1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự phát triển của xã hội loài người
chính là sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội
trong lịch sử được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản
xuất là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt của quá trình sản xuất vật chất là lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan
hệ biện chứng với nhau, tạo ra sự vận động và biến đổi của phương thức sản xuất. Mọi
sự biến đổi của phương thức sản xuất và sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội
xét đến cùng đều bắt nguồn từ sự thay đổi của lực lượng sản xuất, cho nên lực lượng
sản xuất là yếu tố quyết định mọi sự thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội.
Lực lượng sản xuất được cấu thành từ nhiều yếu tố, trong đó người lao động là
yếu tố quyết định. Mặc dù ngày nay, khoa học - công nghệ đã có bước phát triển mạnh
mẽ, khoa học đã từng bước trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp nhưng có thể khẳng
định,người lao động vẫn là yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện
đại.
Kế thừa quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta cũng nhấn mạnh trước hết đến sự phát triển lực
lượng sản xuất để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã đưa ra quan điểm: “Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất" [29, tr.30-31]; nhất là "phát triển lực lượng sản xuất hiện đại” [31, tr.27]
147 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1926 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
&
LÊ THỊ CHIÊN
NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ CHIÊN
NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số: 62 22 03 02
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS,TS NGUYỄN HÙNG HẬU
2. PGS,TS ĐẶNG QUANG ĐỊNH
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án của tôi là một công trình nghiên
cứu nghiêm túc, khoa học. Các thông tin và số liệu trích dẫn đều có
nguồn gốc rõ ràng, tin cậy. Những đánh giá, kết luận được đưa ra
trong luận án là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không trùng lặp,
sao chép ở bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đó.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước những lời cam đoan của
mình!
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lê Thị Chiên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận về nhân tố
người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại 6
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng của nhân tố người lao động
trong lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay 16
1.3. Những nghiên cứu liên quan đến quan điểm, giải pháp nhằm phát triển
nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt
Nam hiện nay 22
1.4. Giá trị của những công trình nghiên cứu đã tổng quan và những vấn đề
đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm 28
Chương 2: NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
HIỆN ĐẠI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 32
2.1. Lực lượng sản xuất và lực lượng sản xuất hiện đại 32
2.2. Vai trò và những yêu cầu cơ bản của người lao động trong lực lượng
sản xuất hiện đại 55
2.3. Những yếu tố chủ yếu tác động đến người lao động trong quá trình xây
dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay 66
Chương 3: NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN
CHỦ YẾU 76
3.1. Thực trạng của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện
đại ở Việt Nam hiện nay 76
3.2. Những nguyên nhân chủ yếu của những mặt tích cực và hạn chế ở
người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay 96
Chương 4: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT
TRIỂN NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM 114
4.1. Những quan điểm cơ bản để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng
yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam 114
4.2. Những giải pháp cơ bản để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng
yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam 120
KẾT LUẬN 137
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 140
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 142
DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
STT TÊN BẢNG TRANG
Bảng 1 Thời gian đưa các phát minh khoa học vào ứng dụng 44
Bảng 2 So sánh sự khác nhau giữa kinh tế công nghiệp và kinh
tế tri thức
61
Bảng 3 So sánh các tiêu chí chất lượng cơ bản nguồn nhân lực
của Việt Nam so với một số nước (tính theo thang
điểm 10)
89
Bảng 4 Cơ cấu người thất nghiệp chia theo các bậc học cao
nhất đã đạt được năm 2014
104
Bảng 5 Cơ cấu lao động phân chia theo loại hình kinh tế thời
kỳ 2009 - 2014 (đơn vị tính: %)
109
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự phát triển của xã hội loài người
chính là sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội
trong lịch sử được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản
xuất là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt của quá trình sản xuất vật chất là lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan
hệ biện chứng với nhau, tạo ra sự vận động và biến đổi của phương thức sản xuất. Mọi
sự biến đổi của phương thức sản xuất và sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội
xét đến cùng đều bắt nguồn từ sự thay đổi của lực lượng sản xuất, cho nên lực lượng
sản xuất là yếu tố quyết định mọi sự thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội.
Lực lượng sản xuất được cấu thành từ nhiều yếu tố, trong đó người lao động là
yếu tố quyết định. Mặc dù ngày nay, khoa học - công nghệ đã có bước phát triển mạnh
mẽ, khoa học đã từng bước trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp nhưng có thể khẳng
định,người lao động vẫn là yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện
đại.
Kế thừa quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta cũng nhấn mạnh trước hết đến sự phát triển lực
lượng sản xuất để tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã đưa ra quan điểm: “Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất" [29, tr.30-31]; nhất là "phát triển lực lượng sản xuất hiện đại” [31, tr.27]
Trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, Đảng ta đặc biệt ưu tiên phát triển
nhân tố người lao động, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao. Đây được coi là một trong ba khâu đột phá chiến lược, góp phần phá vỡ những
“điểm nghẽn” đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta nói riêng và
phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đại hội XI khẳng định: “Phát triển, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu
tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước” [29, tr.41]. Quan điểm này tiếp
tục được Đại hội XII nhấn mạnh thêm: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách,
2
giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội” [31, tr.295-296].
Trong những năm qua, mặc dù đội ngũ người lao động tham gia vào quá trình
sản xuất vật chất ở nước ta ngày càng tăng lên về số lượng; được cải thiện về thể lực;
nâng cao về trình độ, tay nghề, có đóng góp lo lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu của nền sản xuất hiện đại, người lao động ở
nước ta còn nhiều bất cập. Nhìn chung, sức khỏe, thể lực còn kém; trình độ, tay nghề
còn thấp; ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi
trường sinh thái chưa cao, tính tích cực trong lao động sản xuất chưa được phát huy
một cách tối đa Những hạn chế đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam, làm cho “nền kinh tế chủ yếu vẫn phát
triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn,
tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa vào tri thức và khoa học công nghệ, thiếu
nhiều lao động có kỹ năng” [31, tr.84], năng suất lao động thấp, tốc độ phát triển kinh
tế chưa cao, đời sống nhân dân chậm được cải thiện. Ngoài ra, những hạn chế đó còn
tạo ra những rào cản đáng kể khi người lao động nước ta tham gia vào thị trường lao
động thế giới cũng như các nước trong cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Do vậy, để
hiện đại hóa nền sản xuất xã hội, một trong những vấn đề cốt lõi nhất, cần được ưu
tiên hàng đầu là phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại,
tạo ra bước đột phá để thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững cho đất nước.
Xuất phát từ yêu cầu đó, tôi chọn vấn đề “Nhân tố người lao động trong phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu trong
luận án tiến sĩ triết học.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng nhân tố người lao động trong lực lượng sản
xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản
để phát triển nhân tố người lao động đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở
Việt Nam trong những năm tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
Để đạt được được mục tiêu trên, luận án thực hiện được những nhiệm vụ cụ thể
sau:
Một là, tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến lực lượng sản
xuất hiện đại, nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại;
Hai là, làm rõ khái niệm, biểu hiện của lực lượng sản xuất hiện đại; vai trò và
yêu cầu của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại;
Ba là, phân tích thực trạng của nhân tố người lao động trong phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay trên cả hai phương diện là ưu điểm và hạn chế;
đồng thời chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng đó;
Bốn là, đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản để phát triển nhân tố
người lao động nhằm đáp ứng yêu cầu của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam
trong những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nhân tố người lao động với tư cách là yếu
tố cấu thành của lực lượng sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi đối tượng nghiên cứu: Trong nền sản xuất hiện đại, không chỉ có
người lao động trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất mà cả những người quản lý
sản xuất, những kĩ sư, những nhà khoa học - công nghệ cũng chính là chủ thể của quá
trình sản xuất vật chất. Tuy nhiên, luận án chỉ giới hạn trong phạm vi khảo sát, phân
tích thực trạng người lao động là công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất
kinh doanh vì lực lượng lao động này chiếm tỷ lệ lớn và cũng phản ánh nét đặc trưng
cơ bản về trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi thời gian và không gian nghiên cứu: nhân tố người lao động ở Việt
Nam từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về lực lượng sản
xuất, về vai trò của nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản xuất. Luận
án cũng dựa trên những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; chính
4
sách, pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc phát triển nhân
tốcon người nói chung và phát triển nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất
hiện đại. Ngoài ra, luận án cũng kế thừa giá trị của những công trình nghiên cứu trước
đó những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, như phương pháp trừu tượng hóa
khoa học, phương pháp lôgíc - lịch sử... Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê... để triển khai các nội dung của luận án.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
5.1. Ý nghĩa khoa học của luận án
- Luận án góp phần nghiên cứu sâu thêm, làm phong phú thêm một số vấn đề lý
luận về lực lượng sản xuất. Đặc biệt, luận án làm rõ thêm vai trò của nhân tố người lao
động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng để làm tài liệu tham khảo
cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy triết học Mác - Lênin nói riêng và các ngành
khoa học xã hội khác nói chung.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm thực trạng của nhân tố người lao động
trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay; đặc biệt là góp phần làm rõ hơn những
ưu điểm và hạn chế của người lao động là công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ
sở sản xuất kinh doanh ở nước ta trong thời gian qua.
- Luận án cũng có giá trị tham khảo trong việc hoạch định chính sách về phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung và phát triển lực lượng sản xuất ở các tỉnh,
thành trong cả nước nói riêng.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4
chương với 11 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Lực lượng sản xuất và nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng sản
xuất vốn là một trong những vấn đề rất cơ bản của triết học Mác - Lênin. Vì vậy, cho
đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Liên quan đến nội dung của
luận án, tác giả đã tổng quan những tài liệu đó thành ba nhóm chính theo bố cục ba
chương của luận án.
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ NHÂN TỐ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT HIỆN ĐẠI
1.1.1. Những nghiên cứu lý luận về lực lượng sản xuất hiện đại
Trước sự phát triển không ngừng của khoa học - công nghệ, lực lượng sản xuất
đã có những bước phát triển đáng kể, theo hướng hiện đại. Vì vậy, gần đây có một số
công trình bàn về lực lượng sản xuất hiện đại, lực lượng sản xuất mới. Trong giới hạn
của vấn đề nghiên cứu, luận án không tổng quan những công trình nghiên cứu về lực
lượng sản xuất nói chung mà chỉ đi sâu tổng quan những công trình nghiên cứu về lực
lượng sản xuất hiện đại, lực lượng sản xuất mới. Dưới góc độ đó, có thể kể đến những
công trình nghiên cứu tiêu biểu là:
Cuốn sách Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức do hai tác giả Vũ Đình
Cự, Trần Xuân Sầm (chủ biên) [17] đã phân tích luận điểm của C.Mác về vai trò của
khoa học đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Các tác giả đã khẳng định, trong
thời đại ngày nay, lực lượng sản xuất không đơn thuần chỉ là sự kết hợp của hai yếu tố
người lao động và tư liệu sản xuất nữa mà sự phát triển không ngừng của khoa học -
công nghệ để dẫn đến sự ra đời của lực lượng sản xuất mới - lực lượng sản xuất hiện
đại. Nhờ đó, nền kinh tế của thế giới đã có bước chuyển biến quan trọng từ nền kinh tế
công nghiệp thuần túy sang nền kinh tế tri thức.
Trong chương 7: “Những đặc điểm chủ yếu của lực lượng sản xuất mới”, các
tác giả đã chỉ ra 5 biểu hiện chứng tỏ khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp: Một là, số lượng nhân lực khoa học tham gia vào quá trình sản xuất chiếm tỷ lệ
ngày càng cao, vượt trội so với số lượng lao động thủ công; hai là, các máy móc, các
dây truyền sản xuất trong các xí nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với các phòng thí
6
nghiệm; ba là,thời gian cho các ứng dụng khoa học đi từ phòng thí nghiệm ra thị
trường ngày càng được rút ngắn; bốn là, các doanh nghiệp, trường đại học và viện
nghiên cứu gắn bó với nhau ngày càng chặt chẽ; năm là, khoa học trong lực lượng sản
xuất mới không chỉ bao hàm khoa học công nghệ mà còn bao hàm cả các ngành khoa
học xã hội. Những đặc điểm trên đã cho thấy sự khác biệt rất lớn của lực lượng sản
xuất mới so với lực lượng sản xuất trước kia. Từ đó, các tác giả khẳng định, tri thức
chính là sức mạnh nòng cốt của lực lượng sản xuất mới:
Vì tri thức có vai trò quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế nên lực lượng sản
xuất mới không chỉ có mặt trong những ngành sản xuất mới xuất hiện mà
nó còn lan tỏa, cải tạo, đổi mới các ngành sản xuất cũ của nền kinh tế. Như
vậy, lực lượng sản xuất mới cuối cùng sẽ thay thế hoàn toàn lực lượng sản
xuất cũ, qua một quá trình phát triển biện chứng, có sử dụng triệt để những
tiền đề mà lực lượng sản xuất cũ tạo ra [17, tr.145-146].
Từ những phân tích chung đó, trong chương 18 với tên gọi: “Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta”, các tác giả đã khẳng định
đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức của Đảng ta
hiện nay là hoàn toàn đúng đắn, góp phần vào mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu
đó cần thiết phải phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại.
Cuốn sách của các tác giả là một công trình khoa học khá công phu đã cung cấp
những vấn đề lý luận rất quan trọng và mới mẻ về lực lượng sản xuất hiện đại, diện
mạo của lực lượng sản xuất hiện đại, vai trò của lực lượng sản xuất hiện đại đối với sự
phát triển xã hội. Tuy nhiên, cần phân tích thêm những nhận định về khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vấn đề này sẽ được tác giả trình bày trong nội dung
luận án.
Bài viết: “Những đặc điểm của hệ thống công nghệ mới và lực lượng sản xuất
mới tác động quyết định đến quá trình hình thành kinh tế tri thức”, của tác giả Vũ Đình
Cự [16] đã đưa ra những quan niệm về lực lượng sản xuất mới. Theo tác giả, hệ thống
công nghệ mới thực chất chính là hệ thống công nghệ cao được hình thành từ giữa thế
kỷ XX đã có tác động to lớn đến sự biến đổi của lực lượng sản xuất, cho ra đời của lực
lượng sản xuất mới. Tác giả đã đưa ra quan niệm về lực lượng sản xuất mới như sau:
7
Lực lượng sản xuất mới, tức là lực lượng sản xuất hiện đại, dựa trên hệ
thống công nghệ mới được đặc trưng bằng năng suất rất cao, hiệu quả lớn,
ngày càng ít tác hại môi trường và ít gây mất cân bằng sinh thái (“thân” môi
trường), tiêu hao ngày càng ít năng lượng và vật liệu cho một sản phẩm,
đồng thời hàm lượng tri thức trong sản phẩm ngày càng cao” [16, tr.20-21].
Từ quan điểm này, có thể nhận thấy, tác giả đã đồng nhất lực lượng sản xuất
mới với lực lượng sản xuất hiện đại, nội hàm của khái niệm này gắn liền với trình độ
phát triển theo hướng hiện đại của lực lượng sản xuất. Trong quan điểm này, tác giả đã
đưa ra những đặc trưng nổi bật của lực lượng sản xuất mới, dùng để phân biệt với lực
lượng sản xuất cũ có trình độ lạc hậu trước kia. Từ đó, có thể nhận thấy, tác giả đề cao
vai trò của khoa học - công nghệ hiện đại trong việc hình thành nên lực lượng sản xuất
mới. Tác giả còn khẳng định thêm, sự khác nhau giữa lực lượng sản xuất mới dựa trên
hệ thống công nghệ mới so với lực lượng sản xuất của thời kỳ công nghiệp cổ điển là
lực lượng sản xuất cổ điển có các đối tượng chủ yếu là nguyên liệu, vật liệu; trong lực
lượng sản xuất mới, đối tượng lao động ngoài nguyên liệu, vật liệu còn có thông tin,
dữ liệu, tri thức.
Theo tác giả, khi lực lượng sản xuất mới ra đời, nó không chỉ làm thay đổi diện
mạo của một nền kinh tế - xã hội mà còn làm “phát sinh một hệ quả quan trọng”, đó là
toàn cầu hóa kinh tế. Vì lực lượng sản xuất phát triển nên đã tạo ra một lượng hàng
hóa dồi dào không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn hướng ra thị trường quốc
tế:
Toàn cầu hóa kinh tế hình thành do nhiều nguyên nhân khác nhưng nguyên
nhân do lực lượng sản xuất là quyết định. Nếu không có một lực lượng sản
xuất mới đảm bảo một nguồn hàng hóa và dịch vụ vô cùng phong phú, sẵn
sàng đáp ứng nhu cầu của toàn thế giới và một kết cấu hạ tầng thông tin cực
kỳ mạnh mẽ như hiện nay thì chưa thể có toàn cầu hóa kinh tế [16, tr.24].
Theo tác giả Vũ Đình Cự, vì lượng sản xuất mới có hàm lượng tri thức cao nên
việc xuất hiện toàn cầu hóa kinh tế sẽ tất yếu dẫn đến toàn cầu hóa tri thức bởi tri thức
của con người không bị giới hạn bởi những khuôn khổ chật hẹp trong một vùng, một
lãnh thổ, một quốc gia nhất định mà luôn có tính xã hội hóa, tính quốc tế rất cao. Vì
vậy, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay, muốn phát triển lực
8
lượng sản xuất theo hướng hiện đại, muốn gia nhập vào quá trình toàn cầu hóa lực
lượng sản xuất cần chú trọng đến việc phát huy nguồn lao động có tri thức, có trình độ
tay nghề cao.
Như vậy, trong bài viết, tác giả không chỉ đưa ra nội hàm khái niệm lực lượng
sản xuất mới hay lực lượng sản xuất hiện đại mà còn chỉ ra tác động của lực lượng sản
xuất mới đối với sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như với quá trình toàn cầu hóa kinh
tế, toàn cầu hóa lực lượng sản xuất.
Trong bài viết: “Để khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt trong
việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại” [72], tác giả Đoàn Công Mẫn trình bày vai
trò to lớn của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của xã hội nói chung và lực
lượng sản xuất nói riêng: “Chính sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất
mới đã từng bước đưa nhân loại tiến vào nền ki