Văn hóa thẩm mỹ là lĩnh vực văn hoá đặc thù, biểu hiện trình độ phát triển
cao của văn hoá, phản ánh mối quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực
thông qua hoạt động thẩm mỹ. Văn hóa thẩm mỹ (VHTM) luôn hiện diện, thẩm
thấu trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, chắt lọc những giá trị từ chính đời
sống thẩm mỹ để tác động trở lại tâm thức, thói quen của con người, tôn vinh cái
đẹp, làm cho các hoạt động hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo thẩm mỹ của con người
được thực hiện trên nền tảng một chỉnh thể giá trị chân - thiện - mỹ, hướng sự phát
triển nhân cách của con người theo chuẩn mực của cái đẹp. VHTM thực sự trở
thành tiêu chí tham chiếu, qui tụ thành hướng phát triển chung vì sự phát triển tiến
bộ của của con người và cộng đồng, xã hội.
Bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và giao lưu, hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng của nước ta hiện nay đang tạo điều kiện thuận lợi cho VHTM của
mỗi cá nhân phát triển gắn với hình thành nhân cách. Song, bối cảnh ấy đồng thời
đặt ra những khó khăn, thách thức cho việc định hướng, tiếp thu, thưởng thức, đánh
giá, sáng tạo những giá trị VHTM của mỗi người. Trong quân đội cũng đang diễn ra
sự đan xen phức tạp và chịu nhiều ảnh hưởng của các kênh tác động từ phía môi
trường xã hội và đã xuất hiện những "lệch chuẩn", mở đường cho những hiện tượng
tiêu cực, những phản giá trị thẩm mỹ len lỏi vào làm biến dạng đời sống văn hóa
tinh thần lành mạnh của quân nhân.
205 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 70593 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường quân đội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM VĂN XÂY
V¡N HãA THÈM Mü
TRONG NHµ TR¦êNG QU¢N §éI HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62 31 06 40
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VĂN ĐỨC THANH
PGS.TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo qui định.
Tác giả
Phạm Văn Xây
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 6
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 6
1.2. Đánh giá chung và bàn luận 19
Chương 2: LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA THẨM MỸ TRONG NHÀ
TRƯỜNG QUÂN ĐỘI Ở VIỆT NAM 23
2.1. Những vấn đề chung về văn hóa thẩm mỹ 23
2.2. Đặc trưng của văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường quân đội 35
Chương 3: THỰC TRẠNG VĂN HÓA THẨM MỸ VÀ PHÁT HUY
VĂN HOÁ THẨM MỸ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN
ĐỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 58
3.1. Khái lược về khách thể và phương thức khảo sát 58
3.2. Thực trạng các yếu tố cấu thành văn hóa thẩm mỹ trong nhà
trường quân đội ở Việt Nam hiện nay 63
3.3. Thực trạng tác động tổng thể của văn hóa thẩm mỹ trong nhà
trường quân đội ở Việt Nam hiện nay 89
Chương 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA THẨM MỸ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 104
4.1. Phát triển những yếu tố cấu thành của văn hóa thẩm mỹ trong nhà
trường quân đội 104
4.2. Phát huy văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường quân đội 124
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 161
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GDTM : Giáo dục thẩm mỹ
GD-ĐT : Giáo dục, đào tạo
GS.TS : Giáo sư, tiến sỹ
NTQĐ : Nhà trường quân đội
Nxb : Nhà xuất bản
PGS.TS : Phó giáo sư, tiến sĩ
QĐNDVN : Quân đội nhân dân Việt Nam
VHTM : Văn hóa thẩm mỹ
VHNT : Văn hóa nghệ thuật
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa thẩm mỹ là lĩnh vực văn hoá đặc thù, biểu hiện trình độ phát triển
cao của văn hoá, phản ánh mối quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực
thông qua hoạt động thẩm mỹ. Văn hóa thẩm mỹ (VHTM) luôn hiện diện, thẩm
thấu trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, chắt lọc những giá trị từ chính đời
sống thẩm mỹ để tác động trở lại tâm thức, thói quen của con người, tôn vinh cái
đẹp, làm cho các hoạt động hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo thẩm mỹ của con người
được thực hiện trên nền tảng một chỉnh thể giá trị chân - thiện - mỹ, hướng sự phát
triển nhân cách của con người theo chuẩn mực của cái đẹp. VHTM thực sự trở
thành tiêu chí tham chiếu, qui tụ thành hướng phát triển chung vì sự phát triển tiến
bộ của của con người và cộng đồng, xã hội.
Bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và giao lưu, hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng của nước ta hiện nay đang tạo điều kiện thuận lợi cho VHTM của
mỗi cá nhân phát triển gắn với hình thành nhân cách. Song, bối cảnh ấy đồng thời
đặt ra những khó khăn, thách thức cho việc định hướng, tiếp thu, thưởng thức, đánh
giá, sáng tạo những giá trị VHTM của mỗi người. Trong quân đội cũng đang diễn ra
sự đan xen phức tạp và chịu nhiều ảnh hưởng của các kênh tác động từ phía môi
trường xã hội và đã xuất hiện những "lệch chuẩn", mở đường cho những hiện tượng
tiêu cực, những phản giá trị thẩm mỹ len lỏi vào làm biến dạng đời sống văn hóa
tinh thần lành mạnh của quân nhân.
Đối với đời sống VHTM của nhà trường quân đội (NTQĐ) cũng vậy, thị
hiếu thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, nhu cầu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ của cán
bộ, giảng viên, đặc biệt là học viên cũng ít nhiều bị ảnh hưởng tương tự. Do tuổi
đời, vốn sống, sự thử thách, rèn luyện chưa nhiều, nhân cách đang trong quá trình
định hình chưa thực sự ổn định nên học viên trong NTQĐ dễ bị tác động, lôi
cuốn bởi những cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ mới lạ. Không ít học viên thiếu am hiểu
về VHTM cũng như vai trò của nó đối với đời sống thẩm mỹ của bộ đội. Việc tổ
chức các hoạt động VHTM ở một số NTQĐ chưa tạo ra được nhiều cái đẹp mang
tính hệ thống, chưa tạo được sức thu hút, lôi cuốn quân nhân vào lĩnh vực VHTM.
Khi ra trường, một bộ phận sĩ quan trẻ lý tưởng thẩm mỹ còn mờ nhạt; chưa thấu
hiểu hết các giá trị VHTM trong đời sống và hoạt động quân sự; chưa phát huy hết
vai trò VHTM trong đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo thẩm mỹ của bộ đội;
2
chưa biết bảo vệ, giữ gìn, phát huy những giá trị VHTM truyền thống của dân tộc và
quân đội. Thực trạng đó đòi hỏi phải coi trọng phát triển VHTM trong NTQĐ tạo ra
đời sống VHTM vui tươi, lành mạnh, xây dựng các NTQĐ thực sự trở thành "pháo
đài" vững chắc về chính trị, tư tưởng, đồng thời là nơi tiếp nhận những tri thức khoa
học thẩm mỹ mới hoà nhập với mặt bằng chung của giáo dục - đào tạo (GD-ĐT) trong
nước và quốc tế, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội trong tình hình mới.
Nhận thức đúng đắn vai trò to lớn của VHTM trong xây dựng quân nhân và
tập thể quân nhân văn hóa, những năm qua các NTQĐ luôn quan tâm xây dựng và
phát triển VHTM, tạo ra đời sống thẩm mỹ lành mạnh, phong phú và làm cho hệ giá
trị VHTM luôn lan tỏa, thẩm thấu đến đời sống sinh hoạt, giảng dạy, học tập và rèn
luyện của cán bộ, giảng viên, học viên, hình thành ở họ tinh thần lạc quan, biết cảm
thụ cái hay, cái đẹp trong đời sống và hoạt động quân sự, không ngừng thúc đẩy các
quan hệ hài hoà trong môi trường sư phạm quân sự. Tuy nhiên, so với yêu cầu của
thực tiễn, quá trình phát triển và phát huy VHTM trong NTQĐ vẫn còn nhiều mặt
hạn chế, chưa cập nhật được tình hình phát triển đời sống thẩm mỹ chung của xã
hội, chưa phát huy hết mọi tiềm năng sáng tạo, cũng như chưa tạo ra môi trường
thuận lợi để phát triển năng lực sáng tạo tiềm ẩn của các chủ thể. Một số nhà trường
chưa thực sự chú trọng, quan tâm đến phát triển VHTM và xây dựng đời sống
VHTM vui tươi, lành mạnh, chưa coi đó là một khâu quan trọng làm chuyển biến
toàn diện và nâng cao chất lượng GD-ĐT. Điều đó đã dẫn đến đời sống VHTM ở
một số nhà trường còn tẻ nhạt, đơn điệu, dễ nảy sinh suy nghĩ và hành động tiêu cực
của học viên, cũng như không phát huy hết tiềm năng sáng tạo và xây dựng những
tập thể quân nhân trong nhà trường trở thành "điểm sáng văn hoá". Tình hình đó đòi
hỏi cần phải có sự nghiên cứu chuyên sâu nhằm luận giải, tìm ra thực chất và cách
thức giải quyết một cách khoa học.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu cơ bản, hệ thống về
"Văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường quân đội hiện nay" dưới góc độ Văn hoá học
là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về VHTM, trên cơ sở
đó đề xuất những vấn đề cần giải quyết nhằm phát triển các yếu tố cấu thành
VHTM và phát huy VHTM trong NTQĐ đáp ứng mục tiêu phát triển toàn diện
3
nhân cách học viên hướng tới phát triển đội ngũ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ
thuật của quân đội trong tương lai.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về VHTM và đặc trưng của VHTM trong NTQĐ.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng VHTM trong tổ chức và hoạt động ở một số
NTQĐ tiêu biểu ở Việt Nam hiện nay.
- Xác định những vấn đề đặt ra về phát triển VHTM trong NTQĐ hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là VHTM gắn với hoạt động GD-ĐT trong
các NTQĐ ở Việt Nam hiện nay, được xem xét dưới góc độ Văn hoá học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận án nghiên cứu một cách sâu sắc từ điểm đến diện về
VHTM ở các NTQĐ. Hiện nay, do hệ thống các NTQĐ có hơn một trăm học viện,
nhà trường đóng quân trên phạm vi toàn quốc, do đó luận án gọi chung là nhà
trường quân đội và chỉ chọn đại diện 3 nhà trường tiêu biểu cho ba lĩnh vực: chính
trị, quân sự và văn hóa nghệ thuật (VHNT), bao gồm: Học viện Chính trị; Trường
Sĩ quan Lục quân 1; Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội.
- Về thời gian: Luận án lấy mốc thời gian nghiên cứu VHTM trong NTQĐ từ
năm 2010 đến nay thông qua hoạt động của các chủ thể thẩm mỹ, gắn với các hoạt
động giảng dạy và học tập trong NTQĐ.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về văn hoá, con người, các quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân
đội, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng,
Tổng cục Chính trị để khảo sát, tìm hiểu bản chất của VHTM, cũng như phân tích
đặc trưng của VHTM trong NTQĐ ở Việt Nam hiện nay.
Cơ sở thực tiễn: Luận án dựa trên thực trạng VHTM trong NTQĐ ở Việt
Nam hiện nay, thông qua hệ thống tài liệu, tư liệu, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết,
của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục chính trị và kết quả
điều tra, khảo sát trong quá trình thâm nhập thực tế của tác giả tại một số nhà trường
4
tiêu biểu trong hệ thống NTQĐ. Luận án cũng dựa trên thực trạng công tác đảng,
công tác chính trị và cuộc vận động xây dựng môi trường văn hóa trong quân đội
những năm qua, coi đây là nguồn cung cấp luận cứ định hướng tư tưởng và tổ chức
để thực hiện luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Luận án tập trung nghiên cứu, phân tích
các tài liệu, các chỉ thị, nghị quyết, báo cáo tổng kết, các kết quả điều tra, nghiên
cứu về các hoạt động VHTM, giáo dục thẩm mỹ (GDTM) được thể hiện trong quá
trình GD-ĐT ở các NTQĐ từ năm 2010 đến nay, tiếp thu những kinh nghiệm thành
công, khắc phục những bất cập, từ đó tổng hợp, khái quát hóa, đưa ra những nhận
định có tính khoa học về phát triển và phát huy VHTM trong NTQĐ hiện nay.
Phương pháp lịch sử - logic: Phương pháp này giúp tác giả luận án đi sâu tìm
hiểu quá trình vận động và phát triển của VHTM trong NTQĐ ở Việt Nam hiện nay
gắn với nâng cao chất lượng GD-ĐT, xây dựng quân nhân và tập thể quân nhân có
văn hóa. Đồng thời, giúp cho tác giả luận án khái quát sự vận động của VHTM theo
đặc điểm của môi trường sư phạm quân sự và những vấn đề cần nghiên cứu phục vụ
cho triển khai thực hiện luận án.
Phương pháp hệ thống - cấu trúc: VHTM được cấu trúc bởi nhiều bộ phận,
nhiều thành tố, các bộ phận này có vị trí độc lập, chức năng riêng và vận động theo
qui luật của cái đẹp. Luận án sử dụng phương pháp này nhằm nghiêm cứu VHTM
trong NTQĐ VHTM một cách toàn diện, nhiều mặt, trong mối tương quan với hoạt
động GD-ĐT và hình thành nhân cách học viên, từ đó đưa ra những nhận định
nhằm phát triển và phát huy VHTM trong NTQĐ hiện nay.
Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này giúp tác giả luận án tham khảo ý
kiến của các chuyên gia có trình độ cao để xem xét, nhận định, đánh giá về VHTM nói
chung, VHTM trong NTQĐ nói riêng; qua đó làm rõ hơn về vấn đề nghiên cứu và
kiểm chứng tính cần thiết phải phát triển và phát huy VHTM trong NTQĐ hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Phương pháp này thực chất là sự phân
tích một hay một số trường hợp điển hình cụ thể theo mục đích nghiên cứu của
mình. Nghiên cứu VHTM trong NTQĐ sẽ rất khó khăn khi nghiên cứu toàn bộ hệ
thống hơn một trăm nhà trường, do đó tác giả luận án chỉ chọn ba nhà trường tiêu
biểu để khảo sát, đánh giá thực trạng VHTM.
5
Phương pháp điều tra xã hội học (phiếu hỏi anket): Luận án sử dụng phương
pháp này nhằm khảo sát thực trạng VHTM trong NTQĐ thông qua việc thu thập
thông tin khách quan từ những người được điều tra, khảo sát.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Tác giả luận án tiến hành phỏng vấn một số
cán bộ, giảng viên và học viên trong NTQĐ, tìm ra nguyên nhân ưu, nhược điểm,
đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động của các thiết chế VHTM tại các
nhà trường.
Phương pháp điền dã thực địa (bao gồm cả điền dã tham dự và điền dã quan
sát): Phương pháp này giúp cho nghiên cứu sinh có được những dữ liệu trung thực
thông qua quan sát thực tế, ghi âm, ghi hình thực tiễn đời sống VHTM trong
NTQĐ; qua đó nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về thực trạng VHTM và đưa ra những
nhận xét, đánh giá mang tính khách quan, khoa học, có sức thuyết phục.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về VHTM và những đặc trưng tiêu
biểu của nó trong NTQĐ ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá làm rõ thực trạng VHTM trong NTQĐ ở Việt Nam hiện
nay thông qua những yếu tố cấu thành của nó, từ đó xác định những vấn đề đặt ra
đối với phát triển VHTM trong NTQĐ hiện nay
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần xây dựng luận cứ khoa học nhằm
xây dựng, phát triển và phát huy VHTM trong quân đội và ở các NTQĐ.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu, giảng dạy trong các NTQĐ; đồng thời làm tài liệu tham khảo cho đội
ngũ cán bộ chính trị, cán bộ văn hóa vận dụng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
công tác đảng, công tác chính trị ở các đơn vị cơ sở.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án kết cấu thành 4 chương, 7 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, giới nghiên cứu trong
nước và quốc tế đã có những công trình nghiên cứu về VHTM, VHTM trong nhà
trường nói chung và VHTM trong NTQĐ nói riêng. Có thể nhận thấy một số hướng
nghiên cứu như sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến văn hoá thẩm mỹ
Từ nhiều góc độ tiếp cận và luận giải khác nhau về văn hóa và VHTM, một
số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài như: "Giáo dục thẩm mỹ cho
con em trong gia đình" của P.M. Iakôpxôn [59]; "Cơ sở lý luận văn hoá Mác -
Lênin" do A.I. Acnônđôp [1]; "Chủ nghĩa xã hội và nhân cách" của tập thể tác giả
[97]; "Mỹ học - khoa học diệu kỳ" của B.A. E-Ren-Grôxx [36] đều coi văn hoá
như một phương thức đánh dấu trình độ phát triển của con người và khẳng định:
"VHTM là một thành tố nằm trong hệ thống văn hóa tinh thần" [1, tr.217]. Tác giả
B.A. E-Ren-Grôxx cho rằng trong đời sống "cái đẹp luôn gắn liền với sự khẳng
định cuộc sống" [36, tr.58], nên khi mỗi con người cảm nhận, lĩnh hội và đánh giá
cái đẹp phụ thuộc rất nhiều vào "trình độ văn hóa và mức độ phát triển của họ" [36,
tr.73]. Vì vậy, GD-ĐT trong nhà trường cần coi trọng VHTM để giúp người học
phát triển nhu cầu thẩm mỹ, bộc lộ khuynh hướng nghệ thuật và biết xây dựng cái
đẹp cho mình. Do đó, "việc khêu gợi sự thụ cảm thẩm mỹ ở các em là công tác đặc
biệt của gia đình và nhà trường" [90, tr.12], giúp cho các em phát triển khả năng
cảm thụ, hiểu về cái đẹp trong thiên nhiên, trong nghệ thuật và xã hội.
Các công trình "Nguyên lý Mỹ học Mác - Lênin" của hai tác giả IU.A. Lukin,
V.C. Xcacherơsiccôp [71]; "Mỹ học cơ bản và nâng cao" của M.F. Ôpxiannhicôp chủ
biên [87]... là sản phẩm nghiên cứu mang tính lý luận sâu sắc, khái quát khá đầy đủ
những vấn đề cơ bản về VHTM và các loại hình nghệ thuật cũng như nêu rõ vị trí,
vai trò của của nghệ thuật trong đời sống xã hội. Các học giả nêu rõ: "Hoạt động
thẩm mỹ (là sáng tạo "theo qui luật của cái đẹp" cũng như cảm thụ cái đẹp) đưa lại
cho con người niềm vui tinh thần cao quí với ý nghĩa xã hội của nó, hoạt động
thẩm mỹ là phương tiện để đạt được mục đích nhất định" [71, tr.31]. Cái đẹp được
7
ẩn chứa trong mọi hoạt động của con người, trong mối quan hệ, giao tiếp xã hội, trong
lao động, sinh hoạt và trong nghệ thuật. Tuy nhiên, "cái đẹp luôn đòi hỏi sự hiểu biết,
đòi hỏi phải có tri thức" [71, tr.340], khi con người muốn cảm thụ được cái đẹp nhất
thiết phải hiểu được bản chất của các sự vật hiện tượng trong hiện thực. Do đó, việc
"phát triển văn hóa thẩm mỹ phải gắn liền với các nhiệm vụ giáo dục con người mới"
[71, tr.17] và phải làm cho "văn hóa thẩm mỹ thâm nhập dần dần vào tất cả mọi lĩnh
vực sống và hoạt động của con người đồng thời, vạch mặt tất cả những thế lực phản
thẩm mỹ" [87, tr.687], trở thành sức mạnh để cổ vũ cho lao động, tô điểm sinh hoạt và
làm cao đẹp con người. Nhà nghiên cứu M.F. Ôpxiannhicôp cho rằng: "Nếu giải quyết
được những nhiệm vụ đó, nghĩa là đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển VHTM,
nghệ thuật, cho sự hình thành con người hài hòa và toàn diện của xã hội" [87, tr.35].
Con người luôn có nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo cái đẹp, khi cái đẹp tác động vào con
người sẽ làm hài hòa những tình cảm, nguyện vọng, khao khát từ tư tưởng của họ và
hình thành lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp.
Khi nghiên cứu về "Tu dưỡng đạo đức, tư tưởng", tác giả La Quốc Kiệt [65]
một nhà nghiên cứu Trung Quốc, đã đưa ra quan điểm về giá trị, luận chứng bản
chất và sự thống nhất giữa giá trị bản thân và giá trị xã hội trong nhân cách; đưa ra
nội dung, yêu cầu và con đường bồi dưỡng, xây dựng giá trị nhân cách. Đặc biệt,
ông đã đưa ra khái niệm "Tố chất văn hoá" và coi tố chất văn hoá là nền tảng, cốt
lõi có ảnh hưởng rất lớn và thẩm thấu mạnh mẽ tới sự hình thành và phát triển các
tố chất khác của con người. Do đó, việc tu dưỡng tố chất văn hoá sẽ là điều kiện
tiên quyết nhằm hoàn thiện nhân cách và năng lực thẩm mỹ ở mỗi cá nhân. Tuy
nhiên, trong tác phẩm này VHTM được tác giả hiểu theo nghĩa hẹp là "trình độ học
vấn". Do đó, nó chỉ được đặt bên cạnh các tố chất khác như: chính trị tư tưởng,
phẩm chất đạo đức, năng lực thẩm mỹ của mỗi cá nhân [65, tr.280-591].
Một số công trình bàn về vấn đề tầm quan trọng của VHTM như: "Xây dựng
và phát triển nền văn hóa thẩm mỹ ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong
điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế" của XiLửa BunKhăm [127]; "Vai trò của
văn hóa đối với sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Cộng hòa Dân chủ
nhân dân Lào hiện nay" của Son Tha Nu Thăm Ma Vông [93] Trong công cuộc
đổi mới hiện nay ở Lào, vai trò của văn hóa nói chung, VHNT nói riêng đang từng
bước được khẳng định như là một nhân tố bên trong quá trình phát triển. Tác giả
Son Tha Nu Thăm Ma Vông đã nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về văn hóa, VHTM
8
và coi "văn hóa nghệ thuật là một bộ phận quan trọng của VHTM, nằm trong văn
hóa tinh thần. Trung tâm của văn hóa nghệ thuật là sự sáng tạo, lưu giữ và phát huy
các giá trị nghệ thuật trong đời sống xã hội" [93, tr.16]. Do đó, cần xây dựng một
"nền văn hóa thẩm mỹ là cội nguồn của sức mạnh vật chất và tinh thần, là chỗ dựa,
là điểm xuất phát cho nhân dân các dân tộc" [127, tr.56]. Trên cơ sở nhận thức đầy
đủ vai trò và tác động của VHTM đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước, tác
giả XiLưa BunKhăm đã đề xuất các giải pháp về phương diện lãnh đạo và quản lý
để phát huy sức mạnh của VHTM và VHNT, làm cho các giá trị VHTM "thẩm thấu
vào toàn bộ các hoạt động xã hội, vừa đóng vai trò định hướng vừa là động lực và
hệ điều tiết quá trình phát triển kinh tế - xã hội [127, tr.63].
Các công trình nghiên cứu ở trong nước như: "C.Mác - Ph.Ăngghen -
V.I.Lênin và một số vấn đề lý luận văn nghệ" của Hà Minh Đức [34]; "Vai trò của
nghệ thuật trong đời sống tinh thần của con người" của Đào Duy Thanh [98]; "Vai
trò của văn hóa đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay" của Đào Đình Thưởng [108]; "Nghệ thuật với sự phát triển nhân cách người
cán bộ lãnh đạo trong công cuộc đổi mới" của tác giả Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn
Quốc Tuấn - 2000 [54] đã bàn sâu về vai trò của văn hóa nói chung, VHNT nói
riêng như là một nhân tố bên trong của quá trình phát triển kinh tế - xã hội và phát
triển nhân cách của mỗi người. Do đó, cần nhận thức đầy đủ về vai trò và tác động
của văn hóa và VHNT tới con người, xã hội trên cơ sở đó phát huy s