Một nhà nước dù tồn tại trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử đều luôn cố
gắng hoàn thành được sứ mạng lịch sử của nó.Nhà nước ta cũng như vậy, và để
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao thì nhà nước cần có những công cụ riêng
của mình.Một trong những công cụ đắc lực giúp Nhà nước đó chính là ngân sách
Nhà nước.Trong những năm qua thì vai trò của ngân sách Nhà nước đã được thể
hiện rõ trong việc giúp Nhà nước hình thành các quan hệ thị trường góp phần kiểm
soát lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp để từ đó làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc
gia, đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế.Tuy nhiên bên cạnh những
mặt tích cực đó thì việc sử dụng ngân sách Nhà nước chưa đúng cách, đúng lúc, tình
trạng bao cấp tràn lan, sự yếu kém trong việc quản lí thu chi ngân sách đã đặt ra cho
chúng ta cần có cái nhìn sâu hơn về tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước.ảnh
hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước đến các hoạt động kinh tế-xã hội là hết sức
rộng lớn.
Vậy thế nào là bội chi ngân sách Nhà nước? có những nhân tố nào ảnh
hưởng đến bội chi? thực trạng và các biện pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước ở
nước ta hiện nay như thế nào?.Trong thời gian tới để đạt được mục tiêu phát triển
kinh tế cao và ổn định thì liệu nước ta có chấp nhận một mức bội chi ở mức cao hay
không? Tất cả những vấn đề nói trên đã và đang đặt ra nhiều đòi hỏi đối với các nhà
nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách để có thể tìm ra những nguyên nhân và
các biện pháp xử lí tình hình bội chi ngân sách Nhà nước.Trong phạm vi của một đề
án môn học với đề tài "Bội chi ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay thực
trạng và giải pháp" em xin đề cập đến một số mục tiêu như sau: khái quát hoá
những vấn đề cơ bản về bội chi ngân sách Nhà nước, chỉ ra những bất cập về cân
đối và bội chi ngân sách Nhà nước ở nước ta hiện nay và đề xuất những kiến nghị
giải pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước.Dựa trên cơ sở đó kết cấu của đề án bao
gồm có 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lí luận về bội chi ngân sách Nhà nước
Chương 2: Thực trạng bội chi ngân sách Nhà nước
Chương 3: Các biện pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước
29 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2450 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bội chi ngân sách Nhà nước tại Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Bội chi ngân sách Nhà nước ở
Việt Nam hiện nay thực trạng
và giải pháp
MỞ ĐẦU
Một nhà nước dù tồn tại trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử đều luôn cố
gắng hoàn thành được sứ mạng lịch sử của nó.Nhà nước ta cũng như vậy, và để
hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao thì nhà nước cần có những công cụ riêng
của mình.Một trong những công cụ đắc lực giúp Nhà nước đó chính là ngân sách
Nhà nước.Trong những năm qua thì vai trò của ngân sách Nhà nước đã được thể
hiện rõ trong việc giúp Nhà nước hình thành các quan hệ thị trường góp phần kiểm
soát lạm phát, tỷ lệ lãi suất thích hợp để từ đó làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc
gia, đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế.Tuy nhiên bên cạnh những
mặt tích cực đó thì việc sử dụng ngân sách Nhà nước chưa đúng cách, đúng lúc, tình
trạng bao cấp tràn lan, sự yếu kém trong việc quản lí thu chi ngân sách đã đặt ra cho
chúng ta cần có cái nhìn sâu hơn về tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước.ảnh
hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước đến các hoạt động kinh tế-xã hội là hết sức
rộng lớn.
Vậy thế nào là bội chi ngân sách Nhà nước? có những nhân tố nào ảnh
hưởng đến bội chi? thực trạng và các biện pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước ở
nước ta hiện nay như thế nào?.Trong thời gian tới để đạt được mục tiêu phát triển
kinh tế cao và ổn định thì liệu nước ta có chấp nhận một mức bội chi ở mức cao hay
không? Tất cả những vấn đề nói trên đã và đang đặt ra nhiều đòi hỏi đối với các nhà
nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách để có thể tìm ra những nguyên nhân và
các biện pháp xử lí tình hình bội chi ngân sách Nhà nước.Trong phạm vi của một đề
án môn học với đề tài "Bội chi ngân sách Nhà nước ở Việt Nam hiện nay thực
trạng và giải pháp" em xin đề cập đến một số mục tiêu như sau: khái quát hoá
những vấn đề cơ bản về bội chi ngân sách Nhà nước, chỉ ra những bất cập về cân
đối và bội chi ngân sách Nhà nước ở nước ta hiện nay và đề xuất những kiến nghị
giải pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước.Dựa trên cơ sở đó kết cấu của đề án bao
gồm có 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lí luận về bội chi ngân sách Nhà nước
Chương 2: Thực trạng bội chi ngân sách Nhà nước
Chương 3: Các biện pháp xử lí bội chi ngân sách Nhà nước
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1: Quan điểm về bội chi ngân sách Nhà nước
Bội chi và thâm hụt là hai cách gọi khác nhau của cùng một hiện tượng khi
tổng nguồn thu không đủ trang trải tổng các nhiệm chi của một Chính phủ, một địa
phương, một đơn vị trong một thời kì nhất định(thường là một năm).Khi nói đến bội
chi ngân sách Nhà nước tức là các khoản chênh lệch thiếu giữa tổng các nguồn thu
so với tổng các khoản chi của ngân sách Nhà nước trong một năm.Tuy nhiên vấn đề
quy định các khoản thu, chi ngân sách Nhà nước để xác định bội chi ở mỗi quốc gia
thường không hoàn toàn giống nhau.
Cách tính chi ở Việt Nam bao gồm cả chi nợ gốc và lãi, không bao gồm các
khoản vay về cho vay lại.Còn theo thông lệ quốc tế thì chi chỉ bao gồm các khoản
trả nợ lãi chứ không bao gồm trả nợ gốc.Do đó điều quan trọng trong quản lí bội chi
không phải là sự tính toán đơn thuần là lấy tổng thu trừ đi tổng chi mà phải xác định
hợp lí và quy định hợp pháp những khoản tiền nào được tính vào tổng thu, những
khoản nào được tính vào tổng chi của ngân sách Nhà nước trong từng năm.
1.2: Những nhân tố ảnh hưởng đến bội chi ngân sách Nhà nước
Trong lịch sử phát triển nền tài chính thì bội chi ngân sách đã và đang trở
thành một hiện tượng khá phổ biến ở các nước đang phát triển và các nước chậm
phát triển.nếu như chúng ta không tìm ra được những nguyên nhân chính xác gây ra
hiện tượng trên thì khó có thể có được những biện pháp hữu hiệu để mà kịp thời dự
báo và hạn chế tác động của nó tới nền kinh tế.Người ta đã tổng hợp lại và đưa ra
năm nhóm nguyên chính gây ra hiện tượng bội chi ngân sách Nhà nước.
1.2.1: Bản chất, chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Nhà nước
Ngay từ khi ra đời thì Nhà nước đã mang trong mình những trọng trách nhất
định.Mỗi một Nhà nước có thể chế, đường lối, chính sách khác nhau nhằm phục vụ
cho những đối tượng khác nhau.Nhưng mục tiêu quan trọng của Nhà nước là làm
cho kinh tế của đất nước ngày càng phát triển, nâng cao vị thế của đất nước mình
trên trường quốc tế.Để thực hiện được điều đó thì Nhà nước đã đề ra hàng loạt
những biện pháp, chính sách quan trọng.Đất nước tiến hành công cuộc cải cách kinh
tế từ một nước lạc hậu với một xuất phát điểm rất thấp, nền kinh tế còn mang nặng
tính bao cấp, trì trệ, người dân chủ yếu sống bằng nghề nông, thu nhập còn rất
thấp.Bên cạnh đó cỏ sở vật chất, trình độ khoa học kĩ thuật, công nghệ của ta còn rất
lạc hậu so với thế giới.Chính vì lẽ đó mà Nhà nước ta đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế-xã hội.Nhưng quá trình đó không
phảihoàn thành trong thời gian ngắn mà nó đòi hỏi chúng ta cần có lượng vốn rất
lớn, đây là một trong những điêu kiện tiên quyết và rất quan trọng mà chúng ta cần
phải có để hoàn thành những mục tiêu đã đề ra.Trong quá trình tiến hành việc thu
hút nguồn vốn trong và ngoài nước chúng ta đã đạt được một số thành tựu quan
trọng.Ngân sách Nhà nước không ngừng được mở rộng cả về chất lượng và số
lượng góp phần quan trọng để chúng ta tiến hành xây dựng và phát triển đất
nước.Tuy nhiên bên cạnh những mặt đã đạt được thì chúng ta cũng mắc phải không
ít sai lầm trong quản lí thu chi ngân sách gây ra tình trạng thâm hụt ngân sách khá
nghiêm trọng trong những năm qua.Việc bao cấp tràn lan, đầu tư dàn trải không có
hiệu qu ả, thêm vào đó là năng lực quản lí quản lí ngân sách còn nhiều bất cập, chưa
thực sự minh bạch và khoa học là những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng thu
không đủ chi, rất nhiều công trình xậy dựng xong không thể sử dụng được gây lãng
phí rat nhiều tiền của Nhà nước và nhân dân.Chính vì vậy mà đòi hỏi Nhà nước ta
cần phải có những biện pháp thực sự hiệu quả trong quản lí thu chi ngân sách để từ
đó hạn chế rồi dần dần tiến tới xoá bỏ tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước.
1.2.2: Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội
Mục tiêu chủ yếu trong đường lối phát triển kinh tế ở nước ta là làm cho dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.Và để đạt được mục tiêu tốt
đẹp ấy thì Nhà nước ta đã thực thi rất nhiều biện pháp quan trọng.Một trong những
chính sách ấy là tiến hành xây dựng rất nhiều công trình công cộng phục vụ nhu cầu
đời sống của nhân dân nh ư: điện, đường, trường, trạm… đây là những công trình
hết sức thiết thực và cần thiết nhưng để xây dựng được thì chúng ta cần phải có một
lượng vốn lớn.Trong những năm đầu của quá trình cải cách mở cửa thì việc huy
động vốn của nước ta gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại, chính vì lẽ đó mà ta luôn
lâm vào tình trạng thu không đủ chi.Ngân sách Nhà nước bị thiếu hụt thường xuyên,
điều này về lâu về dài sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến nên kinh tế đất
nước.Nếu như chúng ta có những biện pháp thu hút thêm nhiều nguồn vốn hơn nữa
cả ở trong và ngoài nước, tiến hành việc xây dựng một cách có trọng điểm, chật
lượng, tiết kiệm, hiệu quả đồng thời quản lí nguồn ngân quỹ một cách chặt chẽ,
khoa học.điều đó sẽ tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, mở rộng khả năng
thu, chi cho ngân sách, giảm thiểu một cách tối đa tình trạng thâm hụt ngân sách.
1.2.3: Mục tiêu, quan điểm chiến lược tài chính tiền tệ
Có thể nói chính sách tài chính quốc gia là một trong những chính sách quan
trọng nhất có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định, phát triển của nền kinh tế đất
nước nói chung và bội chi ngân sách Nhà nước nói riêng. Bằng việc cải tổ cơ bản
chính sách tài chính, cơ cấu thu chi ngân sách, chính sách thuế để tiến tới kiểmsoát
lạm phát, ổn định giá cả, sức mua của đồng tiền, ổn định tình hình kinh tế xã
hội.Ngoài ra chính sách tài chính còn góp phần tạo thêm nhiều công ăn việc làm
cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất của nhân dân.Tuy nhiên trong bối
cảnh nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, nguồn tài chính còn hạn hẹp do đó mà
chúng ta cần phải thận trong việc lựa chọn các hình thức tài chính thích hợp, quản lí
chặt chẽ nguồn tài chính quý giá, kiên quyết chống mọi chủ trương bảo thủ trì trệ,
vô chính phủ, buông trôi quản lí tài chính, gây thất thoát tiền của đất nước.
Trên cơ sở những mục tiêu đó thì chúng ta cần phải xây dựng chính sách tài
chính dựa trên những quan điểm sau:
+Tập trung chuyển hướng tư nền tài chính”động viên, tập trung”sang nền tài
chính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính của các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế.
+Thực hiện cơ chế tài chính lành mạnh, không đơn thuần coi cân bằng ngân
sách là mục tiêu của chính sách tài chính.Một ngân sách thiếu hụt hay dư thừa
không phải là kém quan trọng so với một ngân sách cân bằng và đều là những công
cụ tài chính thích ứng với từng hoàn cảnh cụ thể mà Nhà nước có thể sử dụng để tác
động đến quy mô và phương pháp phát triển kinh tế-xã hội (kích thích hay hạn chế
tăng trưởng…)Chẳng hạn như việc duy trì một ngân sách thiếu hụt”vừa phải”có thể
là nguy cơ lạm phát, nhưng lại tạo điều kiện tăng tích tụ cho các cơ sơ kinh tế, tăng
cầu cho người tiêu dùng trên cơ sở đó kích thích đầu tư phát triển, tạo công ăn việc
làm, mở rộng thị trường tiêu thụ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
+Để phân phối và sử dụng các nguồn tài chính có hiệu quả thì chính sách tài
chính cần xác định rõ các mục tiêu ưu tiên phát triển, đảm bảo khả năng trả nợ, thu
hút thêm vốn mới hơn nữa.
+Việc xây dựng và thực hiện chính sách tài chính cần đứng trên quan điểm
hệ thống, đặt trong mối quan hệ và đổi mới các chính sách, công cụ khác nh ư:
chính sách ngoại hối, chính sách lãi suất…nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, tránh tình
trạng chồng chéo, triệt tiêu lẫn nhau.
+Qúa trình xây dựng và phát triển chính sách tài chính ở nước ta còn đang
trong tình trạng thiếu kiến thức đầy đủ và kinh nghiệm quản lí tài chính còn yếu.Do
đó chúng ta cần phải ra sức học tập, đúc rút kinh nghiệm của những nước khác và
cả trong quá trình tiến hành thực hiện.Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tài chính,
đảm bảo cân đôi giữa thu và chi, tiến tới một nền tài chính vững mạnh.
1.2.4: Xu hướng diễn biến tình hình kinh tế
Tình hình kinh tế cũng có những ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đến quá trinh
thu chi ngân sách Nhà nước.Nền kinh tế nước ta trong nhưng năm qua đã và đang
có nhưng chuyển biến hết sức to lớn và tích cực.Kinh tế tăng trưởng hàng năm
thuộc vào hàng cao trên thế giới, thu ngân sách đạt khá, chúng ta đã thu hút được
khá lớn nguồn vốn trong dân chúng thông qua việc thu thuế, phát hành trái phiếu
chính phủ, công trái xây dựng tổ quốc…đồng thời một lượng vốn đầu tư nước ngoài
đang ngày tăng trong những năm gần đây, bên cạnh đó thì ta cũng đã tranh thủ được
những sự trợ giúp quý báu của các tổ chức tài chính quốc tế thông qua viện trợ
ODA.chính những yếu tố đó đã góp một phần đáng kể trong việc cân đối cán cân
thu chi ngân sách Nhà nước, giảm thiểu tình trạng thâm hụt ngân sách.
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra quá trình hội nhập kinh tế hết sức nhanh
chóng, quá trình toàn cầu hoá đang phát triển mạnh mẽ, khoa học công nghệ, các kỹ
thuật hiện đại không ngừng được phát minh sáng chế, sự hợp tác cũng như sự cạnh
tranh đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, điều đó đòi hỏi chúng ta cần phải có những
chính sách tranh thủ được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, thu hút thêm nữa những
nguồn vốn đầu t ư, viện trợ từ nước ngoài để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất
nước, đồng thời bên cạnh đó thì chúng ta cũng cần phải phát huy nội lực của bản
thân mình, không để đối tác họ có cơ hội chèn ép, gây khó khăn cho ta.Có như vậy
thì chúng ta mới có thể làm chủ được nguồn tài chính cuả mình, phát huy hiệu quả
tối đa của hệ thống tài chính nước nhà.
1.2.5: Những nhân tố kĩ thuật, chuyên môn ảnh hưởng đến cách xác định
mức bội chi ngân sách Nhà nước
Những tác động của bội chi ngân sách đến nền kinh tế là rất to lớn, nhưng để
xác định được một mức bội chi chính xác không phải là một điều dễ dàng.Sau khi
tham khảo các tiêu thức quốc tế, căn cứ vào quan hệ biện chứng giữa thâm hụt ngân
sách Nhà nước vợi nợ Nhà nước và quan niệm về ổn định tỷ suất nợ đề tài đã đưa ra
một số nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến cách xác định bội chi ngân sách Nhà
nước.
+Ta thấy là khi lãi suất càng cao và tăng trưởng càng thấp thì làm cho mức
chênh lệch giữa lãi suất và tăng trưởng càng cao, hoặc khi tổng dư nợ càng nhiều thì
giá trị của thâm hụt ngân sách bậc một càng nhỏ dần lại thậm chí phải có thặng dư
và số thặng dư này phải cao dần mới đảm bảo duy trì được sự ổn định của tỷ suất nợ
trên GDP.
+Trong điều kiện có lạm phát thì nhìn chung lạm phát càng cao thì gánh
nặng nợ càng nhẹ.Tuy nhiên cái giá của việc sử dụng lạm phát không phải là
nhỏ.Bởi vì khi mà nền kinh tế có một mức lạm phát cao trong nhiều năm thì sẽ dẫn
đến tăng lãi suất từ đó sẽ gây ra tình trạng suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia
tăng.Theo thời gian thì lạm phát sẽ làm tăng những khoản nợ nước ngoài, suy giảm
sức cạnh tranh quốc tế của những hàng hoá sản xuất trong nước, gây ra sự dịch
chuyển thu nhập từ người cho vay sang người đi vay một cách không bình thường
và sẽ làm giảm lòng tin của người dân vào chính phủ.
Như vậy dù muốn hay không muốn thì những nhân tố ảnh hưởng đến cách
xác định bội chi ngân sách vẫn luôn tồn tại và gây ra những tác hại không nhỏ,
chúng ta cần phải có những biện pháp làm hạn chế một cách tối đa những tác hại mà
chúng gây ra.
1.3: Ảnh hưởng của bội chi ngân sách Nhà nước
Tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước có những ảnh hưởng hết sức rộng lớn
trên tất cả các lĩnh vực, các hoạt đông kinh tế xã hội.Thâm hụt ngân sách Nhà nước
với một mức cao và triền miên sẽ làm cho Nhà nước phải tìm cách tăng các khoản
thu, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân, hơn nữa khi đó các
nguồn vốn trong các ngân hàng sẽ trở nên khan hiếm hơn điều đó sẽ dẫn đến tình
trạng lãi suất tăng cao, điều này gây ra những trở ngại trong việc vay vốn của các
nhà đầu tư.Về lâu về dài thì sẽ dẫn đến tình trạng đầu tư sẽ giảm sút nghiêm trọng,
sẽ có nhiều doanh nghiệp bị phá sản do không tìm được những khoản vay thích hợp,
sản xuất trong nước bị thu nhỏ lại từ đó sẽ toạ điều kiện thúc đẩy quá trình nhập
siêu, cán cân thương mại quốc tế mất cân bằng.Những điều này dẫn đến tình trạng
thất nghiệp ngày càng gia tăng, thu nhập thực tế của người dân giảm sút và ngày
càng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Mặt khác khi xảy ra tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước cũng là nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến lạm phát cao.Bởi lẽ khi có thâm hụt ngân sách thì một biện
pháp mà chính phủ hay dùng là phát hành tiền để bù đắp ngân sách, mà khi tiền
được tạo ra một cách quá mức như thế thì sẽ dẫn đến lạm phát tăng cao, mà nếu như
Chính phủ phát hành tráI phiếu ra công chúng để thu hút vốn, bù đắp cho phần thiếu
hụt thì trong một thời gian dài sẽ làm cho cầu về vốn tăng, do đó lãi suất tăng và
cung tiền tệ sẽ tăng.
Hơn nữa khi mà hiện nay nước ta đang trong quá trình xây dựng và phát
triển, rất cần sự ủng hộ, giúp đỡ của người dân trong nước cũng như bạn bè thế
giới.Nếu như mà chúng ta không biết cách quản lí nguồn vốn, nền tài chính cũng
như ngân sách quốc gia cho tốt thì dần dần sẽ gây mất lòng tin của người dân cũng
như của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.Họ đầu tư càng ngày càng ít hơn, dẫn
đến nước ta đã thiếu vốn để xây dựng đất nước nay lại càng thiếu hơn, những mục
tiêu tốt đẹp mà chúng ta đã đề ra sẽ khó mà có thể trở thành hiện thực được.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
2.1: Thực trạng bội chi ngân sách Nhà nước
2.1.1: Tình hình bội chi ngân sách Nhà nước
Trong 20 năm đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới cho đến nay thì năm
1993 là năm ngân sách Việt Nam có mức bội chi cao nhất, lên tới 6,5%GDP.Lý do
chủ yếu là Nhà nước tập trung xây dựng đường dây tải điện 500KV bắc -
nam.Những năm sau đó thì bội chi được kiềm chế ở mức thấp dưới 5%GDP.Bình
quân trong giai đoạn này bội chi ngân sách Nhà nước đạt khoảng 4% GDP, đồng
thời số thu từ thuế, phí, lệ phí dành cho chi đầu tư phát triển ngày càng tăng, cụ thể
năm 1991 là 0,2% đến năm 2000 đã là 1,8% và trong những năm gần đây là xấp xỉ
3& GDP.Tư năm 1993 Nhà nước ta đã chủ trương chấm dứt việc phát hành tiền để
bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước.
Trong những năm qua thì tình hình ngân sách Nhà nước ta đã có những
bước cải tiến và đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ.Thu ngân sách đã có sự
tăng trưởng nhanh, cơ cấu thu chuyển hướng tích cực, nền tài chính ngày càng đi
vào thế tự chủ.Thu ngân sách đã tăng từ13,1&GDP năm 1991 và càng ngày càng
tăng trong những năm tiếp theo, đến nay nguồn thu trong nước ngày cang chiếm
một tỷ lệ cao trong tổng thu ngân sách cụ thể là chiếm khoảng 97% tổng thu, điều
đó không những đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên mà còn giành ra một
khoản ngày càng tăng giành cho đầu tư phát triển và chi trả nợ.Thuế đã thực sự trở
thành nguồn thu chủ yếu trong nước chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách Nhà
nước.Về chi ngân sách đã từng bước được cơ cấu theo hướng xoá bỏ bao cấp, thực
hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng chi đầu tư xã hội cơ sở hạ tầng phát
triển nguồn nhân lực xoá đói giảm nghèo.Chú trọng chi trả nợ theo đúng cam kết,
năng cao năng lực đảm bảo chi ngân sách ngày càng tiết kiệm và có hiệu quả
hơn.Điều hành ngân sách Nhà nước từng bước chủ động và linh hoạt hơn, dự trữ dự
phòng của ngân sách đã góp phần tích cực vào việc ổn định quá trình sản xuất kinh
doanh và đời sống khi nền kinh tế có những biến động bất thường như khủng hoảng
tài chính tiền tệ, thiên tai lũ lụt…Chính vì lẽ đó mà tình hình bội chi ngân sách
trong những năm qua đã có những cải thiện đáng kể góp phần quan trọng vào việc
ổn định và phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được đó thì chúng ta cũng đã gặp
phải không ít những sai lầm, còn có những hạn chế cần phải rút kinh nghiệm và
khắc phục.Tiềm lực tài chính tuy đã được tăng lên đáng kể nhưng còn nhỏ bé và
vẫn không theo kịp nhu cầu tăng chi để giải quyết những nhu cầu bức xúc của nền
kinh tế.Nền tảng của nguồn thu ngân sách chua thực sự vững chắc, cơ cấu thu đã
được đổi mới nhưng chưa thực sự toàn diện.Trong khi nhu cầu về xây dựng cơ sở
hạ tầng, phát triển giáo dục, khoa học công nghệ, xoá đói giảm nghèo, thực hiện quá
trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước đang là áp lực lớn cho ngân sách Nhà
nước.
Thêm vào đó thì việc phân bổ sử dụng ngân sách Nhà nước còn nhiều bất
cập, hiệu quả đã được nâng lên nhưng chưa cao, vẫn còn tình trạng thất thoát trong
sử dụng nguồn ngân sách.Chi cho đầu tư xây dựng cơ bản còn phân tán, công tác
quy hoạch, chuẩn bị đâu tư, lập dự án chưa được chú trọng nên chất lượng công
trình không cao.Chế độ tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách vừa thiếu vừa lạc hậu so
với thực tế gây khó khăn cho việc cấp kinh phí, kiểm tra, kiểm soát trong chi ngân
sách.Trong chi thường xuyên của chi ngân sách Nhà nước thì chi cho lương còn
chiếm tỷ trọng lớn(chiếm 50% tổng chi thường xuyên) điều đó là do việc tinh giảm
biên chế trong khu vựa hành chính sự nghiệp hiệu quả còn thấp.
Việc thực hành chống lãng phí, tiết kiệm chưa được các cấp quan tâm đầy
đủ, vẫn còn có nhiều hoạt động mang tính phô trương hình thức, hội họp, chiêu đãi
không cần thiết vẫn diễn ra ở nhiều nơi.Công tác kiểm tra còn mang tính hình thức,
chưa thực sự phát huy hiệu quả.Chính điều này đã góp phần làm cho ngân sách
không đủ để chi, tình trạng bội chi ngân sách vẫn còn diễn ra ỏ nhiều địa phương,
nhiều lĩnh vực trong đời sông kinh tế-xã hội.
2.1.2: Nguyên nhân chủ yếu của bội chi ngân sách Nhà nước
Trong thời gian qua thì tình hình bội chi ngân sách ở nước ta có nhiều diễn
biến phức tạp, điều đó d