Trong thời đại ngày nay, chiến lược phát triển nhanh và bền vững nhất đối với mỗi quốc gia, dân tộc, đó là sự chú trọng hàng đầu của Chính phủ về công tác đổi mới hệ thống GD-ĐT, tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nước. Việt Nam từ một nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chuyển đổi sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay với tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra nhanh, mạnh, có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trên toàn quốc, Đảng và Nhà nước ta hết sức chú trọng phát triển GD-ĐT, coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 khoá VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ghi rõ:“Giáo dục và Đào tạo hiện nay phải có một bước chuyển nhanh về chất lượng và hiệu quả đào tạo, về số lượng và quy mô đào tạo, nhất là chất lượng dạy học trong các nhà trường nhằm nhanh chóng đưa Giáo dục và Đào tạo đáp ứng yêu cầu mới của đất nước”.
Cùng với lịch sử phát triển của ngành giáo dục, việc nâng cao chất lượng dạy học luôn được coi là nhiệm vụ cơ bản, đầu tiên, quan trọng nhất của các nhà trường, đây chính là điều kiện để mô hình của các nhà trường tồn tại và phát triển. Thực chất công tác quản lý của nhà trường và quản lý hoat động dạy học là công việc được tiến hành thường xuyên, liên tục qua từng giờ dạy, qua mỗi học kỳ và từng năm học, đây là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường đáp ứng yêu cầu mục tiêu đào tạo.
Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới đất nước, đổi mới giáo dục chất lượng giáo dục ở cấp THCS và chất lượng giáo dục và đào tạo nói chung ở nước ta đã có sự khởi sắc, đã đạt được những thành tựu nhất định. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của học sinh, sinh viên và giáo viên được nâng cao, chất lượng giáo dục đại học từng bước được nâng lên, đào tạo được đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học kỹ thuật, đã có những cống hiến quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu trên, tuy nhiên hệ thống Giáo dục và Đào tạo nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH-HĐH. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc khoá VIII đã khẳng định:“Giáo dục nước ta vẫn còn nhiều yếu kém bất cập cả về quy mô lẫn cơ cấu và nhất là chất lượng ít hiệu quả, chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao về nhân lực và công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, xây dựng bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Để giải quyết mâu thuẫn trên đòi hỏi chúng ta phải thay đổi quan niệm, nhận thức về giáo dục, phải hướng tới chất lượng giáo dục, điều đó đồng nghĩa với việc phải chú trọng nâng cao trách nhiệm quản lý và tăng cường các biện pháp quản lý hoạt động dạy học.
Trong hệ thống giáo dục nước ta, cấp THCS là cấp học cơ bản, là giai đoạn trung gian giữa TH và THPT. Ở giai đoạn này, học sinh được cung cấp kiến thức cơ bản nhất, giáo dục và hình thành nhân cách, gắn với tâm sinh lý của lứa tuổi này cũng nhiều biến động. Như vậy, các hoạt động dạy học ở các trường THCS là vô cùng quan trọng, là cơ sở cho các cấp học, bậc học cao hơn.
Tam Đảo là một huyện miền núi thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, kinh tế phát triển chậm, trình độ dân trí thấp và không đồng đều, ngành giáo dục cũng còn nhiều khó khăn. Chất lượng dạy học ở các trường THCS tuy từng bước được nâng lên và đi vào ổn định, song còn chậm, thiếu vững chắc và chưa đồng đều ở các trường trong toàn huyện. Đặc biệt trong lĩnh vực quản lý giáo dục, quản lý hoạt động dạy học trong các nhà trường THCS đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần sớm được quan tâm nghiên cứu giải quyết. Thực tế đòi hỏi ngành giáo dục huyện Tam Đảo phải có những biện pháp quản lý hoạt động dạy học đồng bộ và mang tính khả thi.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tác giả chọn vấn đề “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường trung học cơ sở huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay’’ làm đề tài nghiên cứu; hy vọng sẽ góp phần vào việc quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THCS, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội.
109 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5084 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường trung học cơ sở huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, chiến lược phát triển nhanh và bền vững nhất đối với mỗi quốc gia, dân tộc, đó là sự chú trọng hàng đầu của Chính phủ về công tác đổi mới hệ thống GD-ĐT, tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển nguồn nhân lực, nhân tài cho đất nước. Việt Nam từ một nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chuyển đổi sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay với tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra nhanh, mạnh, có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn trên toàn quốc, Đảng và Nhà nước ta hết sức chú trọng phát triển GD-ĐT, coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 khoá VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ghi rõ:“Giáo dục và Đào tạo hiện nay phải có một bước chuyển nhanh về chất lượng và hiệu quả đào tạo, về số lượng và quy mô đào tạo, nhất là chất lượng dạy học trong các nhà trường nhằm nhanh chóng đưa Giáo dục và Đào tạo đáp ứng yêu cầu mới của đất nước”.
Cùng với lịch sử phát triển của ngành giáo dục, việc nâng cao chất lượng dạy học luôn được coi là nhiệm vụ cơ bản, đầu tiên, quan trọng nhất của các nhà trường, đây chính là điều kiện để mô hình của các nhà trường tồn tại và phát triển. Thực chất công tác quản lý của nhà trường và quản lý hoat động dạy học là công việc được tiến hành thường xuyên, liên tục qua từng giờ dạy, qua mỗi học kỳ và từng năm học, đây là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường đáp ứng yêu cầu mục tiêu đào tạo.
Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới đất nước, đổi mới giáo dục chất lượng giáo dục ở cấp THCS và chất lượng giáo dục và đào tạo nói chung ở nước ta đã có sự khởi sắc, đã đạt được những thành tựu nhất định. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của học sinh, sinh viên và giáo viên được nâng cao, chất lượng giáo dục đại học từng bước được nâng lên, đào tạo được đội ngũ đông đảo cán bộ khoa học kỹ thuật, đã có những cống hiến quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu trên, tuy nhiên hệ thống Giáo dục và Đào tạo nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH-HĐH. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc khoá VIII đã khẳng định:“Giáo dục nước ta vẫn còn nhiều yếu kém bất cập cả về quy mô lẫn cơ cấu và nhất là chất lượng ít hiệu quả, chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao về nhân lực và công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, xây dựng bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Để giải quyết mâu thuẫn trên đòi hỏi chúng ta phải thay đổi quan niệm, nhận thức về giáo dục, phải hướng tới chất lượng giáo dục, điều đó đồng nghĩa với việc phải chú trọng nâng cao trách nhiệm quản lý và tăng cường các biện pháp quản lý hoạt động dạy học.
Trong hệ thống giáo dục nước ta, cấp THCS là cấp học cơ bản, là giai đoạn trung gian giữa TH và THPT. Ở giai đoạn này, học sinh được cung cấp kiến thức cơ bản nhất, giáo dục và hình thành nhân cách, gắn với tâm sinh lý của lứa tuổi này cũng nhiều biến động. Như vậy, các hoạt động dạy học ở các trường THCS là vô cùng quan trọng, là cơ sở cho các cấp học, bậc học cao hơn.
Tam Đảo là một huyện miền núi thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, kinh tế phát triển chậm, trình độ dân trí thấp và không đồng đều, ngành giáo dục cũng còn nhiều khó khăn. Chất lượng dạy học ở các trường THCS tuy từng bước được nâng lên và đi vào ổn định, song còn chậm, thiếu vững chắc và chưa đồng đều ở các trường trong toàn huyện. Đặc biệt trong lĩnh vực quản lý giáo dục, quản lý hoạt động dạy học trong các nhà trường THCS đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần sớm được quan tâm nghiên cứu giải quyết. Thực tế đòi hỏi ngành giáo dục huyện Tam Đảo phải có những biện pháp quản lý hoạt động dạy học đồng bộ và mang tính khả thi.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tác giả chọn vấn đề “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường trung học cơ sở huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay’’ làm đề tài nghiên cứu; hy vọng sẽ góp phần vào việc quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THCS, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác quản lý hoạt động dạy học ở các trường THCS nói chung, thực trạng quản lý hoạt động dạy học ở trường THCS huyện Tam Đảo nói riêng, đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động dạy học nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học ở các trường THCS huyện Tam Đảo, góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
3.1. Hệ thống hoá cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học ở các trường trung học cơ sở
3.2. Điều tra, khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng quản lý hoạt động dạy học ở các trường trung học cơ sở huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc
3.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học ở các trường trung học cơ sở huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động dạy học ở các trường trung học cơ sở.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường THCS huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý hoạt động dạy học ở các trường THCS có ý nghĩa quyết định đến chất lượng giáo dục.
Áp dụng một cách đồng bộ, linh hoạt, sáng tạo các biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường THCS trên địa bàn huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc được đề xuất trong luận văn sẽ đáp ứng tốt yêu cầu phát triển giáo dục THCS trong giai đoạn hiện nay.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động dạy học của HT các trường THCS của huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đề tài tập trung khảo sát công tác quản lý hoạt động dạy học ở các trường THCS thuộc huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc trong 5 năm trở lại đây.
- Các biện pháp được xác định theo hướng Đề án phát triển GD-ĐT của huyện Tam Đảo từ năm 2005 đến năm 2015.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên các phương pháp sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các văn kiện, Nghị quyết của Đảng, các văn bản quy định của nhà nước và của ngành giáo dục và đào tạo; các tài liệu lý luận về quản lý, quản lý giáo dục và các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương phát quan sát.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
- Phương pháp thống kê toán học.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lí hoạt động dạy học ở trường trung học cơ sở
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học ở các trường trung học cơ sở huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường trung học cơ sở huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Quản lý giáo dục và quản lý nhà trường
1.1.1.1. Khái niệm quản lý
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng thuật ngữ quản lí được định nghĩa là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan” [34].
Quản lý là một chức năng lao động- xã hội bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao động.
Ngay từ khi con người bắt đầu hình thành nhóm, đã biết phối hợp các nỗ lực cá nhân để thực hiện mục tiêu duy trì sự sống. Từ khi xuất hiện nền sản xuất xã hội, nhu cầu phối hợp các hoạt động riêng lẻ càng tăng lên. Bất cứ một tổ chức, một lĩnh vực nào, từ sự hoạt động của nền kinh tế quốc dân, của một doanh nghiệp, một đơn vị hành chính sự nghiệp… đến một tập thể nhỏ như tổ chuyên môn, tổ sản xuất, bao giờ cũng có hai phân hệ: Người QL và đối tượng QL. Sự cần thiết của QL trong một tập thể lao động được K.Marx viết: “Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung, phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ sở sản xuất khác với sự vận động của những cơ quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm riêng lẻ tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng” [22,Tr.34] Như vậy, K.Marx đã lột tả được bản chất của QL là một hoạt động lao động để điều khiển lao động, một hoạt động tất yếu vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển loài người. QL trở thành một hoạt động phổ biến, diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và có liên quan đến mọi người. Đó là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên sự phân công hợp tác để làm một công việc nhằm đạt một mục tiêu chung.
QL là một khái niệm rộng bao gồm nhiều lĩnh vực, vì vậy có nhiều định nghĩa khác nhau về khoa học QL, tùy thuộc theo quan điểm tiếp cận khác nhau mà các tác giả đưa ra các định nghĩa khác nhau.
Theo điều khiển học: QL là quá trình điều khiển của chủ thể QL đối với đối tượng QL để đạt được mục tiêu đã định.
Theo quan điểm của kinh tế học: QL là sự tính toán, sử dụng hợp lý các nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Theo GS Hà Sĩ Hồ: QL là một quản trình tác động có định hướng, có chủ đích, tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể có dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu đã định [20].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: QL là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể QL đến tập thể của người lao động nói chung (khách thể QL) nhằm thực hiện mục tiêu dự kiến [18].
Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo: “QL là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể QL đến khách thể QL trong một tổ chức, làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục tiêu của tổ chức” [6].
Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “QL là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu; QL là một hệ thống là quá trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người QL mong muốn” [30].
Theo tác giả Nguyễn Văn Lê: “QL là một hệ thống xã hội, là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống đó mà chủ yếu là vào con người nhằm đạt hiệu quả tối ưu theo mục tiêu đề ra” [27].
Theo TS.Nguyễn Quốc Chí và PGS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì: “Quản lí là hoạt động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lí (người quản lí) đến khách thể quản lí (người bị quản lí) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [2].
1.1.1.2. Khái niệm quản lý giáo dục
* Khái niệm về giáo dục
Để tồn tại và phát triển, con người phải trải qua quá trình lao động, học tập, con người nhận thức thế giới xung quanh, dần dần tích lũy được kinh nghiệm, từ đó nảy sinh nhu cầu truyền đạt những hiểu biết ấy cho nhau qua nhiều thế hệ dần trở thành giá trị văn hóa. Đó chính là nguồn gốc phát sinh của hiện tượng giáo dục.
Giáo dục lúc đầu xuất hiện như một hiện tượng tự phát, sau dần trở thành một hoạt động có ý thức. Ngày nay giáo dục đã trở thành một hoạt động được tổ chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao, có chương trình, kế hoạch, có nội dung, phương pháp hiện đại và trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã hội loài người.
Như vậy, giáo dục là một hiện tượng xã hội loài người, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội khinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người. Nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hóa dân tộc, nhân loại được bảo tồn, kế thừa và bổ sung ngày càng hoàn thiện hơn và trên cơ sở đó, xã hội loài người không ngừng phát triển tiến lên.
* Khái niệm QL giáo dục
QL giáo dục là sự tác động có thức của chủ thể QL đến khách thể QL nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn. QL giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
Trong các nước tư bản chủ nghĩa, người ta vận dụng lý luận QL giáo dục bắt nguồn từ lý luận QL xã hội được chia thành 3 lĩnh vực: “ Chính trị - Xã hội”; “Văn hóa -Tư tưởng”; “Kinh tế”. Từ đó có 3 loại QL: “QL chính trị - Xã hội”; “QL văn hóa -Tư tưởng”; “QL kinh tế”. QL giáo dục nằm trong “QL văn hóa -Tư tưởng” [9;Tr97]. Trong cuốn “Cơ sở lý luận của khoa học QL giáo dục” của M.I.Kondacov có viết: “Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh thì chúng ta không hiểu QL nhà trường là hệ thống xã hội chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có khoa học và có hướng của chủ thể QL trên cơ sở các mặt của đời sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu của xã hội- kinh tế và tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên” [25].
Theo GS Phạm Minh Hạc: QL giáo dục là tổ chức các hoạt động dạy học. Có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện được tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới QL được giáo dục, tức là cụ thể hóa được đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân, của dân tộc [18].
Theo GS Nguyễn Ngọc Quang: “QL giáo dục là hệ thống các tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể QL nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học -giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [32].
Khái quát lại, nội hàm của khái niệm QL giáo dục chứa đựng những nhân tố đặc trưng bản chất sau: Phải có chủ thể QL giáo dục. Ở tầm vĩ mô là QL nhà nước mà cơ quan trực tiếp QL là Bộ GD-ĐT, Sở GD-ĐT, Phòng GD-ĐT; Ở tầm vi mô là QL của HT, phó HT của các trường phổ thông. Phải có hệ thống tác động QL theo nội dung, chương trình kế hoạch thống nhất từ TW đến địa phương nhằm thực hiện mục đích giáo dục trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Phải có một lực lượng đông đảo những người làm công tác giáo dục cùng với hệ thống cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật tương ứng. QL giáo dục có tính xã hội cao, bởi vậy cần tập trung giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, an ninh quốc phòng phục vụ tốt công tác giáo dục.
Nhà trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất của QL giáo dục, trong đó đội ngũ GV và HS là đối tượng QL quan trọng nhất, đồng thời là chủ thể trực tiếp QL quá trình giáo dục.
Tóm lại: QL giáo dục là quá trình tác động có định hướng của nhà QL giáo dục trong việc vận hành nguyên lý, phương pháp chung nhất của kế hoạch nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.
1.1.1.3. Khái niệm quản lý nhà trường
Trường học là một tổ chức, ở đó tiến hành quá trình dạy học. Hoạt động đặc trưng của trường học là hoạt động dạy học, đó là hoạt động có tổ chức, có nội dung, có phương pháp và phương tiện, có mục đích, có sự lãnh đạo của nhà GD, có sự hoạt động tích cực, tự giác của người học.
Nội hàm của khái niệm quản lý nhà trường được nhiều tác giả trong và ngoài nước diễn tả theo nhiều góc độ khác nhau.
Theo M.I.Kondacov: “Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh, chúng ta hiểu QL nhà trường (công việc nhà trường là một hệ thống xã hội- sư phạm chuyên biệt). Hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể QL đến tất cả các mặt của đời sống nhà trường, nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về các mặt xã hội- kinh tế, tổ chức- sư phạm của quá trình dạy- học và GD thế hệ đang lớn lên” [25].
QL nhà trường là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể QL đến tập thể GV, HS và cán bộ khác, nhằm tận dụng những nguồn dự trữ do nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và do lao động xã hội xây dựng vốn tự có hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường nhằm đào tạo thành công thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới. Như vậy QL nhà trường chính là QL giáo dục trong một phạm vi xác định, đó là đơn vị giáo dục, là nhà trường. Do đó, QL nhà trường là vận dụng tất cả các nguyên lý chung của QL giáo dục để đẩy mạnh nhà trường hoạt động theo mục tiêu đào tạo.
Nhà trường là một thiết chế xã hội thể hiện chức năng tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự duy trì và phát triển của xã hội. Thiết chế chuyên biệt này hoạt động trong tính quy định của xã hội và theo những dấu hiệu phân biệt tính mục đích tập trung hay tính hẹp được “chiết xuất”; Tính tổ chức và kế hoạch hóa cao; tính hiệu quả giáo dục cao nhờ quá trình truyền thụ có ý thức tổ chức; tính chuyên biệt tương đối hay tính lý tưởng hóa các giá trị xã hội; tính chuyên biệt cho từng đối tượng hay tính chất phân biệt đối xử theo sự phát triển tâm lý và thể chất.
Thực chất QL giáo dục là tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của nhà trường được vận hành theo đúng mục tiêu. Trường học là hoạt động của nhà trường được vận hành theo đúng mục tiêu. Trường học là những tế bào quan trọng trong hệ thống giáo dục. Những tế bào đó có hoạt động tốt, hiệu quả, đúng mục tiêu thì hệ thống giáo dục mới thực hiện được những mục tiêu xã hội giao phó, vì vậy để nhà trường vận hành và phát triển thì cần nhất thiết phải có QL. QL nhà trường có thể xem như một bộ phận của QL giáo dục nói chung.
QL nhà trường là tổ chức hoạt động dạy học, thực hiện các tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam XHCN, mới QL được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong từng giai đoạn mới.
Theo GS Phạm Minh Hạc: “QL nhà trường là thực hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng HS” [18].
Như vậy, QL nhà trường chính là QL giáo dục nhưng trong một phạm vi xác đinh của một đơn vị giáo dục nền tảng, đó là nhà trường. QL nhà trường về cơ bản khác với QL các lĩnh vực khác. Ở đây những tác động của chủ thể QL là những tác động của công tác tổ chức sư phạm đến đối tượng QL nhằm giải quyết nhiệm vụ giáo dục của nhà trường. Đó là hệ thống tác động có phương hướng, có mục đích, có mối quan hệ qua lại lẫn nhau.
QL nhà trường là một hoạt động được thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của QL nói chung, đồng thời nó có những nét đặc thù riêng. QL nhà trường khác với các QL xã hội khác, được quy định bởi bản chất lao động sư phạm của người GV, bản chất của quá trình dạy học, giáo dục. Trong đó mọi thành viên của nhà trường vừa là đối tượng QL, vừa là chủ thể tự hoạt động của bản thân mình. Sản phẩm tạo nên của nhà trường là nhân cách của người HS được hình thành trong quá trình học tập, tu dưỡng rèn luyện và phát triển theo yêu cầu của xã hội và được xã hội thừa nhận.
QL nhà trường phải vận vận dụng tất cả các nguyên lý chung của QLGD để đẩy mạnh hoạt động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo. QL nhà trường là phải QL toàn diện nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách của thế hệ trẻ một cách hợp lý, khoa học và hiệu quả, do vậy muốn thực hiện có hiệu quả công tác QL giáo dục phải xem xét đến những điều kiện đặc thù của mỗi nhà trường, phải chú trọng thực hiện việc cải tiến công tác QLGD đối với nhà trường, nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân.
Tóm lại, QL nhà trường là một bộ phận của QLGD. QL nhà trường là một hệ thống những tác động sư phạm khoa học và có tính định hướng của chủ thể QL đến tập thể GV, HS và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm làm cho nhà trường vận hành theo đúng đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng. Người QL nhà trường phải làm sao cho hệ thống các thành tố vận hành chặt chẽ với nhau, đưa đến kết quả mong muốn.
1.1.2. Hoạt động dạy học
Dạy học là một quá trình sư phạm, với nội dung khoa học, được thực hiện theo một phương pháp sư phạm đặc biệt do nhà trường tổ chức, GV thực hiện nhằm giúp HS nắm vững hệ thống kiến thức khoa học và hình thành hệ thống kiến th