Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam có nhiều thuận lợi, cũng có nhiều thử thách, sau khi tham gia và thực thi chính sách khu vực mậu dịch tự do ASIAN (AFTA), và thực hiện nghĩa vụ cam kết trong các chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA, nhất là từ khi nước ta hội nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Bối cảnh trên ảnh hưởng ngày một mạnh tới nông nghiệp, cũng như tới công nghiệp và dịch vụ. Những ảnh hưởng này vừa tích cực do tiến bộ của khoa học và công nghệ, vừa có thể tiêu cực nếu nước ta không vượt được hàng rào kỹ thuật. Bằng chứng là trái cây nhập khẩu lấn sân thị trường trong nước do chất lượng và giá bán thấp hơn; hàng tôm cá xuất khẩu bị trả về do vấn đề an toàn thực phẩm.
Việt Nam đang gắng vượt qua những thử thách để có lợi thế trong cạnh tranh ở thị trường quốc tế cũng như trong nước, làm cho sự cạnh tranh này thật sự là động lực phát triển kinh tế nông nghiệp có định hướng XHCN. Nông nghiệp cạnh tranh thể hiện ngày một rõ nét trong nền kinh tế thị trường hội nhập WTO, chủ yếu trên cơ sở phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao.
Trong nước, giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cũng có sự cạnh tranh về diện tích đất, mặt nước và nhất là nhân lực, khi quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra ngày một nhanh. Trong nông nghiệp, sự cạnh tranh này cũng xảy ra ở nhiều mặt: như giữa trồng trọt và chăn nuôi/thả tôm cá. Người nông dân luôn chọn giải pháp công nghệ hợp lý trong điều kiện của mình, nhất là những cây trồng, vật nuôi với những giống phù hợp nhất để sản xuất cho lợi nhuận cao nhất.
Sự cạnh tranh trên được coi như "quan tòa" xử thắng cho người sản xuất nào có sản phẩm chất lượng cao nhất và giá thành hạ nhất. Bàn tay vô hình của kinh tế thị trường và hữu hình của Nhà nước XHCN làm cho kinh tế hội nhập phát triển không ngừng do tăng hàm lượng chất xám trong sản phẩm, hiện nước ta mới đạt có 17%, trong khi Trung Quốc đạt 48%, Mỹ đạt 82%. Giống tốt được coi như một trong những trợ thủ đắc lực nhất giúp nông dân tăng nhanh hơn hàm lượng chất xám trong nông sản.
Trong hai thập kỷ vừa qua, ngành nông nghiệp việt nam đã đạt được nhiều tành tựu đáng khích lệ. Trong khi đó đảm bảo được an ninh lương thực trong nước. Việt nam đã trở thành một trong quốc gia lớn nhất thế giới trong lĩnh vực sản xuất và sản xuất nông sản của một số loại cây trồng như: lúa, cà phê, cao su, điều, chè, hồ tiêu.Cùng với việc cải thiện hệ thống thuỷ lợi, ứng dụng phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật thì các giống cây trồng nước ta đã đóng vai trò rất quan trọng để đạt được những thành tựu nói trên.
Ngành giống cây trồng đã cung cấp một bộ giống phong phú, bao gồm những giống thuần, giống ưu thế lai ngăn ngày, có năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu sâu bệnh, có khả năng thích ứng rộng, và nhiều loại giống cây trồng lâu năm được cải tiến , chọn lọc, đưa vào sản xuất. Những kết quả này đã tạo điều kiện rất cơ bản để nước ta thực hiện thành công " Cuộc Cách Mạng mùa vụ" cải thiện chất lượng và nâng cao sản lượng.
12 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3986 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận án Vai trò của giống cây trồng trong trồng trọt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN ÁN TỐT NGHIỆP
Tiểu luận:
Vai trò của giống cây trồng trong trồng trọtMỤC LỤC
Phần Mở Đầu
Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam có nhiều thuận lợi, cũng có nhiều thử thách, sau khi tham gia và thực thi chính sách khu vực mậu dịch tự do ASIAN (AFTA), và thực hiện nghĩa vụ cam kết trong các chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA, nhất là từ khi nước ta hội nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Bối cảnh trên ảnh hưởng ngày một mạnh tới nông nghiệp, cũng như tới công nghiệp và dịch vụ. Những ảnh hưởng này vừa tích cực do tiến bộ của khoa học và công nghệ, vừa có thể tiêu cực nếu nước ta không vượt được hàng rào kỹ thuật. Bằng chứng là trái cây nhập khẩu lấn sân thị trường trong nước do chất lượng và giá bán thấp hơn; hàng tôm cá xuất khẩu bị trả về do vấn đề an toàn thực phẩm.
Việt Nam đang gắng vượt qua những thử thách để có lợi thế trong cạnh tranh ở thị trường quốc tế cũng như trong nước, làm cho sự cạnh tranh này thật sự là động lực phát triển kinh tế nông nghiệp có định hướng XHCN. Nông nghiệp cạnh tranh thể hiện ngày một rõ nét trong nền kinh tế thị trường hội nhập WTO, chủ yếu trên cơ sở phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao...
Trong nước, giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cũng có sự cạnh tranh về diện tích đất, mặt nước và nhất là nhân lực, khi quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra ngày một nhanh. Trong nông nghiệp, sự cạnh tranh này cũng xảy ra ở nhiều mặt: như giữa trồng trọt và chăn nuôi/thả tôm cá. Người nông dân luôn chọn giải pháp công nghệ hợp lý trong điều kiện của mình, nhất là những cây trồng, vật nuôi với những giống phù hợp nhất để sản xuất cho lợi nhuận cao nhất.
Sự cạnh tranh trên được coi như "quan tòa" xử thắng cho người sản xuất nào có sản phẩm chất lượng cao nhất và giá thành hạ nhất. Bàn tay vô hình của kinh tế thị trường và hữu hình của Nhà nước XHCN làm cho kinh tế hội nhập phát triển không ngừng do tăng hàm lượng chất xám trong sản phẩm, hiện nước ta mới đạt có 17%, trong khi Trung Quốc đạt 48%, Mỹ đạt 82%. Giống tốt được coi như một trong những trợ thủ đắc lực nhất giúp nông dân tăng nhanh hơn hàm lượng chất xám trong nông sản.
Trong hai thập kỷ vừa qua, ngành nông nghiệp việt nam đã đạt được nhiều tành tựu đáng khích lệ. Trong khi đó đảm bảo được an ninh lương thực trong nước. Việt nam đã trở thành một trong quốc gia lớn nhất thế giới trong lĩnh vực sản xuất và sản xuất nông sản của một số loại cây trồng như: lúa, cà phê, cao su, điều, chè, hồ tiêu...Cùng với việc cải thiện hệ thống thuỷ lợi, ứng dụng phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật thì các giống cây trồng nước ta đã đóng vai trò rất quan trọng để đạt được những thành tựu nói trên.
Ngành giống cây trồng đã cung cấp một bộ giống phong phú, bao gồm những giống thuần, giống ưu thế lai ngăn ngày, có năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu sâu bệnh, có khả năng thích ứng rộng, và nhiều loại giống cây trồng lâu năm được cải tiến , chọn lọc, đưa vào sản xuất. Những kết quả này đã tạo điều kiện rất cơ bản để nước ta thực hiện thành công " Cuộc Cách Mạng mùa vụ" cải thiện chất lượng và nâng cao sản lượng.
1.Khái niệm và phân loại giống cây trồng
1.1. Khái niệm về giống
Thuật ngữ giống (tiếng Latin: varietas; tiếng Anh: variety) dùng để chỉ một quần thể các sinh vật cùng loài do con người chọn tạo ra và có các đặc điểm di truyền xác định. Tất cả các cá thể của cùng một giống đều có các tính trạng hay thường được gọi là các đặc tính về hình thái-giải phẫu, sinh lý-sinh hoá, năng suất v.v. hầu như giống nhau và ổn định trong những điều kiện sinh thái và kỹ thuật sản xuất phù hợp.
Từ khái niệm về giống như vậy, ta có thể hình dung giống cây trồng (crop variety; cultivar) là một nhóm các thực vật có các đặc trưng sau:
- Có nguồn gốc chung với các tính trạng hay đặc điểm giống nhau.
- Mang tính di truyền đồng nhất (nghĩa là có sự ổn định, ít phân ly) về các tính trạng hình thái và một số đặc tính nông sinh học khác như: chiều cao cây, thời gian sinh trưởng, khả năng chống chịu sâu bệnh v.v.
- Mang tính khu vực hoá, nghĩa là tất cả các đặc điểm hay tính trạng của giống được biểu hiện trong những điều kiện ngoại cảnh (như đất đai, khí hậu, các biện pháp kỹ thuật sản xuất) nhất định. Từ đây xuất hiện các khái niệm về giống chịu hạn, chịu mặn, chịu úng v.v.
- Do con người tạo ra nhằm thoả mãn một hoặc một vài nhu cầu và thị hiếu nhất định, như: năng suất cao, chất lượng tốt, giá trị thương phẩm cao.... Các giống vật nuôi và cây trồng vì vậy được xem là những phương tiện sống của một nền sản xuất nông nghiệp cụ thể
Khi đề cập đến khái niệm "giống", thông thường người ta muốn đề cập tới các tính trạng và đặc tính của giống .
- Tính trạng (characters): Đó là những đặc điểm về hình thái và cấu tạo quan sát được của các cây trong cùng một giống giúp ta phân biệt với các giống khác trong cùng một loài. Để nhận biết các tính trạng như vậy, thường người ta chia ra các nhóm sau đây:
+ Các đặc điểm về hình thái, như: chiều cao cây, chiều dài bông, số hạt trên bông, số bông trên khóm, kích thước lá v.v. Nói chung đây là những tính trạng số lượng (quantitative characters), nghĩa là có thể "cân-đong-đo-đếm" được; chúng thường do nhiều gene kiểm soát và chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện môi trường.
+ Các đặc điểm về cấu tạo, như: độ dày của bông, màu sắc và hình dạng của thân, lá, hoa và quả ... Đây là những tính trạng chất lượng (qualitative characters), thường do một gene kiểm soát, ít chịu tác động của điều kiện ngoại cảnh và có thể quan sát được bằng mắt thường.
+ Diễn biến của một quá trình sinh học, như: hô hấp, quang hợp, hoặc phản ứng quang chu kỳ v.v. thường tỏ ra rất mẫn cảm với các điều kiện sinh thái của môi trường như nhiệt độ, ánh sáng, độ dài ngày. Tất cả các yếu tố này có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự hoạt động của các enzyme kiểm soát một quá trình sinh học cụ thể, và qua đó có thể ảnh hưởng đến các tính trạng chất lượng.
- Đặc tính (characteristics): Đó là những tính chất hay đặc điểm sinh lý, sinh hoá đặc trưng có liên quan đến các đặc tính chống chịu của thực vật (như chịu mặn, hạn, rét, úng v.v.) và đặc điểm kỹ thuật canh tác.
1.2. Vấn đề phân loại giống
Theo Dennis (1982), sự tiến hoá của giống phải đặt trong bối cảnh quan hệ giữa sinh vật, môi trường và con người, và chia thành ba thời kỳ:
Giống ban đầu được hình thành nối tiếp từ sự chọn lọc tự nhiên, được hoàn thiện dần dưới sự tác động của môi trường sinh thái, của lao động con người, nhưng còn mang đậm dấu ấn các đặc tính của quần thể hoang dại. Một số giống địa phương vẫn còn trong tình trạng của giống ban đầu.
Giống cải tiến có tiêu chuẩn (về ngoại hình, năng suất...) do con người đặt ra theo nhu cầu để chọn lọc và cải tiến khả năng của sinh vật.
Giống cao sản là những giống có năng suất cao hơn hẳn giống cải tiến, và khá phổ biến trên thế giới.
Từ sự kết hợp các đặc điểm địa lý và năng suất của sinh vật với nhu cầu của con người, người ta chia thành:
- Giống địa phương là giống tồn tại phổ biến ở một vùng địa lý nhất định của một quốc gia hay một khu vực rộng lớn của thế giới, có năng suất kém hơn so với trung bình các giống cao sản của thế giới.
- Giống cao sản là giống phổ biến khắp thế giới, có thể phát triển ở
nhiều vĩ tuyến khác nhau, với năng suất cao hơn các giống địa phương.
- Giống chuyên dụng là giống được tạo ra nhằm thu nhận một loại sản phẩm xác định nhưng được phổ biến trên thế giới do giao lưu thương mại.
Về mặt phân loại học, "giống" là đơn vị phân loại dưới loài, có tính chất quy ước dùng để chỉ các quần thể khác nhau trong cùng một loài do con người chọn tạo ra. Về mặt sinh học, các cá thể trong cùng một giống có kiểu gene và kiểu hình nói chung là giống nhau; còn về mặt thực tiễn, điều quan tâm là dạng hình và tính năng sản xuất của giống có đáp ứng được nhu cầu định hướng của việc sử dụng hay không .
Đối với việc phân loại lúa trồng chẳng hạn, nhiều lỗ lực đã được tiến hành tập trung chủ yếu vào loài lúa trồng châu Á (Oryza sativa), bởi nó là nguồn lương thực chính của hơn một nửa dân số thế giới. Đây là loại cây lương thực chính có lịch sử trồng trọt lâu đời tại châu Á. Ngày nay loài cây này đã được trồng rộng rãi ở nhiều vùng trên trái đất; kể cả Bắc và Nam Mỹ, châu Âu và châu Phi, trải rộng từ vùng xích đạo cho đến các vùng thuộc vĩ tuyến 500 Bắc và xa hơn nữa. Nó có thể trồng thậm chí tại những vùng có độ cao tới 2.600m. Chính những điều kiện môi trường tự nhiên khác biệt này cùng với các phương thức trồng trọt khác nhau đã góp phần tạo ra các kiểu sinh thái mới và các giống lúa mới có khả năng thích nghi khác nhau.
Dựa trên đặc điểm bất thụ của con lai F1 và các đặc điểm hình thái, sinh thái và sinh lý, loài lúa trồng châu Á (O. sativa) được chia thành ba loài phụ: Indica, Japonica và Javanica đặc trưng cho ba vùng địa lý tương ứng là Ấn Độ, Trung Quốc-Nhật Bản và Indonesia. Trong quá trình chọn giống lúa, nhiều giống đặc sản nổi tiếng ra đời gắn liền với các địa danh như: Tám xoan Hải Dương, Tám thơm Hải Hậu, v.v. Các giống lúa do Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI, đặt tại Manila - Philippines) lai tạo ra với ký hiệu IR- từng góp phần tạo ra cuộc cách mạng xanh nổi tiếng như: IR-8, IR-36, IR-64,...; hoặc từ Viện di truyền nông nghiệp nước ta như: DT-11, DT-14, DT-17, ...
2.Vai trò của giống cây trồng
Giống là sản phẩm của sức lao động sáng tạo của con ngừơi và là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt trong nông nghiệp sản sinh ra mọi thứ nông phẩm. Vì lý do đó giống giữ vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Việc chọn đúng các giống tốt, thích hợp với điều kiện tự nhiên và canh tác giúp cho người sản xuất thu được năng suất cao và ổn định với phẩm chất tốt và mức chi phí sản xuất trên đơn vị sản phẩm thấp.
Từ ngàn xưa người nông dân Việt Nam đã đánh giá cao vai trò của giống. Điều đó được đúc kết lại trong câu : “Cố công không bằng tốt giống”. Thật vậy các biện pháp kỷ thuật canh tác và công sức bỏ ra trên đồng ruộng chỉ có thể đạt được hiệu quả cao trên cơ sở các giống tốt.
Ngày nay giống vẫn được xem là một trong những yếu tố hàng đầu trong việc không ngừng nâng cao năng suất cây trồng. Các nhà khoa học ứơc tính khỏang 30 đến 50% mức tăng năng suất hạt của các cây lượng thực trên thế giới là nhờ việc đưa vào sản xuất những giống tốt mới.
Dân số nước ta cũng như trên thế giới không ngừng giá tăng trong khi diện tích đất sản xuất nông nghiệp đang bị thu hẹp lại do sự phát triển nhanh chóng của các cơ sở công nghiệp, các đường giáo thong và các thành phố. Điều này đặt ra cho nền nông nghiệp hiện đại một nhiệm vụ lớn làm thế nào để có thể giá tăng gấp bội năng suất cây trồng, hay nói một cách hình tượng là làm thế nào để có thể thu được hai, ba bông lúa từ những nơi mà cho đến nay con người chỉ thu được một bông lúa, và giống giữ vai trò hàng đầu trong việc giải quyết khó khăn này.
2.1. Giống tốt có tác dụng tăng năng suất, phẩm chất cây trồng.
Mỗi giống cây trồng đều có tiềm năng năng suất nhất định, khi các yếu tố đầu vào sản xuất khác: nước, phân bón, chăm sóc, …được đáp ứng đầy đủ thì giống cũng không thể vượt qua ngưỡng tiềm năng năng suất của nó. Chỉ có sự đột phá về giống mới có thể mang lại năng suất cao hơn.
Trong thực tiễn sản xuất đã cho thấy nhờ ứng dụng giống mới, năng suất đã từng bước được nâng cao. Những thành tựu về ứng dụng giống cây trồng trong cuộc cách mạng xanh trên thế giới, và ở Việt nam trong những năm 90 của thế kỹ 20 đã cho thấy vai trò củ giống trong việc nâng cao năng suất cây trồng (truớc năm 1986 Việt Nam là nước thiếu lương thực, nông nghiệp chủ yếu là sản xuất lúa nước: năng suất lúa trung bình khoảng 2-3 tấn/ha, nhưng cho đến nay cùng với nhiều tiến bộ khác trong lĩnh vực thuỷ lợi và khoa học về canh tác, các giống lúa mới đã có nhiều đóng góp cho sự tăng năng suất (hiện nay năng suất lúa bình quân trên cả nước đã trên 5,5 tấn/ha, nhiều nơi năng suất lúa đạt đến trên 6,4tấn/ha)
Trong quá trình phát triển, những áp lực từ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự cạnh tranh về diện tích đất giữa các ngành: nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ, kéo theo là sự thu hẹp diện tích canh tác do quá trình đô thị hoá ; bên cạnh đó là sự gia tăng về dân số khiến nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng nâng cao trong khi các yếu tố đầu vào khác: nước, kỹ thuật canh tác... đang phát triển chậm thì những đột phá về giống nhằm nâng cao năng suất cây trồng có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm của xã hội. Tù đó góp phần ổn định kinh tế, chính trị và xã hội.
Các nhà khoa học đã xác định là ngày cả ở ruộng cao sản, cây trồng cũng chỉ mới sử dụng khỏang trên dứơi 1% năng lượng ánh sáng mặt trời, trong khi về mặt lý thuyết cây xanh có thể xây dựng đến 5% năng lượng nói trên. Để giải quyết vấn đề này, chắc rằng không có con đường nào khác hơn là tạo ra những giống cây trồng mới có khả năng quang hợp cao và có dạng hình thích hợp cho phép tận dụng tốt nhất năng lượng ánh sảng mặt trời.
Việc đưa vào sản xuất những giống cây trồng mới có khả năng cho năng suất cao đã mang lại hiệu qủa kinh tế lớn, vì đó là biện pháp dể dàng và rẻ tiền nhất để giá tăng sản lượng lượng thực. Chỉ thay các giống cây trồng hiện nay bằng các giống có năng suất cao hơn khoảng 10% thôi, thì trên phạm vi tòan quốc, Dee-geo-Woo-gen với giống cao cây kháng bệnh Tsai-Yuan-Chung. Từ tổ hợp lai này ngừơi ta chọn ra giống Taichung Native 1 (TN1) và đưa vào sản xuất năm 1956. T1N phản ứng tốt với mức phân đạm cao, đạt năng suất kỷ lục 8,1 tân/ha, đươc coi là giống lúa Indica cao sản đầu tiên. Thành công này đã chứng minh khả năng cao tiềm năng, năng suất các giống lúa Indica.
Năm 1962 các nhà chọn giống ở IRRI đã lai giống Dee-geo-Woo-gen với giống Peta cao cây, đẻ nhanh nhiều, có nguồn gốc Indonesia. Đến năm 1966 giống IR.8 đươc chọn từ cặp lai trên đã được phổ biến ra sản xuất. IR.8 cứng cây, thân cao khỏang 100cm, co lá thẳng, đẻ nhánh khỏe, không nhạy cảm với quang chu kỳ và có khả năng cho năng suất trên 10tấn/ha. IR.8 được xem là giống lúa Indica cao sản đầu tiên thích nghi với khí hậu nhiệt đới.
Giống là yếu tố nội tại quyết định đến phẩm chất của sản phẩm. Chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao con người ngày càng có nhu cầu sử dụng những sản phẩm ngon, sạch. Trong xu thế phát triển nông nghiệp như hiện nay, sản phẩm không đơn thuần là tự cung, tự cấp hay cung cấp ra thị trường nhỏ mà đó là nông nghiệp gắn với hàng hoá do đó sự cạnh tranh sẽ rất mạnh mẽ, nếu sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của xã hội thì ngành nông nghiệp sẽ bị thiệt hại rất lớn, đời sống người dân gắn liền với sản xuất nông nghiệp sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ đó sẽ gây ra các ảnh hưởng tiêu cực khác đến xã hội.
Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam có nhiều thuận lợi, cũng có nhiều thử thách, sau khi tham gia và thực thi chính sách khu vực mậu dịch tự do ASIAN (AFTA), và thực hiện nghĩa vụ cam kết trong các chương trình ưu đãI thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA, nhát là khi nước ta hội nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Bối cảnh trên ảnh hưởng ngày một mạnh đến nông nghiệp. Những ảnh hưởng này vừa tích cực do tiến bộ khoa học và công nghệ, vừa có tiêu cực nếu nước ta không vượt đuợc hàng rào kỹ thuật. Bằng chứng là tráI cây nhập khẩu lán sân thị trường trong nước do chất lượng và giá bán thấp hơn.
Thực tiễn hiện nay ở Việt nam đã cho thấy việc áp dụng các giống mới có phẩm chất tốt: Gạo Nàng Thơm, Lúa HT1, Lúa HT9, Dưa hấu Hắc mĩ nhân … đã mang lại nhiều thành quả: sản phẩm có chỗ đứng trên thị trường, giá bán cao, nhờ đó người dân càng được lợi và họ càng chú trọng hơn đến trồng trọt những giống cây trồng chất lượng.
Tiếp theo các thành tựu có tính chất lịch sử trong ngành trồng lúa kể trên là hàng loạt các giống lúa cao sản mới, ngăn ngày, kháng đươc môt số sâu bệnh quan trọng ra đời. Nhiều giống lúa mới ngòai khả năng cho năng suất cao, con có phẩm chất gạo tốt, hạt dai trong, không bac bung. Các cánh đồng lúa 5 tấn rồi 10 tấn ở nứơc ta đã được hình thành bằng việc đưa vào sản xuất các thành tụu về giống kể trên.
Nhiều giống cây ăn trái, cây lượng thưc, cây công nghiêp, cây dưọc liệu có năng suất cao liên tiếp được tạo ra và đưa vào sản xuất với mức độ ngày càng nhiều đã góp phần tạo ra những đỉnh cao mới về năng suất trong nông nghiêp.
Thay các giống bắp địa phương trong sản xuât băng các giống lai giưa các dòng thuần, các nhà chọn giống đã góp phần nâng cao năng suất bắp lên gấp hai , ba lần. Nếu đến năm 1938 việc trồng các giống bắp địa phương ở Mỹ chỉ đạt đươc năng suất bình quân 1,25 tấn/ha, thì việc chuyển mạnh sang trồng các giống bắp lai đã đưa năng suất bắp tăng rõ rêt, 1952 bình quân cả nứơc đạt 2,54tấn/ha, năm 1962 đạt 4,02 tấn/ha và năm 1976 là 5,189 tấn/ha, trong đó nhiều trang trại trồng bắp đã đạt được năng suất 8 - 10 tấn/ha. Các nhà chọn giống không dừng lại ở những thành qủa đó, cùng với năng suất, phải nâng cao đồng thời giá trị dinh dữơng của bắp.
Măc dù có hàm lượng prtein tổng số cao hơn gạo, nhưng giá trị dinh dữơng của bắp không đươc cao, vì ham lượng một số axit amin thiết yếu như lysine, trypthophan, methionine kha thấp. Khỏang môt nửa lượng protein của bắp thuộc nhóm Zêin hầu như không chứa các loại acid amin kể trên, nên có hệ số tiêu hóa đối với con ngừơi va động vật không nhai lại tương đối thấp. Nhược điểm trên của bắp đã được phat hiện từ lâu và không ít nhà khoa hoc thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau đa đổ nhiều công sức để tìm cách khắc phục. Tuy nhiên trong môt thời gian dài đã nổ lực kể trên không thu được kết qủa mong muốn.
Băng các biện pháp kỹ thụât canh tác, nhất là phân bón các nhà trồng trọt có thể gia tăng được đáng kể hàm lượng protein trong hạt bắp, song đáng tiếc là lượng gia tăng đó chủ yếu thuộc về Zêin, nhóm protein có giá trị dinh dữơng thấp. Vấn để tửơng chừng như bế tắc cho đển năm 1964 khi những phát hiện về các đột biến opaque-2 (2O) và floury - 2 (fl.2), co tác dụng giá tăng hàm lượng các acid a min không thay đối trong hạt bắp, được công bố. Các nhà chọn giống đã thành công trong việc truyền các gen nói trên vào các giống bắp thừơng để tạo ra các giống bắp có giá trị dinh dữơng cao, giàu lisine, trypthophan và methionine. Các nhà khoa học hy vong trong tương lai các giống bắp giàu lysine này sẽ góp phần quan trọng vào việc giải quyết nạn thiếu protein của nhân loại.
Những giống đậu nành mới được phổ biến ra sản xuất ở nướcc ta trong nhưng năm gần đây đã góp phần đưa năng suất và sản lượng đậu nành tăng nhanh, tạo nên một bước chuyển mới trong sản xuất nông nghiệp của nước ta.
Những thành tựu nói trên cùng biết bao giống cây trồng khác có năng suất cao và phẩm chất tốt đã và đang được đưa vào sản xuất ở khắp nơi trên thế giới đã mang lại cho khoa học chọn giống một niềm tự hào chính đáng.
2.2. Giống tốt tạo điều kiện phòng chống thiên tai, sâu bệnh có hiệu quả ít tốn kém
Mỗi giống cây trồng có tính thích nghi nhất định với từng điều kiện vùng sinh thái. Do đó việc lựa chọn giống cây trồng thích hợp với từng vùng sản xuất: điều kiện sinh thái, điều kiện canh tác vừa có ý nghĩa trong việc đảm bảo tốt nhất cho việc tạo năng suất và đảm bảo chất lượng thì nó còn có có một vai trò khác vô cùng quan trọng đó là mở rộng diện tích đất canh tác.
Trong thực tiễn sản xuất đã ghi nhận nhờ có nhiều giống cây trồng mới: giống lúa cao cây, giống lúa chịu mặn, ngô chống đỗ ngã…nhờ đó ta đã mở rộng được diện tích canh tác. Những giống cây trồng chống chịu sâu bệnh ra đời đã góp phần ổn định sản xuất, giảm thiểu chi phí phòng trừ sâu bệnh cho người dân, bảo vệ môi trường.
Với tình hình biến đổi khí hậu đang diễn ra phức tạp: nhiệt độ trái đất gi tăng, nước biển dâng cao, tình trạng thiên tai, dịch bệnh đang xảy ra ngày càng nhiều sản xuất nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thử thách lớn đó tình trạng nhiễm mặn, nhiễm phèn đất sản xuất lúa ngày càng gia tăng; sự hoang hoá do nhiệt độ toàn cầu gia tăng và ảnh hưởng của quá trình xói mòn, các dịch bệnh đang xảy ra với mức độ và tần suất xảy ra ngày càng cao trong khi nông nghiệp đang hướng đến nền nông nghiệp sạch và bền vững thì vai trò của giống cây trồng