1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang và sẽ ngày càng trở nên một nhu cầu tất yếu và cần thiết của Việt Nam. Gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995, ký kết và phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ (BTA) năm 2000, ký kết và phê chuẩn các Hiệp định thương mại đầu tư với nhiều quốc gia là một số ví dụ điển hình về các hoạt động hội nhập tích cực của Việt Nam. Gần đây nhất là việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Trở thành thành viên của tổ chức này đồng nghĩa với việc Việt Nam phải tham gia tất cả các hiệp định đa biên của WTO, trong đó có Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (sau đây gọi tắt là Hiệp định TRIPS).
Quyền sở hữu trí tuệ lần đầu tiên được bàn tới trong chương trình nghị sự của Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT) tại Vòng đàm phán về hàng giả ở Tokyo năm 1978. Tuy nhiên phải đến Vòng đàm phán Urugoay của GATT (1986-1994), quyền sở hữu trí tuệ mới thực sự trở thành đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của GATT và với việc thông qua Hiệp định TRIPS, quyền sở hữu trí tuệ trở thành đối tượng điều chỉnh của WTO. Tại các nước phát triển, nơi có nền kinh tế tri thức, thương mại điện tử và khoa học công nghệ ở trình độ cao, vai trò của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được nhìn nhận và đánh giá đúng giá trị đích thực của nó. Tuy nhiên, tại các nước đang phát triển và đặc biệt là chậm phát triển thì quyền sở hữu trí tuệ đang bị vi phạm nghiêm trọng. Các sản phẩm sao chép, bắt chước được bán với giá thấp hơn rất nhiều so với các sản phẩm hợp pháp. Kết quả là nhà sản xuất chân chính không có khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận cần thiết để tiếp tục tồn tại, tiếp tục nghiên cứu và tiếp tục sáng tạo.
Việt Nam không nằm ngoài hiện tượng trên. Là một nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi, Việt Nam đang phải đối mặt với nạn hàng giả, hàng nhái tràn lan. Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và còn cho rằng đó là việc của Nhà nước. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp vẫn hàng ngày vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và không ít doanh nghiệp chưa biết làm thế nào để bảo vệ quyền lợi bị vi phạm. Đây thực sự là một khó khăn cho Việt Nam khi phải thực hiện các cam kết đối với WTO về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Trong khi đó, WTO yêu cầu các Thành viên của mình phải xây dựng một hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ nhằm thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển.
Thế nào là một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hữu hiệu ? Việt Nam đã có hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như vậy hay chưa? Nếu chưa có thì cần phải xây dựng hệ thống này như thế nào? Nếu đã có thì nó đã phù hợp với yêu cầu của WTO hay chưa? Để trả lời tất cả những câu hỏi này, cần phải có sự nghiên cứu vấn đề này một cách đầy đủ và cụ thể.
Đó là lý do để em chọn Luận án về vấn đề «Xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phù hợp với Hiệp định của WTO về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIPS)»
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã và đang thu hút sự chú ý, sự quan tâm của nhiều học giả, nhiều nhà khoa học Việt Nam và nước ngoài. Tuy nhiên, vấn đề về hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ lại là một vấn đề rất mới. Vấn đề xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu của WTO lại còn mới hơn, không chỉ đối với Việt Nam mà đối với nhiều nước.
2.1. Ở nước ngoài
Ở nước ngoài, đã có nhiều công trình nghiên cứu các quy định của WTO về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng như những báo cáo về hệ thống pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Đáng chú ý nhất là những công trình sau:
- Jorge A. Z. Bermudez và Maria Auxiliadora Oliveira, Rio de Janeiro (2004), Sở hữu trí tuệ trong bối cảnh WTO/TRIPS : thách thức với sức khoẻ cộng đồng.
- Hansen, Hugh (2004), Sở hữu trí tuệ : Khó khăn về đạo đức, pháp luật, Ohio State University.
- Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (2001), Cẩm nang sở hữu trí tuệ : Chính sách, pháp luật và áp dụng.
- Liên minh sở hữu trí tuệ quốc tế (International Interlectual Property Alliance- IIPA) (2005-2007), Báo cáo tình hình vi phạm sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với hiệp định TRIPS.
2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam cũng có những công trình đáng chú ý sau :
- Trần Hồng Minh (2006), So sánh hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam theo Hiệp định TRIPS- WTO, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
- Đinh Thị Mai Phương (2004), Cẩm nang pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (Dùng cho doanh nghiệp, doanh nhân), Nxb Chính trị Quốc gia.
- Nguyễn Thị Quế Anh (2005), Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về xác lập quyền sở hữu công nghiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số tháng 3.
- Đoàn Năng (2005), Thực trạng pháp luật về sở hữu trí tuệ ở Việt nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 3.
- Trần Lê Hồng (2007), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để đưa sở hữu trí tuệ vào giảng dạy và đào tạo tại các trường đại học, đề án Nghiên cứu Khoa học cấp Bộ.
Các công trình xuất bản ở nước ngoài nêu trên chỉ tập trung khai thác khía cạnh tác động của Hiệp định TRIPS tới sức khoẻ cộng đồng và tác động tới các nước nghèo trong việc hưởng lợi từ những phát minh khoa học trên thế giới. Các công trình công bố ở Việt Nam phần lớn chỉ nghiên cứu pháp luật về sở hữu trí tuệ hoặc phân tích vấn đề quyền sở hữu trí tuệ từ thực trạng điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và đưa ra hướng dẫn doanh nghiệp Việt Nam về xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với từng đối tượng cụ thể.
Hiện nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu vấn đề xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phù hợp với Hiệp định TRIPS. Đây là Luận án tiến sỹ kinh tế đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề có tính lý luận về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của hiệp định TRIPS và phân tích sự cần thiết phải xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; sau khi phân tích thực trạng xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, Luận án đề xuất phương hướng và giải pháp xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIPS nhằm tạo cơ sở để Việt Nam thực hiện tốt các cam kết trong WTO về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong WTO.
3.2. Nhiệm vụ cụ thể
Để đạt được mục đích nói trên, Luận án có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung về sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
- Phân tích những nguyên tắc pháp lý cơ bản của Hiệp định TRIPS và các yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, trên cơ sở đó nêu bật những yêu cầu có tính bắt buộc mà Việt Nam phải tuân thủ.
- Nêu rõ sự cần thiết khách quan phải xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với hiệp định TRIPS.
- Phân tích thực trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay và nêu bật những bất cập, nguyên nhân cũng như thực trạng xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, đặc biệt trong khoảng thời gian 2 năm kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO và phải thực thi các cam kết theo yêu cầu của Hiệp định TRIPS.
- Chỉ ra các điểm chưa tương thích giữa hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam so với các yêu cầu của Hiệp định TRIPS.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể về xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIPS nhằm tạo thuận lợi để Việt Nam thực hiện tốt các cam kết quốc tế của mình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án bao gồm những vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đối tượng nghiên cứu của Luận án còn bao gồm những quy định của Hiệp định TRIPS, của Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, để hoàn thành luận án, việc phân tích kinh nghiệm của một số nước về xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng là đối tượng nghiên cứu của luận án.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung, phạm vi nghiên cứu của Luận án giới hạn ở việc phân tích các quy định trong pháp luật Việt Nam và của Hiệp định TRIPS về quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một khái niệm rất rộng và phức tạp với ý nghĩa là tập hợp các bộ phận có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong khuôn khổ của một Luận án tiến sỹ, khi phân tích những vấn đề liên quan đến hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nội dung của Luận án giới hạn sự phân tích ở ba bộ phận cấu thành hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đó là tập hợp các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của nhà nước, là tập hợp các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu và tập hợp các hoạt động tạo thành hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của xã hội.
- Về mặt thời gian, Luận án nghiên cứu quá trình xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam chủ yếu từ năm 1995 (năm ban hành Bộ luật Dân sự đầu tiên của Việt Nam trong đó có các quy định về quyền sở hữu trí tuệ) cho đến hết 6 tháng đầu năm 2008 và tầm nhìn đến năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của Luận án là phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lê nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước cũng là kim chi nam cho phương pháp luận nghiên cứu của Luận án.
Ngoài ra, để hoàn thành luận án, tác giả áp dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể của Luận án là phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, thống kê, hệ thống hoá và diễn giải. Đặc biệt, phương pháp so sánh luật học cũng được Luận án áp dụng thường xuyên nhằm nêu bật những quy định có tính chất bắt buộc của Hiệp định TRIPS đối với các quốc gia thành viên và những bất cập trong các quy định của Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng như xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận án
- Luận án đã hệ thống hoá các vấn đề lý luận về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và những khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại theo cách hiểu của Hiệp định TRIPS.
- Lần đầu tiên Luận án đưa ra khái niệm về hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và các bộ phận cơ bản cấu thành hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
- Luận án đã đánh giá một cách khách quan thực trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thực trạng xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp cụ thể về xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hữu hiệu ở Việt Nam phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIPS.
7. Bố cục của luận án
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các bảng biểu, nội dung của Luận ánđược phân bổ thành ba chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với Hiệp định TRIPS.
Chương 2: Thực trạng xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phù hợp với Hiệp định TRIPS.
193 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2982 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phù hợp với hiệp định của WTO về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (hiệp định TRIPS), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế đã, đang và sẽ ngày càng trở nên một nhu cầu tất yếu và cần thiết của Việt Nam. Gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995, ký kết và phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ (BTA) năm 2000, ký kết và phê chuẩn các Hiệp định thương mại đầu tư với nhiều quốc gia là một số ví dụ điển hình về các hoạt động hội nhập tích cực của Việt Nam. Gần đây nhất là việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Trở thành thành viên của tổ chức này đồng nghĩa với việc Việt Nam phải tham gia tất cả các hiệp định đa biên của WTO, trong đó có Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (sau đây gọi tắt là Hiệp định TRIPS).
Quyền sở hữu trí tuệ lần đầu tiên được bàn tới trong chương trình nghị sự của Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT) tại Vòng đàm phán về hàng giả ở Tokyo năm 1978. Tuy nhiên phải đến Vòng đàm phán Urugoay của GATT (1986-1994), quyền sở hữu trí tuệ mới thực sự trở thành đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của GATT và với việc thông qua Hiệp định TRIPS, quyền sở hữu trí tuệ trở thành đối tượng điều chỉnh của WTO. Tại các nước phát triển, nơi có nền kinh tế tri thức, thương mại điện tử và khoa học công nghệ ở trình độ cao, vai trò của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được nhìn nhận và đánh giá đúng giá trị đích thực của nó. Tuy nhiên, tại các nước đang phát triển và đặc biệt là chậm phát triển thì quyền sở hữu trí tuệ đang bị vi phạm nghiêm trọng. Các sản phẩm sao chép, bắt chước được bán với giá thấp hơn rất nhiều so với các sản phẩm hợp pháp. Kết quả là nhà sản xuất chân chính không có khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận cần thiết để tiếp tục tồn tại, tiếp tục nghiên cứu và tiếp tục sáng tạo.
Việt Nam không nằm ngoài hiện tượng trên. Là một nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi, Việt Nam đang phải đối mặt với nạn hàng giả, hàng nhái tràn lan. Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và còn cho rằng đó là việc của Nhà nước. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp vẫn hàng ngày vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và không ít doanh nghiệp chưa biết làm thế nào để bảo vệ quyền lợi bị vi phạm. Đây thực sự là một khó khăn cho Việt Nam khi phải thực hiện các cam kết đối với WTO về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Trong khi đó, WTO yêu cầu các Thành viên của mình phải xây dựng một hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ nhằm thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển.
Thế nào là một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hữu hiệu ? Việt Nam đã có hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như vậy hay chưa? Nếu chưa có thì cần phải xây dựng hệ thống này như thế nào? Nếu đã có thì nó đã phù hợp với yêu cầu của WTO hay chưa? Để trả lời tất cả những câu hỏi này, cần phải có sự nghiên cứu vấn đề này một cách đầy đủ và cụ thể.
Đó là lý do để em chọn Luận án về vấn đề «Xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phù hợp với Hiệp định của WTO về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (Hiệp định TRIPS)»
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã và đang thu hút sự chú ý, sự quan tâm của nhiều học giả, nhiều nhà khoa học Việt Nam và nước ngoài. Tuy nhiên, vấn đề về hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ lại là một vấn đề rất mới. Vấn đề xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu của WTO lại còn mới hơn, không chỉ đối với Việt Nam mà đối với nhiều nước.
2.1. Ở nước ngoài
Ở nước ngoài, đã có nhiều công trình nghiên cứu các quy định của WTO về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng như những báo cáo về hệ thống pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Đáng chú ý nhất là những công trình sau:
- Jorge A. Z. Bermudez và Maria Auxiliadora Oliveira, Rio de Janeiro (2004), Sở hữu trí tuệ trong bối cảnh WTO/TRIPS : thách thức với sức khoẻ cộng đồng.
- Hansen, Hugh (2004), Sở hữu trí tuệ : Khó khăn về đạo đức, pháp luật, Ohio State University.
- Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (2001), Cẩm nang sở hữu trí tuệ : Chính sách, pháp luật và áp dụng.
- Liên minh sở hữu trí tuệ quốc tế (International Interlectual Property Alliance- IIPA) (2005-2007), Báo cáo tình hình vi phạm sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với hiệp định TRIPS.
2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam cũng có những công trình đáng chú ý sau :
- Trần Hồng Minh (2006), So sánh hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam theo Hiệp định TRIPS- WTO, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
- Đinh Thị Mai Phương (2004), Cẩm nang pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (Dùng cho doanh nghiệp, doanh nhân), Nxb Chính trị Quốc gia.
- Nguyễn Thị Quế Anh (2005), Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về xác lập quyền sở hữu công nghiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số tháng 3.
- Đoàn Năng (2005), Thực trạng pháp luật về sở hữu trí tuệ ở Việt nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 3.
- Trần Lê Hồng (2007), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để đưa sở hữu trí tuệ vào giảng dạy và đào tạo tại các trường đại học, đề án Nghiên cứu Khoa học cấp Bộ.
Các công trình xuất bản ở nước ngoài nêu trên chỉ tập trung khai thác khía cạnh tác động của Hiệp định TRIPS tới sức khoẻ cộng đồng và tác động tới các nước nghèo trong việc hưởng lợi từ những phát minh khoa học trên thế giới. Các công trình công bố ở Việt Nam phần lớn chỉ nghiên cứu pháp luật về sở hữu trí tuệ hoặc phân tích vấn đề quyền sở hữu trí tuệ từ thực trạng điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và đưa ra hướng dẫn doanh nghiệp Việt Nam về xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với từng đối tượng cụ thể.
Hiện nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu vấn đề xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phù hợp với Hiệp định TRIPS. Đây là Luận án tiến sỹ kinh tế đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề có tính lý luận về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của hiệp định TRIPS và phân tích sự cần thiết phải xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; sau khi phân tích thực trạng xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, Luận án đề xuất phương hướng và giải pháp xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIPS nhằm tạo cơ sở để Việt Nam thực hiện tốt các cam kết trong WTO về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong WTO.
3.2. Nhiệm vụ cụ thể
Để đạt được mục đích nói trên, Luận án có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung về sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
- Phân tích những nguyên tắc pháp lý cơ bản của Hiệp định TRIPS và các yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, trên cơ sở đó nêu bật những yêu cầu có tính bắt buộc mà Việt Nam phải tuân thủ.
- Nêu rõ sự cần thiết khách quan phải xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với hiệp định TRIPS.
- Phân tích thực trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay và nêu bật những bất cập, nguyên nhân cũng như thực trạng xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, đặc biệt trong khoảng thời gian 2 năm kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO và phải thực thi các cam kết theo yêu cầu của Hiệp định TRIPS.
- Chỉ ra các điểm chưa tương thích giữa hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam so với các yêu cầu của Hiệp định TRIPS.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể về xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIPS nhằm tạo thuận lợi để Việt Nam thực hiện tốt các cam kết quốc tế của mình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án bao gồm những vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đối tượng nghiên cứu của Luận án còn bao gồm những quy định của Hiệp định TRIPS, của Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, để hoàn thành luận án, việc phân tích kinh nghiệm của một số nước về xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng là đối tượng nghiên cứu của luận án.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt nội dung, phạm vi nghiên cứu của Luận án giới hạn ở việc phân tích các quy định trong pháp luật Việt Nam và của Hiệp định TRIPS về quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một khái niệm rất rộng và phức tạp với ý nghĩa là tập hợp các bộ phận có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Trong khuôn khổ của một Luận án tiến sỹ, khi phân tích những vấn đề liên quan đến hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nội dung của Luận án giới hạn sự phân tích ở ba bộ phận cấu thành hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đó là tập hợp các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của nhà nước, là tập hợp các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu và tập hợp các hoạt động tạo thành hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của xã hội.
- Về mặt thời gian, Luận án nghiên cứu quá trình xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam chủ yếu từ năm 1995 (năm ban hành Bộ luật Dân sự đầu tiên của Việt Nam trong đó có các quy định về quyền sở hữu trí tuệ) cho đến hết 6 tháng đầu năm 2008 và tầm nhìn đến năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của Luận án là phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lê nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước cũng là kim chi nam cho phương pháp luận nghiên cứu của Luận án.
Ngoài ra, để hoàn thành luận án, tác giả áp dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể của Luận án là phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, thống kê, hệ thống hoá và diễn giải. Đặc biệt, phương pháp so sánh luật học cũng được Luận án áp dụng thường xuyên nhằm nêu bật những quy định có tính chất bắt buộc của Hiệp định TRIPS đối với các quốc gia thành viên và những bất cập trong các quy định của Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng như xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận án
- Luận án đã hệ thống hoá các vấn đề lý luận về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và những khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại theo cách hiểu của Hiệp định TRIPS.
- Lần đầu tiên Luận án đưa ra khái niệm về hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và các bộ phận cơ bản cấu thành hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
- Luận án đã đánh giá một cách khách quan thực trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thực trạng xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp cụ thể về xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hữu hiệu ở Việt Nam phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIPS.
7. Bố cục của luận án
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các bảng biểu, nội dung của Luận ánđược phân bổ thành ba chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với Hiệp định TRIPS.
Chương 2: Thực trạng xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phù hợp với Hiệp định TRIPS.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ PHÙ HỢP VỚI HIỆP ĐỊNH TRIPS
Sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ
Sở hữu trí tuệ là một thuật ngữ được cấu tạo bởi hai cụm từ là cụm từ “sở hữu” và cụm từ “trí tuệ”. Muốn hiểu rõ khái niệm này, cần phải tìm hiểu nghĩa cả hai cụm từ “sở hữu” và “trí tuệ”.
“Sở hữu” là khái niệm dùng để chỉ sự chiếm hữu của con người đối với tài sản. Sự chiếm hữu như vậy xuất hiện trong quá trình con người lao động sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Trong quá trình lao động sản xuất này, con người đã tham gia vào các mối quan hệ xã hội- quan hệ sản xuất, đồng thời con người cũng chiếm hữu của cải vật chất để phục vụ cho cuộc sống của mình và phục vụ cho quá trình sản xuất. Đó là quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu là quan hệ giữa người với người, trong quá trình lao động sản xuất và chiếm hữu của cải thu được trong quá trình sản xuất đó. Quan hệ sở hữu tồn tại trong mọi chế độ xã hội. Sở hữu là “chiếm hữu, sử dụng và hưởng thụ của cải vật chất trong xã hội” [46, tr.1077]. Của cải vật chất trong xã hội là những giá trị hữu hình hoặc vô hình đem lại lợi ích thiết thực cho người sở hữu. Hay nói cách khác, của cải vật chất này chính là tài sản [46, tr.1096].
Có hai loại tài sản, tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Tài sản trí tuệ là tài sản vô hình. “Trí tuệ” là thuật ngữ chỉ “khả năng nhận thức lý tính của con người đạt đến một trình độ nhất định” [40, tr.1280] về một sự vật hay hiện tượng nào đó. Tài sản trí tuệ là kết quả nghiên cứu thông qua hoạt động lao động sáng tạo của con người và đem lại cho người sáng tạo những lợi ích thiết thực. Tài sản trí tuệ là tài sản vô hình. Chúng bộc lộ ra bên ngoài dưới một hình thức khách quan nhất định nhưng bản thân chúng không phải là vật chất mà là sản phẩm của sáng tạo. Để xác định số lượng và chất lượng của tài sản trí tuệ, người ta không thể dùng các đại lượng đo lường thông thường như cân, đo, đong, đếm, …mà ngược lại, người ta phải căn cứ vào chính nội dung và phạm vi của tài sản trí tuệ được thể hiện dưới hình thức khách quan. Việc chiếm hữu, sử dụng và hưởng thụ tài sản trí tuệ cũng có những đặc điểm riêng so với việc chiếm hữu, sử dụng và hưởng thụ tài sản hữu hình. Các tài sản trí tuệ không mang tính giới hạn và không bị loại trừ. Một bản nhạc, một chương trình phần mềm máy tính sau khi được sáng tác, có thể được hàng triệu người nghe và sử dụng dù cho họ ở bất kỳ đâu trên thế giới.
Từ phân tích ở trên có thể kết luận sở hữu trí tuệ là sở hữu tri thức, sở hữu những sản phẩm sáng tạo của bộ óc con người. Một cách dễ hiểu, sở hữu trí tuệ là việc chiếm hữu, sử dụng và hưởng thụ lợi ích có được từ các sản phẩm sáng tạo đó. Do đặc tính vô hình của tri thức, của loại tài sản trí tuệ nên khó có thể xác định được đặc điểm vật chất của sở hữu trí tuệ.
Một người đầu tư công sức, tiền bạc để viết một cuốn sách nhưng sau khi công bố thì thông tin trong cuốn sách trở thành của chung và ai cũng có thể sử dụng và hưởng thụ thông tin đó. Như vậy, từ giác độ kinh tế, nếu không có một cơ chế hoàn trả chi phí thì sẽ không thể khuyến khích các chủ thể sáng tạo, càng không thể phát triển nền kinh tế dựa trên tri thức. Vì thế, chính sách và pháp luật phải được ban hành để bảo hộ tài sản trí tuệ nhằm xác lập, thừa nhận, củng cố quyền sở hữu trí tuệ, tạo điều kiện cho tài sản trí tuệ phát triển và đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Quyền sở hữu trí tuệ là tập hợp các quy phạm pháp luật được ban hành nhằm xác lập, ghi nhận, củng cố và bảo vệ các quan hệ sở hữu trí tuệ trong xã hội. Theo từ điển tiếng Việt năm 2008, khái niệm quyền sở hữu trí tuệ được hiểu là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ” [46, tr.1076]. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 quy định rằng quyền sở hữu trí tuệ là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.” (Điều 4, khoản 1 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005). Quyền sở hữu công nghiệp được hiểu (tại điều 4 khoản 4 Luật này) là quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.
Pháp luật nhiều nước không định nghĩa thế nào là quyền sở hữu trí tuệ mà chỉ liệt kê các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.. Ví dụ, Bộ luật Sở hữu trí tuệ năm 2003 của Pháp không nêu khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ mà chỉ liệt kê những đối tượng thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật này, đó là quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng mới tại điều L111-1, L412-1, L511-1, L611-2 [63]. Theo đó, quyền sở hữu công nghiệp gồm quyền đối với phát minh, sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp và bí quyết công nghệ.
Pháp luật của Hoa Kỳ cũng không có quy định khái niệm của quyền sở hữu trí tuệ mà chỉ quy định cụ thể về từng đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Bộ luật Hoa Kỳ năm 1996 (United States Code 1996) dành hẳn quyển 7, chương 58 để đưa ra những quy định về bảo hộ giống cây trồng; quyển 15, chương 22 về nhãn hiệu hàng hoá; toàn bộ quyển 17 về quyền tác giả; quyển 35 về bằng phát minh, kiểu dáng công nghiệp [74].
Pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của Nhật Bản thay vì nêu khái niệm quyền sở hữu trí tuệ, cũng chỉ liệt kê các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền đối với bằng phát minh (bao gồm cả bằng bảo hộ giống cây trồng mới), giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, quyền tác giả, bí quyết thương mại, hành vi chống cạnh tranh không lành mạnh [54, tr.2].
Có thể thấy pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của nhiều nước không chú trọng tới việc nêu khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ mà thường liệt kê các đối tượng của tài sản trí tuệ. Thực tiễn này ảnh hưởng tới nội dung của các điều ước quốc tế lớn trên thế giới về quyền sở hữu trí tuệ. Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của WTO (Hiệp định TRIPS) dành toàn bộ phần II để nêu ra các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, gồm quyền tác giả, quyền đối với nhãn hiệu hàng hoá, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, patent (bằng phát minh), giống cây trồng, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bảo hộ thông tin bí mật và khống chế các hoạt động chống cạnh tranh trong các hợp đồng li- xăng [25].
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) là tổ chức hoạt động trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ lớn nhất thế giới với 184 quốc gia thành viên tính đến hết tháng 4 năm 2008, cũng chỉ liệt kê đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ gồm quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp, trong đó quyền sở hữu công nghiệp là quyền đối với nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, bằng phát minh và chỉ dẫn địa lý [76]. Mặc dù vậy, tổ chức này đã cố gắng khái quát hoá cách hiểu về quyền sở hữu trí tuệ, theo đó quyền sở hữu trí tuệ được hiểu “là các quyền hợp pháp xuất phát từ hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật” [47, tr.3].
Từ phân tích nêu trên, có thể rút ra những nhận xét sau:
- Pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều nước không đưa ra một khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ mà chỉ liệt kê các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Nói cách khác, khái niệm về sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ là những vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa được giới luật gia các nước đầu tư nghiên cứu và xây dựng.
- Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, theo quy định của pháp luật các nước mặc dù có những điểm khác nhau nhưng về cơ bản đều có điểm chung là đều quy định về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
- Đối tượng được bảo hộ trong quyền sở hữu công nghiệp có thể được mở rộng hoặc thu hẹp tuỳ theo cách quy định của từng nước. Ví dụ như quyền sở hữu công nghiệp ở Hoa Kỳ và Nhật không bao gồm chỉ dẫn địa lý trong khi đây lại là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp theo Hiệp định TRIPS, WIPO, Việt Nam, v.v.
Trên cơ sở nhận xét ở trên, tác giả Luận án cố gắng phân tích để làm rõ hơn khái niệm về quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tài sản trí tuệ. Không phải mọi tài sản trí tuệ đều được nhà nước ghi nhận và bảo hộ. Pháp luật các nước đều liệt kê các tài sản trí tuệ mà các chủ thể có quyền sở hữu. Luận án chọn