Luận án Phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay

Nguyễn Ngọc Hà, Lê Văn Mười (2011), “Khái niệm thực tiễn trong lý luận nhận thức một số vấn đề cần quan tâm” [72], nhóm tác giả cho rằng thực tiễn là hoạt động vật chất của con người, là sự tác động qua lại giữa chủ thể hoạt động với các đối tượng vật chất, hoạt động vật chất của con người có tư duy chỉ đạo. Tư duy bao gồm ý nghĩ, suy nghĩ, tư tưởng, tri thức, hiểu biết, ý thức, nhận thức lý tính tồn tại trong bộ não con người và được thể hiện thông qua hoạt động vật chất của con người. Nếu coi tư duy là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc con người và được cải biến ở đó thì cũng có thể coi hoạt động vật chất của con người là quá trình con người di chuyển tư duy từ bộ óc ra hiện thực, đó là quá trình con người hiện thực hóa tư duy của mình. Khi thực tiễn được hiểu với nghĩa là hoạt động vật chất, thì thực tiễn là hoạt động có tư duy, có văn hóa, có mục đích, có tính xã hội và có thể cải tạo được thế giới. Trình độ tư duy con người càng cao thì càng có khả năng thực hiện được những hoạt động vật chất phức tạp. Hoạt động thực tiễn là quá trình hiện thực hóa tư tưởng, không thể nhìn thấy tư tưởng, nhưng có thể nhìn thấy kết quả của sự hiện thực hóa tư tưởng, sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn tùy thuộc chủ yếu vào sự đúng hay sai của tư tưởng, nhưng cũng còn phụ thuộc vào năng lực chủ quan của chủ thể hoạt động và điều kiện khách quan của hoạt động. Vũ Quang Tạo (2012), “Nâng cao năng lực thực tiễn cho đội ngũ cán bộ một đòi hỏi cấp bách hiện nay” [133], tác giả quan niệm: “Năng lực thực tiễn của cán bộ có thể được hiểu là tổng thể những thuộc tính hợp thành khả năng giúp người cán bộ hoạt động thực tiễn có hiệu quả, theo yêu cầu nhiệm vụ chức trách của mình” [133, tr. 67]. Do đó, năng lực thực tiễn của người cán bộ được tạo bởi các yếu tố khả năng xác định đúng hay không đúng, phù hợp hay không phù hợp về mục đích, phương pháp, cách thức, lực lượng, động lực của hoạt động thực tiễn. Chủ thể có xác định đúng, giữ vững mục đích của quá trình hoạt động thì họ mới có kết quả, vì không cảnh giác, con người càng hoạt động càng xa mục đích của mình. Năng lực thực tiễn của người cán bộ được quan niệm là sự khơi dậy, quy tụ, sử dụng có hiệu quả các lực lượng, phương tiện để thực hiện mục đích hoạt động; thể hiện ở việc kiểm tra, đánh giá kết quả, xác định đúng nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình tham gia hoạt động thực tiễn, giúp người cán bộ nâng cao năng lực hoạt động của mình.

doc225 trang | Chia sẻ: Đào Thiềm | Ngày: 06/01/2025 | Lượt xem: 68 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Nguyễn Đức Tuyên MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LƠI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU 5 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 10 1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án 10 1.2. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan đối với đề tài luận án và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu 29 Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI 36 2.1. Quan niệm về năng lực thực tiễn và phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội 36 2.2. Nhân tố cơ bản quy định phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội 57 Chương 3. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY 82 3.1. Thực trạng năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay 82 3.2. Vấn đề đặt ra đối với phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay 115 Chương 4. GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY 125 4.1. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhằm phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay 125 4.2. Xây dựng môi trường sư phạm thuận lợi nhằm phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay 149 4.3. Phát huy nhân tố chủ quan của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong tự bồi dưỡng, rèn luyện năng lực thực tiễn 159 KẾT LUẬN 170 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 172 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 173 PHỤ LỤC 187 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Phát triển năng lực là đòi hỏi chung của các chủ thể, trong đó có năng lực thực tiễn. Năng lực thực tiễn được biểu hiện và gắn với hoạt động của một chủ thể xác định. Người có năng lực thực tiễn là người biết vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo lý luận vào thực tiễn, có khả năng giải quyết hiệu quả những tình huống nảy sinh trong thực tế, đồng thời có khả năng hướng dẫn người khác ứng xử kịp thời trong những hoàn cảnh và môi trường cụ thể. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, giảng viên cần phải phát triển năng lực thực tiễn, nhất là đối với giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là một bộ phận của giảng viên quân đội, lực lượng có vai trò quan trọng trong giáo dục, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, giúp cho người học hình thành thế giới quan, phương pháp luận mácxít, phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Trong những năm qua, quán triệt chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng về phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị” [21, tr. 11], các học viện, trường sĩ quan quân đội luôn chú trọng phát triển phẩm chất, năng lực của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn, quan tâm phát triển năng lực thực tiễn. Các học viện, trường sĩ quan quân đội có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng giảng viên khoa học xã hội và nhân văn, cử giảng viên đào tạo sau đại học, đi luân chuyển thực tế, luân chuyển giữ chức ở đơn vị; phát huy tính tích cực, chủ động trong tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ năng lực, tay nghề sư phạm, kinh nghiệm thực tiễn quân sự, đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, giảng viên ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội có tư chất sư phạm, tri thức chuyên sâu, kỹ năng sư phạm thành thục, thái độ ứng xử mẫu mực đối với nghề góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, so với yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay thì năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn còn bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định. Việc tổng kết hoạt động thực tiễn ở đơn vị và cập nhật sự phát triển vũ khí, trang bị để củng cố, bổ sung lý luận, phục vụ công tác huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu cho học viên chưa thường xuyên, kịp thời. Một số giảng viên khoa học xã hội và nhân văn, nhất là giảng viên trẻ ở các học viện, trường sĩ quan chưa qua quản lý, chỉ huy nên tri thức và kinh nghiệm thực tiễn quân sự còn hạn chế, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều. Hiện nay, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra thời cơ và thách thức không nhỏ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; sự phát triển của điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội đất nước; yêu cầu, nhiệm vụ quân đội trong tình hình mới cũng như nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong những năm tới tiếp tục có sự phát triển cả về quy mô, loại hình, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng theo hướng tiếp cận xây dựng nhà trường thông minh, chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo. Tình hình đó, đặt ra yêu cầu cần phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn để họ đáp ứng ngày càng cao của nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học, đấu tranh tư tưởng, lý luận của các học viện, trường sĩ quan quân đội. Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, việc lựa chọn đề tài: “Phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay” có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp cơ bản phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án. - Làm rõ một số quan niệm và nhân tố cơ bản quy định phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. - Đánh giá thực trạng năng lực thực tiễn và những vấn đề đặt ra đối với phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay. - Đề xuất giải pháp cơ bản phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Năng lực thực tiễn và phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Nghiên cứu một số vấn đề lý luận, thực tiễn về phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội (tập trung vào năng lực thực tiễn trong giảng dạy, hoạt động khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận). - Phạm vi khảo sát: Tiến hành điều tra, khảo sát đại diện tại một số học viện, trường sĩ quan quân đội: Học viện Chính trị, Học viện Hải quân, Học viện Kỹ thuật Quân sự, Học viện Biên phòng, Học viện Quân y; Trường Sĩ quan Lục quân 1, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ quan Thông tin, Trường Sĩ quan Pháo binh, Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp. - Thời gian: Các tư liệu, số liệu phục vụ cho nghiên cứu chủ yếu từ năm 2016 đến nay. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thực tiễn, năng lực thực tiễn; tư tưởng Hồ Chí Minh về năng lực, giáo dục, đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục, đào tạo, xây dựng đội ngũ nhà giáo và phẩm chất, năng lực của đội ngũ nhà giáo. Cơ sở thực tiễn Thực trạng năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay, chủ yếu dựa vào báo cáo tổng kết của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, Bộ Tổng tham mưu, các học viện, trường sĩ quan; các cơ quan chức năng về công tác nhà trường, về xây dựng đội ngũ nhà giáo ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, nhất là giảng viên khoa học xã hội và nhân văn và kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả luận án về năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội thời gian qua. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích và tổng hợp, hệ thống và cấu trúc, lịch sử và lôgíc, khái quát hóa, trừu tượng hóa, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học, v.v.. 5. Những đóng góp mới của luận án - Luận án đưa ra quan niệm năng lực thực tiễn và phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội và chỉ ra cấu trúc năng lực thực tiễn giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. - Khái quát những vấn đề đặt ra đối với phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay. - Đề xuất giải pháp cơ bản, đồng bộ nhằm phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về năng lực thực tiễn và phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay. - Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo nhằm phát triển năng lực thực tiễn của giảng viên, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Kết cấu của luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Những công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến năng lực, năng lực thực tiễn, năng lực thực tiễn của người cán bộ Nguyễn Phú Trọng (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [152], tác giả đã luận giải năng lực của người cán bộ là năng lực định hướng chính trị, bảo đảm cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách, đường lối, nghị quyết của Đảng, của chính quyền mỗi cấp, mỗi ngành luôn luôn chính xác và phù hợp với phương hướng phát triển của đất nước. Năng lực hoạt động thực tiễn, tổ chức thực tiễn, là khả năng chuyển hóa được các chủ trương, nghị quyết của Đảng thành hiện thực trong cuộc sống, thành phong trào cách mạng của quần chúng, thành lợi ích thực tế của nhân dân. Năng lực của người cán bộ còn là năng lực biết tập hợp, lôi cuốn mọi người, biết thấu cảm tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, biết tổ chức quần chúng tạo thành sức mạnh tổng hợp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đối với yêu cầu chung các khâu, các bước, quy trình của công tác cán bộ cần xác định về đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là yêu cầu về phẩm chất và năng lực, năng lực thực tiễn của cán bộ. Đây là vấn đề nổi lên, được quan tâm nhất trong chất lượng cán bộ. Sự yếu kém và “chưa ngang tầm” của đội ngũ cán bộ cũng biểu hiện khá rõ trong vấn đề yêu cầu nâng cao năng lực trí tuệ. Cán bộ phải thường xuyên tích lũy kinh nghiệm qua hoạt động thực tiễn; không ngừng học tập qua trường lớp, qua sách vở, qua tiếp thu kinh nghiệm của người khác và phải đề cao tự học. Một trong những quan điểm, phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới, trong đó cần tập trung vào khâu lựa chọn và đào tạo, bồi dưỡng; quan tâm đến khâu quản lý, kiểm tra chặt chẽ hoạt động của cán bộ và tập trung vào vấn đề chính sách cán bộ. Nguyễn Ngọc Hà, Lê Văn Mười (2011), “Khái niệm thực tiễn trong lý luận nhận thức một số vấn đề cần quan tâm” [72], nhóm tác giả cho rằng thực tiễn là hoạt động vật chất của con người, là sự tác động qua lại giữa chủ thể hoạt động với các đối tượng vật chất, hoạt động vật chất của con người có tư duy chỉ đạo. Tư duy bao gồm ý nghĩ, suy nghĩ, tư tưởng, tri thức, hiểu biết, ý thức, nhận thức lý tính tồn tại trong bộ não con người và được thể hiện thông qua hoạt động vật chất của con người. Nếu coi tư duy là vật chất được di chuyển vào trong bộ óc con người và được cải biến ở đó thì cũng có thể coi hoạt động vật chất của con người là quá trình con người di chuyển tư duy từ bộ óc ra hiện thực, đó là quá trình con người hiện thực hóa tư duy của mình. Khi thực tiễn được hiểu với nghĩa là hoạt động vật chất, thì thực tiễn là hoạt động có tư duy, có văn hóa, có mục đích, có tính xã hội và có thể cải tạo được thế giới. Trình độ tư duy con người càng cao thì càng có khả năng thực hiện được những hoạt động vật chất phức tạp. Hoạt động thực tiễn là quá trình hiện thực hóa tư tưởng, không thể nhìn thấy tư tưởng, nhưng có thể nhìn thấy kết quả của sự hiện thực hóa tư tưởng, sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn tùy thuộc chủ yếu vào sự đúng hay sai của tư tưởng, nhưng cũng còn phụ thuộc vào năng lực chủ quan của chủ thể hoạt động và điều kiện khách quan của hoạt động. Vũ Quang Tạo (2012), “Nâng cao năng lực thực tiễn cho đội ngũ cán bộ một đòi hỏi cấp bách hiện nay” [133], tác giả quan niệm: “Năng lực thực tiễn của cán bộ có thể được hiểu là tổng thể những thuộc tính hợp thành khả năng giúp người cán bộ hoạt động thực tiễn có hiệu quả, theo yêu cầu nhiệm vụ chức trách của mình” [133, tr. 67]. Do đó, năng lực thực tiễn của người cán bộ được tạo bởi các yếu tố khả năng xác định đúng hay không đúng, phù hợp hay không phù hợp về mục đích, phương pháp, cách thức, lực lượng, động lực của hoạt động thực tiễn. Chủ thể có xác định đúng, giữ vững mục đích của quá trình hoạt động thì họ mới có kết quả, vì không cảnh giác, con người càng hoạt động càng xa mục đích của mình. Năng lực thực tiễn của người cán bộ được quan niệm là sự khơi dậy, quy tụ, sử dụng có hiệu quả các lực lượng, phương tiện để thực hiện mục đích hoạt động; thể hiện ở việc kiểm tra, đánh giá kết quả, xác định đúng nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình tham gia hoạt động thực tiễn, giúp người cán bộ nâng cao năng lực hoạt động của mình. Nguyễn Văn Huy (2013), Nâng cao năng lực thực tiễn của chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [89], tác giả đã tiếp cận vấn đề năng lực của con người, khái quát thành hai loại năng lực chính là năng lực nhận thức và năng lực thực tiễn, tác giả quan niệm: “Năng lực thực tiễn là tổng thể những yếu tố hợp thành khả năng hoạt động vật chất có hiệu quả của chủ thể, trên những nhiệm vụ xác định, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định” [89, tr. 23]. Những yếu tố căn bản hình thành năng lực thực tiễn là tri thức chuyên môn; kỹ năng, tố chất thực hành nghề; tình cảm, thái độ, động cơ, ý chí quyết tâm đối với nghề nghiệp. Những yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành khả năng hoạt động trực tiếp có hiệu quả đối với nhiệm vụ xác định. Năng lực thực tiễn được biểu hiện trên những nội dung cơ bản: Năng lực thực tiễn thể hiện ở khả năng xác định, duy trì mục đích hoạt động thực tiễn; khả năng quy tụ, sử dụng lực lượng, công cụ, phương tiện vật chất để cải tạo hiện thực; khả năng tổng kết thực tiễn cải tạo hiện thực; kỹ năng, kỹ xảo gắn với kinh nghiệm trong hoạt động của chủ thể. Từ đặc điểm, nhiệm vụ, đối tượng chính trị viên, tác giả quan niệm: “Năng lực thực tiễn của chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam là tổng thể các yếu tố hợp thành khả năng hoạt động vật chất theo chức trách, nhiệm vụ của chính trị viên, góp phần xây dựng đơn vị, trong đó có xây dựng về chính trị vững mạnh toàn diện” [89, tr. 32]. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề có tính quy luật, đặc biệt là vấn đề kết quả của mức độ phù hợp giữa chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng với năng lực thực tiễn của người chính trị viên, thực trạng nâng cao năng lực thực tiễn của chính trị viên. Tác giả chỉ ra yêu cầu nâng cao năng lực thực tiễn và đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực thực tiễn của chính trị viên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, đó là: Nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng năng lực thực tiễn của chính trị viên; xây dựng môi trường thuận lợi cho nâng cao năng lực thực tiễn của chính trị viên; phát huy vai trò nhân tố chủ quan của chính trị viên trong nâng cao năng lực thực tiễn của chính bản thân họ. Trần Hậu Tân (2016), Kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn của chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam [138], tác giả đã quan niệm “Năng lực thực tiễn là khả năng hoạt động vật chất của chủ thể giúp họ hoàn thành tốt công việc của mình” [134, tr. 37]. Các yếu tố cơ bản của năng lực thực tiễn, đó là: khả năng xác định, duy trì mục đích hoạt động trong thực hiện các nhiệm vụ; khả năng khơi dậy, quy tụ và sử dụng lực lượng có hiệu quả để thực hiện mục đích đã đề ra; khả năng chủ trì, tổ chức, giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong công việc; khả năng rút kinh nghiệm và kịp thời điều chỉnh mục đích, cách thức khơi dậy, sử dụng lực lượng, phương pháp, hình thức phát hiện giải quyết mâu thuẫn trong quá trình hoạt động vật chất. Nghiên cứu thực trạng quá trình kết hợp nâng cao năng lực tư duy lý luận với năng lực thực tiễn của chính trị viên hiện nay tác giả đã đánh giá bên cạnh những mặt ưu điểm còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục. Những hạn chế trên do sự tác động của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như: chất lượng, hiệu quả quản lý, điều hành hoạt động giáo dục và đào tạo còn hạn chế; chương trình, nội dung đào tạo có mặt chưa phù hợp; một số đơn vị chưa thực sự chú trọng đến công tác tạo nguồn, bồi dưỡng năng lực tư duy lý luận và năng lực thực tiễn cho chính trị viên. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2016), “Năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã từ hướng tiếp cận hoạt động” [103], tác giả đã chỉ ra yếu tố cấu thành và cũng là biểu hiện của năng lực tổ chức thực tiễn ở người cán bộ chủ chốt cấp xã chính là sự hiểu biết, những kỹ năng và các chức năng tâm - sinh lý của họ bảo đảm cho việc tổ chức thực tiễn đạt hiệu quả. Để hình thành và phát triển năng lực tổ chức thực tiễn, yêu cầu đặt ra hàng đầu là phải được cung cấp tri thức về tổ chức thực tiễn, quy trình tổ chức thực tiễn và rèn luyện kỹ năng triển khai hoạt động đó. Tri thức và kỹ năng về tổ chức thực tiễn là các thành phần tạo nên năng lực tổ chức thực tiễn và là những biểu hiện trực tiếp của năng lực đó. Tri thức và kỹ năng của cán bộ chủ chốt cấp xã về thực tiễn, một mặt là các yếu tố tâm lý độc lập của cá nhân, phản ánh trình độ hiểu và kỹ năng biết hoạt động của cá nhân đó. Mặt khác, khi tham gia vào hoạt động, chúng trở thành các yếu tố tạo nên hiệu quả của hoạt động mà c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_phat_trien_nang_luc_thuc_tien_cua_giang_vien_khoa_ho.doc
  • doc1 BÌA LUẬN ÁN.doc
  • doc2 BÌA TÓM TẮT TIẾNG VIỆT.doc
  • doc2 TÓM TẮT TIẾNG VIỆT.doc
  • doc3 BÌA TÓM TẮT TIẾNG ANH.doc
  • doc3 TÓM TẮT TIẾNG ANH.doc
  • doc4 THÔNG TIN MẠNG TIẾNG ANH.doc
  • doc4 THÔNG TIN MẠNG TIẾNG VIỆT.doc
Luận văn liên quan