,…).
Phương pháp nghiên cứu của luận án là sử dụng phương pháp phân tích
phổ alpha kết hợp tách hóa phóng xạ và phương pháp phổ gamma để xác định
hoạt độ 226Ra trong các hợp phần môi trường biển.
Phạm vi nghiên cứu của luận án:
Nghiên cứu được thực hiện ở vùng ven biển tỉnh Ninh Thuận có chiều dài
khoảng 105 km; Các nghiên cứu chi tiết cho 2 vùng biển của xã Vĩnh Hải, huyện
Ninh Hải và xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước (nay là huyện Thuận Nam), tỉnh
Ninh Thuận – nơi dự kiến sẽ xây dựng 02 nhà máy điện nguyên tử với công suất
thiết kế tổng cộng khoảng 4000 – 8000 MW điện với vị trí ở gần biển và dùng
nước biển để làm nguội. Tổng số mẫu thu góp và phân tích khoảng 200 mẫu.
Thời gian khảo sát từ 2001 đến 2009. Tổng số các chỉ tiêu phân tích khoảng
1.000, trong đó 226Ra khoảng 200.
4
Ý nghĩa khoa học của luận án:
- Góp phần khẳng định tính ưu việt của phương pháp hóa phóng xạ kết
hợp với kỹ thuật đo phổ alpha so với phương pháp phân tích phổ gamma khi
phân tích các mẫu có thành phần phức tạp, đặc biệt trong đối tượng môi trường
biển có hàm lượng muối cao.
- Thiết lập quy trình tách và làm giàu để định lượng 226Ra trong các đối
tượng môi trường biển, tạo tiền đề phân tích nguyên tố này trong các đối tượng
môi trường khác.
- Cung cấp cơ sở dữ liệu về hàm lượng và sự phân bố 226Ra trong các đối
tượng môi trường biển vùng biển Ninh Thuận. Bộ số liệu thu nhận được giúp
hiểu biết về hành vi, sự phân bố, dịch chuyển và tích lũy của 226Ra trong các hợp
phần của môi trường biển.
Ý nghĩa thực tiễn của luận án:
- Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần đánh giá chất lượng môi
trường biển Việt Nam về mặt phóng xạ.
- Đóng góp một phần vào bộ số liệu nền phông phóng xạ môi trường
biển Việt Nam làm cơ sở cho các cảnh báo và đánh giá tác động môi trường từ
các khu công nghiệp, đặc biệt từ nhà máy điện hạt nhân sẽ được xây dựng và
vận hành trong tương lai gần ở Việt Nam tại khu vực nghiên cứu.
- Có thể sử dụng kết quả về hệ số tích lũy sinh học trong rong Câu kim
(Vĩnh Hải), sò và rong Mơ làm chỉ thị sinh học cho ô nhiễm phóng xạ biển nhằm
đơn giản hóa các thủ tục, chương trình cảnh báo.
Những đóng góp mới của luận án:
- Nghiên cứu phát triển phương pháp tách và làm giàu để định lượng
226Ra trong các đối tượng môi trường biển (nước biển, trầm tích và sinh vật
biển). Kiểm tra độ tin cậy của phương pháp được xác lập. Đây là các nghiên cứu
đầu tiên và có hệ thống ở nước ta.
- Khảo sát sự phân bố hàm lượng của 226Ra trong các đối tượng môi
trường biển tại vùng biển tỉnh Ninh Thuận - vùng được chọn xây dựng nhà máy
điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam và đánh giá sự dịch chuyển trong điều kiện tự
5
nhiên của 226Ra theo chu trình: nước - trầm tích - sinh vật biển. Các số liệu này
sẽ đóng góp vào bộ số liệu Quốc gia và Khu vực, không chỉ làm cơ sở cho các
xâm nhập tiếp theo của 226Ra, mà còn phục vụ đánh giá chất lượng môi trường
biển Việt Nam cũng như đánh giá tác động môi trường biển về mặt phóng xạ.
Bố cục của luận án:
Luận án được trình bày theo 3 chương như sau:
- Chương một là phần tổng quan, giới thiệu các nghiên cứu trong và
ngoài nước liên quan đến đề tài của luận án.
- Chương hai là đối tượng và phương pháp nghiên cứu. Chương này tập
trung mô tả phương pháp thu góp, xử lý, bảo quản và định lượng 226Ra bằng
phương pháp phổ alpha kết hợp với phổ gamma trong mẫu môi trường biển.
- Chương ba là kết quả và thảo luận. Chương này tập trung xây dựng
phát triển phương pháp tách và tạo mẫu đo phổ alpha xác định hoạt độ 226Ra
trong các đối tượng môi trường biển và đưa ra các số liệu về phân bố hàm lượng
226Ra trong một số đối tượng môi trường biển, đánh giá sự dịch chuyển trong
điều kiện tự nhiên của 226Ra theo chu trình: nước – trầm tích – sinh vật biển.
- Kết luận của luận án. Luận án khẳng định các điểm mới về mặt học
thuật.
6
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về các đồng vị phóng xạ và rađi trong môi trường biển
1.1.1. Những đặc trưng chủ yếu của môi trường biển
Trên thế giới, Đại dương chiếm khoảng 361,11×106 km2 gần 70,8% tổng
diện tích bề mặt của Trái đất, với thể tích khoảng 1,3×1018 m3 [14].
Biển Đông (Hình 1.1), thuật ngữ trong tiếng Anh là South China Sea
(SCS) để chỉ một biển rìa rộng lớn,
nửa kín ở khu vực Đông Nam Á, là
một phần của Thái Bình Dương, diện
tích khoảng 3.500.000 km2, kéo dài
từ Singapore tới eo biển Đài Loan
theo hướng Tây Nam - Đông Bắc.
Biển Đông có thể tích khoảng
3.938.000 km3. Độ sâu trung bình
1140m, vực sâu nhất 5016m thuộc rìa
lục địa Philippines. Vùng biển nông
của Biển Đông được nối liền với Biển
Đông Hải (Trung Quốc) qua eo Đài
Loan và Biển Java qua eo Malacca. Khu vực nước sâu chiếm toàn bộ phần trung
tâm và đông bắc Biển với hai eo biển sâu Luzon (trên 5000 m) và Midoro (trên
2000 m) nối liền với các vùng nước sâu của Thái Bình Dương và biển Sulu.
Xung quanh Biển Đông có nhiều dãy núi bao bọc, nhiều dãy cao hơn 500 m, như
những dãy núi ở phía tây Việt Nam hay các dãy núi trên quần đảo Philippines.
Các dãy núi hẹp Châu Á giữ chặt các trung tâm đối lưu gió mùa.
Xung quanh Biển Đông có khá nhiều sông đổ vào, trong đó, 3 sông lớn
nhất là Sông Pearl (Quảng Châu, Trung Quốc), Sông Hồng và Sông Mê - Kông.
Lưu lượng của các con sông ở đây biến đổi mạnh theo mùa. Ví dụ, sông Mê -
Kông, lượng nước từ tháng 5 – tháng 10 chiếm 70% lượng nước trong năm (~5.2
N
E
Hình 1.1. Biển Đông (South China Sea)
Ghi chú: 50 : đường đẳng sâu (m)
7
x 1011m3) chiếm tới 16% lượng nước mưa trong lưu vực xung quanh Biển Đông
trong cùng thời gian (~3.2 x 1012m3). Nước mưa có thể gây ảnh hưởng tới dòng
chảy biển ở dải ven bờ, đặc biệt là các khu vực có cửa sông lớn [12].
1.1.1.1. Một số đặc điểm chính về hoàn lưu ở Biển Đông
Trên cơ sở phân tích các điều kiện tự nhiên, các nhân tố ảnh hưởng chủ
yếu và các kết quả nghiên cứu lý thuyết, phân tích, tổng hợp số liệu khảo sát có
thể khẳng định rằng chế độ hoàn lưu Biển Đông mang tính chất hoàn lưu mùa và
là kết quả của quá trình tương tác biển - khí quyển khu vực trong điều kiện hoạt
động mạnh mẽ của gió mùa.
Vào mùa đông (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau), vùng biển Việt Nam
chịu ảnh hưởng của dòng hải lưu Kuroshio từ Thái Bình Dương vào vùng biển
Việt Nam theo hai nhánh: Nhánh thứ nhất vào qua eo Luzon, nhánh thứ hai vào
Biển Hoa Đông, Trung Quốc chạy dọc ven bờ Quảng Đông vào vùng biển Việt
Nam.
Vào mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 10), vùng biển Việt Nam ở phía bắc
chịu ảnh hưởng một phần của dòng hải lưu Kuroshio, phía nam chịu ảnh hưởng
của dòng nước từ Thái Bình Dương qua eo biển Kalimantan nằm giữa Singapore
và bán đảo Kalimanta, Indonesia (Hình 1.2 và 1.3) [12], [14].
Hình 1.2. Lược đồ về dòng hải lưu ở Biển Đông (a) mùa đông và (b) mùa hè
8
Hình 1.3. Lược đồ tổng quát về dòng hải lưu lớp trên cùng ở Biển Đông. Các
mũi tên đặc chỉ dòng chảy và mũi tên mở chỉ hướng gió, (a) mùa đông và (b)
mùa hè.
Chú giải: 1. dòng Kuroshio; 2. (Loop current) dòng Kuroshio xâm nhập
trực tiếp; 3. (SCSBK) dòng uốn Kuroshio; 4. (NW Luzon Cyclonic Gyre) dòng
xoáy tây bắc Luzon; 5. (NW Luzon Cyclonic Eddy) dòng xoáy tròn tây bắc
Luzon; 6. (NW Luzon Coastal Current) dòng dòng bờ tây Luzon; 7. (SCSWC)
dòng chảy ấm Biển Đông; 8. dòng ven bờ Quảng Đông; 9. (SCS Southern
Cyclonic Gyre) dòng xoáy thuận nam Biển Đông; 10. Dòng ngoài khơi thềm lục
địa Natuna; 11. (SCS Southern Anticyclonic Gyre) dòng xoáy nghịch nam Biển
Đông; 12. Dòng ngoài khơi đông nam Việt Nam.
1.1.1.2. Độ mặn vùng khơi và ven bờ biển Việt Nam
Khu vực Vịnh Bắc bộ, Vịnh Thái Lan và bờ biển đồng bằng Nam bộ là
những nơi có dòng sông lớn đổ vào nên độ mặn thay đổi rất mạnh giữa mùa mưa
và mùa khô. Phần lớn nước vùng ven bờ Vịnh Bắc bộ có độ mặn nhỏ hơn 34‰
và Vịnh Thái Lan nhỏ hơn 33,5‰. Càng vào gần bờ, độ mặn càng giảm đáng
kể. Về mùa hè (mùa mưa) thường xuất hiện các tâm nước nhạt ở vùng cửa sông
Hồng, cửa sông Cửu Long và ven Vịnh Thái Lan. Về mùa Đông, các tâm và dải
nước lợ trong sông đổ ra bị ép sát vào bờ và có khả năng biến mất phụ thuộc vào
lưu lượng nước trong sông đổ ra. Khu vực ven bờ miền Trung có độ mặn khá ổn
định, thường đạt các giá trị cao vào thời gian từ các tháng 9 đến tháng 12 với giá
trị khoảng 33,4 – 34,0‰. Tại các khu vực nước trồi có độ mặn khá cao do nước
từ các tầng sâu tải lên [12], [14].
9
1.1.2. Phóng xạ môi trường biển
Các nhân phóng xạ trong khí quyển rơi lắng trực tiếp xuống đại dương và
cũng có thể gián tiếp từ các con sông chảy vào. Tuy nhiên, các chất phóng xạ
cũng được thải trực tiếp ra đại dương như các chất thải lỏng và các chất thải rắn
của một số cơ sở hạt nhân và liên quan. Một số nhân phóng xạ tồn tại trong nước
dưới dạng tan, một số khác không tan tồn tại dưới dạng các hạt chất rắn lơ lửng
hoặc cộng kết thành các hạt chuyển xuống trầm tích [8], [13].
Một số nguyên nhân chính tác động đến môi trường biển là: Thử vũ khí
hạt nhân trong khí quyển và trong nước; Tàng trữ thải phóng xạ dưới đáy biển;
Sự cố hạt nhân (như sự cố Chernobyl, sự cố Fukushima, sự cố tàu ngầm nguyên
tử, vệ tinh và các sự cố xảy ra trong quá trình thu nhận, sử dụng, vận chuyển các
chất phóng xạ trên đường biển); Phóng thích thông lệ có kiểm soát thải phóng xạ
mức thấp của các cơ sở hạt nhân (nhà máy điện hạt nhân, cơ sở tái xử lý nhiên
liệu, cơ sở chế tạo vũ khí hạt nhân, v.v…); và sự đóng góp của các đồng vị
phóng xạ tự nhiên chuỗi U, Th và các sản phẩm phân rã của chúng, trong số đó
nguy hại nhất phải tính đến 238U, 232Th, 226Ra và 210Po. Bên cạnh đó, các hoạt
động Công nghiệp, như công nghiệp khai thác quặng phóng xạ, công nghiệp
khai thác sa khoáng ven biển, công nghiệp thăm dò và khai thác dầu khí, v.v… ở
các nước bao quanh Biển Đông cũng dẫn đến tăng mức phông phóng xạ trong
môi trường biển [2], [3], [9], [44].
1.1.2.1. Các nguồn chính của các đồng vị phóng xạ nhân tạo
1.1.2.1a. Thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển và trong nước:
Thành phần các đồng vị phóng xạ nhân tạo xâm nhập vào đại dương, về
cơ bản, được qui định bởi các sản phẩm phân chia của nhiên liệu hạt nhân. Bảng
1.1 đưa ra đặc trưng của các hạt nhân có thời gian sống dài và nguy hại nhất
được tạo ra khi phân chia 235U. Tương quan giữa chúng có thể thay đổi và phụ
thuộc vào loại nhiên liệu, dạng và điều kiện diễn ra phản ứng [8], [60].
10
Bảng 1.1. Các nhân phóng xạ chủ yếu hình thành trong quá trình phân chia
235U [60].
Hạt nhân T1/2 Hiệu suất khi phân chia, %
90Sr
91Y
95Zr
95Nb
99Tc
106Ru
131I
137Cs
140Ba
144Ce
147Pm
28.82 năm
58.51 ngày
63.98 ngày
34.97 ngày
2.14105 năm
366.58 ngày
8.04 ngày
30.17 năm
12.79 ngày
284.5 ngày
2.62 năm
5.3
5.9
6.4
-
6.2
0.5
3.0
6.2
6.8
5.3
2.6
Trong số tất cả các loại thử hạt nhân thì loại thử trong không khí và dưới
nước gây ô nhiễm môi trường mạnh hơn cả. Khi thử trong không khí làm xuất
hiện các hạt nhân phóng xạ có nguồn gốc là: Các sản phẩm phân chia, một phần
nhiên liệu hạt nhân không kịp cháy và các sản phẩm kích hoạt của nơtrôn với
các thành phần của môi trường (không khí, nước, bùn - đất). Các sản phẩm này
dần dần lắng đọng xuống mặt đất, mặt nước. Các kết quả quan trắc cho thấy mật
độ rơi lắng phóng xạ ở Bắc bán cầu cao hơn đáng kể so với ở Nam bán cầu. Điều
này được xác định bởi các nguyên nhân khí tượng, cũng như bởi phân bố vị trí
của các vụ thử (Bảng 1.2). Lượng rơi lắng toàn cầu (xác định bằng thực nghiệm)
của 90Sr và 137Cs được trình bày trong Bảng 1.3 [8], [60].
Bảng 1.2. Đặc trưng các vụ thử hạt nhân trên thế giới [60]
Nước Số vụ thử Công suất (Mt)
Khí quyển Dưới
đất
Tổng Khí quyển Dưới
đất
Tổng
Trung Quốc 22 22 44 21 1 22
Pháp 50 160 210 10 3 13
11
Ấn Độ - 6 6
Pakistan - 6 6
Anh 33 24 57 8 2 10
Mỹ 219 908 1127 154 46 200
Liên Xô cũ 219 750 969 247 38 285
Tổng các nước 543 1876 2419 440 90 530
Bảng 1.3. Rơi lắng toàn cầu của 90Sr và 137Cs [60].
Năm Lượng, 1016 Bq
90Sr 137Cs
1961
1962
Tích lũy đến 12/1962
1.72
5.13
22.5
-
8.4
37.5
Dự tính rằng, đến năm 1963, trong khí quyển ở độ cao 30 km có khoảng
2.61017Bq 90Sr, và lượng này sẽ tiếp tục rơi lắng cho đến nay.
Do các vụ thử hạt nhân, ngoài các nhân phát gamma, bêta còn có một
lượng đáng kể các hạt nhân phát alpha xâm nhập vào môi trường. Trong số đó,
nguy hại nhất phải tính đến 239Pu. Theo đánh giá của nhiều tác giả: Tính đến
cuối năm 1963, có khoảng 2.51016 Bq 239Pu đã rơi lắng vào môi trường; và tính
đến năm 1972, khoảng một nửa lượng này đã rơi lắng xuống các vùng thử hạt
nhân [2], [9].
1.1.2.1b. Tàng trữ thải phóng xạ dưới đáy biển:
Trong quá trình tái xử lý nhiên liệu hạt nhân và hoạt động của nhà máy
điện nguyên tử cũng tạo ra một lượng có ý nghĩa các thải phóng xạ ở các dạng
lỏng, rắn và khí. Đáng quan tâm hơn cả ở đây là thải phóng xạ lỏng có thành
phần khác nhau. Nhìn chung, bất kỳ phương pháp nào để xử lí chúng cũng cần
được kiểm soát trong suốt thời gian cất trữ. Với các thải phóng xạ hoạt độ cao
thường được chứa vào các container hoặc bêton hóa, sau đó tàng trữ trong các
vùng riêng biệt và chịu sự kiểm soát. Trong quá khứ, một phần các khối thải này
đã bị phóng thích vào đại dương và gây ô nhiễm môi trường biển do vật liệu làm
12
container bị ăn mòn và các khối bêton cũng chỉ có độ bền hữu hạn (khoảng 30
năm). Một số vị trí điển hình chôn cất chất thải dưới đáy Đại dương được nêu
trong Bảng 1.4 và Hình 1.4 [32].
Bảng 1.4. Các vị trí chôn thải phóng xạ dưới đáy Đại dương [24]
Vùng chôn thải Số vị trí chôn Hoạt độ (PBq)
North-East Pacific 16 0,55
North-West Atlantic 11 2,94
North-East Atlantic 15 42,31
West Pacific 5 0,02
Hình 1.4. Các vị trí chôn thải phóng xạ dưới đáy đại dương.
1.1.2.1c. Sự cố hạt nhân:
Sự cố Chernobyl vào năm 1986 dẫn đến phóng thích vào môi trường
khoảng 1900 PBq đồng vị phóng xạ các loại (không kể khí trơ phóng xạ), trong
đó hoạt độ phóng xạ của 137Cs là 70 PBq. Sự cố Fukushima được sơ bộ đánh giá
phóng thích vào khí quyển khoảng 175 PBq của các đồng vị 131I, 134Cs và 137Cs;
ngoài ra có khoảng 2800 TBq131I, 940 TBq 134Cs, 940 TBq 137Cs trực tiếp thải ra
môi trường biển [8], [20], [58].
Một vài sự cố hạt nhân khác cũng đã phóng thích các hạt nhân phóng xạ
vào môi trường, nhưng nói chung là không đáng kể. Bảng 1.5 chỉ ra hoạt độ
phóng xạ của các sản phẩm phóng thích từ các sự cố hạt nhân trên thế giới.
13
Bảng 1.5. Hoạt độ phóng xạ các sản phẩm phóng thích từ các sự cố hạt nhân
[8], [41]
Sự cố hạt nhân Hoạt độ phóng thích (PBq)
90Sr 131I 137Cs 238Pu 239,240Pu
Chernobyl 10 1760 85 0,035 0,072
Kyshtym (1957) 0,04
Windscale (1957) 0,7 0,0