Trong thời đại Cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay, tiềm năng trí tuệ trở thành nền móng và động lực chính cho sự phát triển, tăng trưởng kinh tế- xã hội. Giáo dục- Đào tạo (GD& ĐT) được coi là nhân tố quyết định cho sự thành bại của mỗi quốc gia trên trường quốc tế, trong đó giáo dục phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong việc tạo dựng mặt bằng dân trí, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia. Ngày nay, với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ, việc nhanh chóng hoà nhập vào cộng đồng khu vực và thế giới đòi hỏi giáo dục phổ thông phải có những bước tiến mới mạnh mẽ nhằm giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong thế giới hiện đại, mọi người đều biết rằng bất cứ công cụ sản xuất nào dù tinh vi hiện đại đến đâu cũng đều là sản phẩm của con người, do con người sử dụng và được con người tiếp tục hoàn thiện. Phát triển lực lượng sản xuất trong đều kiện hiện nay, cần phải hiểu là phát triển con người là trước hết. Đó là nhân tố đảm bảo phát triển các yếu tố của lực lượng sản xuất. Nghị quyết lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định” Thực sự coi GD &ĐT là quốc sách hàng đầu, Là động lực phát triển kinh tế xã hội" và đồng thời chỉ rõ nhiệm vụ của “Giáo dục và đào tạo hiện nay phải có một bước chuyển nhanh chóng về chất lượng và hiệu quả đào tạo, về số lượng và quy mô đào tạo, nhất là chất lượng dạy học trong các nhà trường, nhằm nhanh chóng đưa giáo dục- đào tạo đáp ứng yêu cầu mới của đất nước. Thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước". Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá".
Bàn đến giáo dục, vấn đề mấu chốt nhất quan trọng nhất, thường xuyên nhất đó là chú trọng việc nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả giáo dục. Chất lượng giáo dục, chất lượng dạy học là sợi chỉ đổ xuyên suốt quá trình giáo dục cũng như qua trình dạy học ở các trường học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng dạy học nói riêng là sự tồn tại và phát triển của sự nghiệp giáo dục, của mỗi cơ sở giáo dục, của mỗi trường học. Nâng cao chất lượng giáo dục và chất lượng dạy học vấn đề cốt tử của ngành giáo dục và của các trường học, là tâm trí của mọi nhà giáo, mọi thành viên trong xã hội
Đối với các trường THPT việc nâng cao chất lượng dạy học là nhiệm vụ quan trọng nhất, cũng là nhiệm vụ cơ bản đầu tiên của các nhà trường, đây chính là điều kiện quyết định để nhà trường tồn tại và phát triển và cũng là thương hiệu của nhà trường đó đối với địa phương. Thực chất của công tác quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy học, công việc này được tiến hành thường xuyên, liên tục qua từng giờ dạy học, qua các học kỳ và từng năm học, đây là điều kiện tất yếu để nhà trường đáp ứng yêu cầu của mục tiêu giáo dục là: “ Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”.
134 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6601 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại Cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay, tiềm năng trí tuệ trở thành nền móng và động lực chính cho sự phát triển, tăng trưởng kinh tế- xã hội. Giáo dục- Đào tạo (GD& ĐT) được coi là nhân tố quyết định cho sự thành bại của mỗi quốc gia trên trường quốc tế, trong đó giáo dục phổ thông giữ một vai trò quan trọng trong việc tạo dựng mặt bằng dân trí, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia. Ngày nay, với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ, việc nhanh chóng hoà nhập vào cộng đồng khu vực và thế giới đòi hỏi giáo dục phổ thông phải có những bước tiến mới mạnh mẽ nhằm giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong thế giới hiện đại, mọi người đều biết rằng bất cứ công cụ sản xuất nào dù tinh vi hiện đại đến đâu cũng đều là sản phẩm của con người, do con người sử dụng và được con người tiếp tục hoàn thiện. Phát triển lực lượng sản xuất trong đều kiện hiện nay, cần phải hiểu là phát triển con người là trước hết. Đó là nhân tố đảm bảo phát triển các yếu tố của lực lượng sản xuất. Nghị quyết lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định” Thực sự coi GD &ĐT là quốc sách hàng đầu, Là động lực phát triển kinh tế xã hội" và đồng thời chỉ rõ nhiệm vụ của “Giáo dục và đào tạo hiện nay phải có một bước chuyển nhanh chóng về chất lượng và hiệu quả đào tạo, về số lượng và quy mô đào tạo, nhất là chất lượng dạy học trong các nhà trường, nhằm nhanh chóng đưa giáo dục- đào tạo đáp ứng yêu cầu mới của đất nước. Thực hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước". Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá".
Bàn đến giáo dục, vấn đề mấu chốt nhất quan trọng nhất, thường xuyên nhất đó là chú trọng việc nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả giáo dục. Chất lượng giáo dục, chất lượng dạy học là sợi chỉ đổ xuyên suốt quá trình giáo dục cũng như qua trình dạy học ở các trường học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng dạy học nói riêng là sự tồn tại và phát triển của sự nghiệp giáo dục, của mỗi cơ sở giáo dục, của mỗi trường học. Nâng cao chất lượng giáo dục và chất lượng dạy học vấn đề cốt tử của ngành giáo dục và của các trường học, là tâm trí của mọi nhà giáo, mọi thành viên trong xã hội
Đối với các trường THPT việc nâng cao chất lượng dạy học là nhiệm vụ quan trọng nhất, cũng là nhiệm vụ cơ bản đầu tiên của các nhà trường, đây chính là điều kiện quyết định để nhà trường tồn tại và phát triển và cũng là thương hiệu của nhà trường đó đối với địa phương. Thực chất của công tác quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy học, công việc này được tiến hành thường xuyên, liên tục qua từng giờ dạy học, qua các học kỳ và từng năm học, đây là điều kiện tất yếu để nhà trường đáp ứng yêu cầu của mục tiêu giáo dục là: “ Nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”.
Chất lượng dạy học ở các trường THPT hiện nay, và chất lượng đào tạo nói chung đã có nhiều tiến bộ trên một số mặt …. Nhiều nơi đã xuất hiện những nhân tố mới, phong trào học tập sôi nổi, dân trí từng bước được nâng lên. Tuy nhiên chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng dạy học nói riêng còn nhiều yếu kém, bất cập. Đáng quan tâm là chất lượng, hiệu quả dạy học còn thấp, chưa đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN. Trình độ kiến thức, kỹ năng thực hành, phương pháp tư duy khoa học và thể lực của đa số học sinh còn yếu.
Đội ngũ quản lý giáo dục năng lực còn hạn chế, không theo kịp với sự đa dạng và phức tạp của các hoạt động giáo dục trong quá trình đổi mới quản lý giáo dục, quản lý nhà trường để nâng cao chất lượng dạy học.
Đối với Krông Năng là huyện vùng cao của tỉnh Đắk Lắk, thực tiễn trong những năm qua được sự quan tâm của cấp ủy đảng và sự đầu tư có hiệu quả của chính quyền các cấp GD & ĐT có những tiến bộ đáng trân trọng: Hệ thống giáo dục được hoàn thiện hơn với các cấp học và bậc học, trình độ đào tạo các loại hình và phương thức giáo dục. Quy mô giáo dục tăng nhanh, mạng lưới giáo dục mở rộng đến tận các xã, việc nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT đã đạt được nhiều kết quả khả quan, tuy nhiên chưa đồng đều ở các trường trong cả huyện. Số học sinh trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng còn thấp, số học sinh đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, quốc gia chưa cao, tỷ lệ học sinh yếu kém còn cao, tỷ lệ học sinh khá giỏi thấp qua các năm học… Vấn đề đặt ra cho những người làm công tác quản lý nhà trường là phải tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu tìm ra những biện pháp quản lý hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng dạy học, nhanh chóng đáp ứng những yêu cầu đổi mới của địa phương và đất nước. Việc đổi mới quá trình dạy học cũng là khâu đột phá để nâng cao chất lượng ở các trường THPT huyện Krông Năng tỉnh Đắk Lắk nhằm khắc phục dần khoảng cách không đồng đều giữa các trường hiện nay.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu và từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: " Biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Krông Năng - tỉnh Đắk Lắk" với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc xây dựng các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trường THPT đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của toàn xã hội, thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của nhà trường mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Krông Năng tỉnh Đắk Lắk cũng như góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình quản lý hoạt động dạy học và chất lượng dạy học ở các trường THPT 3.2. Đối tượng nghiên cứu
Những biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường THPT huyện Krông Năng - tỉnh Đắk Lắk và vấn đề nâng cao chất lượng dạy học ở các trường này.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Do điều kiện thời gian và năng lực còn hạn chế tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Krông Năng - tỉnh Đắk Lắk., cụ thể nghiên cứu ở ba trường THPT trên địa bàn huyện Krông Năng, đó là các trường sau đây:
1. Trường THPT Phan Bội Châu;
2. Trường THPT Lý tự Trọng;
3. Trường THPT Nguyễn Huệ
Và thời gian khảo sát trong ba năm học: 2007-2008; 2008- 2009; 2009-2010
5. Giả thuyết khoa học
Chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Krông Năng hiện nay chưa đồng bộ, chất lương dạy học nhìn chung còn thấp so với mặt bằng chung của các trường THPT trong tỉnh Đắk Lắk và vẫn còn rất nhiều hạn chế hạn chế, bất cập. Nếu áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, đồng bộ các biện pháp quản lý được đề xuất trong đề tài nghiên cứu thì chất lượng dạy ở các trường này sẽ từng bước được nâng cao.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
5.2. Khảo sát đánh giá thực trạng việc quản lý hoạt động dạy học và chất lượng dạy học ở các trường THPT của huyện Krông Năng tỉnh Đắk Lắk
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Krông Năng - tỉnh Đắk Lắk
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp phân tích tổng hợp lý thuyết.
- Phương pháp hệ thống hoá lý thuyết.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục.
7.3. Sử dụng Phương pháp thống kê để xử lý các số liệu thu nhận được.
8. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn đơực cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý năng cao chất lượng dạy học ở trường THPT
Chương 2: Thực trạng chất lượng dạy học và quản lý nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Krông Năng tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk
NỘI DUNG
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CAO CHẤT LƯƠNG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG THPT
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, việc nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung và nhà trường phổ thông nói riêng từ lâu đã trở thành vấn đề quan tâm của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Dạy học là hoạt động lao động xã hội xuất hiện từ lúc con người có nhu cầu truyền lại cho thế hệ sau những kinh nghiệm của thế hệ trước. Quản lý ra đời khi có sự phân công lao động xã hội. Quản lý DH là một quá trình xã hội đặc thù. Thực tiễn và lý luận về quản lý DH được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người.
Ngay từ thời cổ đại, tư tưởng về DH và quản lý DH đã được thể hiện trong những quan điểm của nhiều nhà triết học đồng thời là nhà giáo dục. Đức Khổng Tử (551- 479 TCN) đã giúp học trò phát triển bằng cách khuyến khích sở trường và phê bình sở đoản, phương châm chính của dạy học là khải phát (gợi mở). Socrates (469 - 399 TCN) đã đề xuất thực hiện phương pháp dạy học và được sử dụng cho đến ngày nay. J.A.Komenxki (1592 - 1670) đã phân tích các hiện tượng trong tự nhiên và hiện thực để đưa ra các biện pháp dạy học buộc học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ để nắm được bản chất của sự vật hiện tượng. J.J.Rousseau (1717 - 1778) chủ trương giáo dục trẻ em một cách tự nhiên và người học sẽ tự khám phá tích luỹ kiến thức thông qua chính hoạt động của mình.
Nhiều nhà giáo dục tiêu biểu xuất hiện khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX như John Dewey (1859 - 1952), A.Macarenco (1888 - 1938), Jean Piaget (1896 - 1980),… cũng có quan điểm hướng đến sự tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học.
Vào nửa đầu thế kỷ XX, T.Makiguchi (Nhật Bản) đã nêu lên quá trình phát triển của giáo dục tương ứng với nó là sự thay đổi vai trò của người thầy trong quá trình giáo dục, dạy học. Dạy học phải hướng vào người học, dạy học tích cực, biến quá trình dạy học thành quá trình tự học. Xu thế dạy học hiện nay hoàn toàn phù hợp với tư tưởng này.
Ở Liên Xô (cũ), trong những thập kỷ gần đây đã có một số công trình nghiên cứu hệ thống các vấn đề về PPDH mà tiêu biểu là công trình của các nhà khoa học: V.V.Davưdop, N.A.Menchinskaia, M.N.Statkin, I.Ia.Lecne,... trong đó việc công nghệ hóa quá trình dạy học của Giáo sư Viện sĩ V.V.Davưdop đã được tổ chức vận dụng tại Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ; sự bùng nổ thông tin khoa học và công nghệ; những tư tưởng trên không những vẫn giữ nguyên giá trị của nó mà còn được tiếp tục kế thừa và phát triển. Giáo dục của thế giới đã trải qua ba cuộc cải cách, theo đó là cuộc cải cách về giáo dục. Đặc biệt, cuộc cải cách lần thứ hai vào những năm 1950 và cuộc cải cách lần thứ ba vào những năm 1980 đã tập trung vào vấn đề đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của người học.
Ở nước ta, ngay những ngày đầu của nền giáo dục cách mạng Việt Nam, trong thư gửi cho HS nhân ngày khai trường, Bác Hồ đã viết: “Từ giờ phút này trở đi, các cháu được hưởng một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam (…) làm phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của các cháu.” [24, tr.11]. Nội dung bức thư như là một định hướng cho sự phát triển của PPDH.
Trong sự nghiệp cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến giáo dục. Định hướng đổi mới PPDH đã được nêu ra trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư khoá VII, lần thứ hai khoá VIII, lần thứ sáu khoá IX, được thể chế hoá trong Luật Giáo dục: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”, [27, tr.22] được cụ thể hoá trong quyết định 201/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010” và các chỉ thị thực hiện nhiệm vụ năm học của Bộ GD & ĐT.
Trong những năm gần đây, đứng trước nhiệm vụ đổi mới giáo dục đào tạo nói chung và đổi mới phương pháp dạy học nói riêng, nhiều nhà nghiên cứu trong đó có những nhà giáo dục học, tâm lý học như Trần Hồng Quân, Phạm Minh Hạc, Phan Trọng Luận, Vũ Văn Tảo, Đỗ Đình Hoan, Trịnh Xuân Vũ, Phạm Viết Vượng, Đặng Thành Hưng...đã đi sâu nghiên cứu vấn đề đổi mới nội dung dạy học theo hướng nâng cao tính hiện đại và gắn khoa học với thục tiễn sản xuất và đời sống, vấn đề lấy học sinh làm trung tâm trong hoạt động dạy học.
Xét ở góc độ nghiên cứu lý luận quản lý giáo dục, dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà khoa học nước ta đã tiếp cận quản lý giáo dục (QLGD) và quản lý (QL) trường học để đề cập đến việc phát triển công tác QL trường học; các tác phẩm tiêu biểu như: Phương pháp luận khoa học giáo dục của Phạm Minh Hạc; Khoa học Quản lý giáo dục - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Trần Kiểm ...
Như vậy, vấn đề nâng cao chất lượng dạy học từ lâu đã dược các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Từ những năm cuối thế kỷ XX khi xã hội sắp bước vào một giai đoạn phát triển mới thì hơn bao giờ hết, vấn đề này được quan tâm nhiều hơn và nó trở thành mối quan tâm chung của toàn xẫ hội, đặc biệt là của những nhà nghiên cứu giáo dục. Ý kiến của các nhà nghiên cứu có thể khác nhau nhưng điểm chung mà chúng ta thấy trong các công trình nghiên cứu họ là khẳng định: vai trò quan trọng của công tác quản lý trong việc nâng cao chất lượng dạy và học ở các cấp học và ở các bậc học. Đây cũng chính là một trong những tư tưởng mang tính chiến lược về phát triển giáo dục của Đảng ta “ Đổi mơi mạnh mẽ nội dung, phương pháp và quản lý giáo dục đào tạo”
Giáo dục Đắk Lắk trong nhiều năm gần đây đã quan tâm đến công tác giảng dạy của giáo viên trên lớp. Ngành giáo dục đã tổ chức các lớp bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên. Hàng năm có tổ chức các hội thi giáo viên dạy giỏi ở các cấp học, bậc học. Việc làm này đã kích thích được tinh thần học hỏi, nâng cao chuyên môn cho giáo viên. Tuy nhiên để nâng cao chất lượng dạy học cho đại đa số giáo viên thì rất cần có các biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên.
Quản lý hoạt động dạy học(HĐDH) thực sự là vấn đề bức xúc đã dược quan tâm nghiên cứu và cần tiếp tục nghiên cứu để đổi mới nhằm nâng cao chát lượng daỵ học trong nhà trường.
Quản lý HDDH là nội dung hoạt động trung tâm của người hiệu trưởng ở các nhà trường. Đồng thời cũng là nội dung cơ bản, quan trọng nhất trong công tác quản lý trường học. Chính vì lẽ đó, vấn đề quản lý HĐDH luôn được các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý giáo dục đề cập trong các công trình nghiên cứu khoa học. Giáo trình giảng dạy của trường ĐH sư phạm Hà Nội, Trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo(nay là học viện Quản lý giáo dục) có các công trình nghiên cứu và giảng dạy về chuyên đề quản lý HĐDH trong trường phổ thông. Các luận văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý giáo dục cũng đã có một số tác giả viết đè tài: “Biện pháp quản lý HĐDH của hiệu trưởng” như đề tài: “ Biện pháp quản lý HDDH của hiệu trưởng trường tiểu học tại thành phố Thanh Hóa của tác giả Viên Thị Dung; đề tài: “Những biện pháp QL của hiệu trưởng nhằm nâng cao hiệu quả HĐDH ở các trường THPT tại thành phố Đà Nẵng’ của tác giả Nguyễn Hữu Dũng... Các công trình nghiên cứu, các luận văn thạc sỹ này chủ yếu dừng lại ở những vấn đề lý luận vĩ mô mang tính định hướng, chỉ đạo còn vấn đề QLHĐDH ở từng khu vực, riêng từng trường THPT thì còn rất ít nghiên cứu, nhất là ở địa bàn vùng núi Tây nguyên.
Nhìn tổng thể, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập đến các biện pháp quản lý của HT, nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT một cách có hệ thống và phù hợp với điều kiện thực tế của huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu thực trạng, xác lập các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở các trường THPT huyên Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk là cần thiết, nó góp phần nâng cao chất lượng dạy - học trong nhà trường, đáp ứng được yêu cầu giáo dục của tỉnh nhà nói riêng và mục tiêu giáo dục THPT nói chung.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý
a. Khái niệm
Quản lý hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Nó bắt nguồn và gắn chặt với sự phân công, hợp tác lao động. QL là một dạng hoạt động xã hội đặc thù, trở thành một nhân tố của sự phát triển xã hội, một hoạt động phổ biến, diễn ra ở mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên quan đến mọi người. Có thể nói QL là một trong những loại hình lao động có hiệu quả nhất, quan trọng nhất.
Quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính chất xã hội của lao động.
Ngay từ khi con người bắt đầu hình thành nhóm đã biết phối hợp các nỗ lực cá nhân để thực hiện mục tiêu duy trì sự sống. Từ khi xuất hiện nền sản xuất xã hội, nhu cầu phối hợp các hoạt động riêng lẻ càng tăng lên. Bất cứ một tổ chức, một lĩnh vực nào từ sự hoạt động của nền kinh tế quốc dân, hoạt động của một doanh nghiệp, một đơn vị hành chính sự nghiệp… đến một tập thể thu nhỏ như tổ sản xuất, tổ chuyên môn bao giờ cũng có hai phân hệ: Người quản lý và đối tượng được quản lý, sự cần thiết của quản lý được C. Mác viết: "Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung, phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những cơ quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm riêng lẻ tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng". (C. Mác và Ăngghen - Toàn tập, tập 23 trang 34-NXB Chính trị Quốc gia).
Như vậy C.Mác đã chỉ ra bản chất quản lý là một hoạt động lao động để điều khiển lao động, một hoạt động tất yếu quan trọng trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Quản lý trở thành một hoạt động phổ biến, mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và có liên quan đến mọi người. Đó là một loại hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên sự phân công và hợp tác để làm một công việc nhằm đạt một mục tiêu chung.
Khi bàn đến Khái niệm quản lý có nhiều cách tiếp cận khác nhau:
Theo giáo sư Hà Sĩ Hồ: Quản lý là một quá trình tác động có định hướng (có chủ định) có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã định.
Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung là khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến" [20,tr35].
Như vậy, quản lý phải bao gồm các yếu tố sau: Phải có mục tiêu đặt ra cho cả đối tượng và chủ thể làm căn cứ định hướng cho mọi hoạt động của tổ chức, phải có nội dung, phương pháp, phương tiện và kế hoạch hành động, một môi trường nhất định.
b. Các chức năng quản lý
Có nhiều ý kiến khác nhau về phân loại chức năng quản lý, tuy nhiên tựu trung lại có 4 chức năng cơ bản: Lập kế hoạch; tổ chức; chỉ đạo; kiểm tra.
- Chức năng kế hoạch: Là một chức năn