Luận án Phát triển các khu công nghiệp vùng kinh tế trọng ðiểm bắc bộ theo hướng bền vững
Khu công nghiệp (KCN) ở Việt Nam ra ñời cùng với ñường lối ñổi mới, mở cửa do ðại hội lần thứ VI của ðảng cộng sản Việt Nam năm 1986 khởi xướng. Nghị Quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII năm 1994ñã ñề ra yêu cầu về “Quy hoạch các vùng, KCN tập trung”. Tiếp ñó Nghị quyết ðại hội lần thứ VIII của ðảng năm 1996 xác ñịnh mục tiêu: "Hình thành các KCN tập trung, tạo ñịa bàn thuận lợi cho xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển công nghiệp nông thôn và ven ñô thị ở các thành phố, thị xã."[34]. Văn kiện ðại hội ðảng toàn quốc lần thứ X năm 2006 cũng xác ñịnh: "Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm, ñiểm công nghiệp trên cả nước; hình thành các vùng công nghiệp trọng ñiểm; gắn việc phát triển sản xuất với bảo ñảm nhà ở và các ñiều kiện sinh hoạt cho người lao ñộng."[35]. Từ ñó có thể thấy ñịnh hướng phát triển KCN ñã ngàycàng ñược hoàn thiện, hướng ñến mục tiêu phát triển bền vững KCN. Mặc dù ñã ñược ra ñời khá lâu và có nhiều ñóng góp trong phát triển kinh tế ñất nước, nhưng phải ñến tháng 4 năm 1997 mới có qui ñịnh chính thức về KCN bằng Nghị ñịnh số 36/CP của Chính phủ: “KCN là khu tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới ñịa lý xác ñịnh, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết ñịnh thành lập”[26]. Tuy nhiên, sự phát triển không ngừng cả về số và chất lượng của các KCN trong cả nước, nhiều chính sách qui ñịnh trong Nghị ñịnh 36/CP ñã không còn phù hợp, gây cản trở cho sự PTBV của KCN nên tháng 3 năm 2008 Chính Phủ ñã ban hành Nghịñịnh số 29/2008/Nð-CP, qui ñịnh: “KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới ñịa lý xác ñịnh, ñược thành lập theo ñiều kiện, trình tự và thủ tục quy ñịnh”[28]. Như vậy, chỉ xét riêng về khái niệm KCN, so với Nghị ñịnh 36/CP thì Nghị ñịnh mới ñã lược bớt qui ñịnh KCN “không có dân cư sinh sống”. ðây ñược coi là một trong những tiền ñề quan trọng cho sự PTBV các KCN. 2 Sau 18 năm kể từ ngày ra ñời của KCN Tân Thuận, KCNñầu tiên của Việt Nam, các KCN ñã phát triển trở thành nhân tố ñộng lực thúc ñẩy nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện ñại hóa. ðếnhết năm 2009 cả nước ñã có 249 KCN ñược thành lập với tổng diện tích ñất tự nhiên là 63.173 ha [36], trong ñó diện tích ñất có thể cho thuê ñạt gần 38.858 ha, chiếm trên 61,5% diện tích ñất tự nhiên. Các KCN phân bố ở 61 tỉnh, thành phố trên cảnước nhưng tập trung ở 3 vùng kinh tế trọng ñiểm với tổng diện tích ñất tự nhiên chiếm khoảng 65% tổng diện tích các KCN cả nước. Các KCN trong cả nước thu hút ñược trên 3.600 dự án có vốn ðTNN với tổng vốn ñăng ký 46,9 tỷ USD; 3.200dự án ñầu tư trong nước với tổng vốn ñăng ký là 254 nghìn tỷ ñồng (tương ñương 15 tỷ USD). Tính riêng năm 2009, các doanh nghiệp trong KCN ñã ñạt tổng doanh thu 12,2 tỷ USD và 67,9 nghìn tỷ ñồng, tương ñương 18% GDP cả nước; kim ngạch xuất khẩu ñạt 12,5 tỷ USD, chiếm khoảng 21% giá trị xuất khẩu của cả nước[36]. Các KCN tuy có "hàng rào” ranh giới theo quy hoạch, nhưng những vấn ñề phát sinh ngoài "hàng rào", do chịu ảnh hưởng gián tiếp từ hoạt ñộng của cácKCN hiện ñang là vấn ñề trăn trở của nhiều ñịa phương và các nhà quản lý. Quyết ñịnh số 73/2006/Qð-TTg ngày 4/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ ñến năm 2010 tầm nhìn 2020 nêu rõ: "Xây dựng các KCN phải tính ñến việc xây dựng các khu ñô thị ñể ñảm bảo nhà ở và sinh hoạt văn hóa, xã hội cho người lao ñộng. Xây dựng các khu, cụm công nghiệp phải gắn liền với xây dựng hệ thống xử lý chất thải ñể BVMT, môi sinh" [65]. Sau quyết ñịnh này, nhiều ñịa phương ñã xây dựng ñịnh hướng PTBV các KCN, nhằm ñảm bảo duy trì sự phát triển ổn ñịnhkhông chỉ về kinh tế với các KCN mà cả về các vấn ñề xã hội trong và ngoài hàng rào KCN mà sự phát triển các KCN gây ra.