Luận văn Các giải pháp thúc đẩy tiêu thụ tăng doanh thu tại công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu

Hiện nay, nền kinh tế thị trường buộc các doanh nghiệp phải luôn phấn đấu nỗ lực không ngừng thì mới có thể tồn tại được trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như vậy. Nhiệm vụ và mục tiêu của các doanh nghiệp không còn là sản xuất cái doanh nghiệp có khả năng mà là sản xuất cái thị trường cần. Doanh nghiệp có thể tồn tại được hay không còn phải phụ thuộc vào khâu tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm của mình, đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Song công tác thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, đưa sản phẩm đến từng khu vực thị trường chưa được coi trọng đúng mức từ phía các doanh nghiệp. Nước ta đang từng bước mở cửa thị trường và hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, điều đó làm cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước sẽ ngày càng khốc liệt hơn. Cùng với đó sản phẩm hàng hoá dịch vụ ngày càng phong phú và đa dạng, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn, càng làm tăng mức độ cạnh tranh. Điều này buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao doanh thu và lợi nhuận. Nhận thấy tầm quan trọng của công tác tiêu thụ và tăng doanh thu bán hàng đối với các doanh nghiệp, công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu đã cố gắng làm tốt công tác tiêu thụ và tạo được uy tín của mình trên thị trường trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh bánh kẹo. Bằng sự kết hợp giữa lý thuyết đã học trong nhà trường và qua tìm hiểu thực tế tại công ty trong thời gian thực tập em đã cố gắng tìm hiểu công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty trên góc độ nhìn nhận của chuyên ngành Tài chính doanh nghiệp thông qua đề tài: “Các giải pháp thúc đẩy tiêu thụ tăng doanh thu tại công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu.” Nội dung đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Tiêu thụ sản phẩm và doanh thu bán hàng của doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng tiêu thụ sản phẩm và doanh thu bán hàng tại công ty cổ phần sản xuất bao bì hàng xuất khẩu. Chương 3: Các giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tại công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu.

doc72 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5327 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp thúc đẩy tiêu thụ tăng doanh thu tại công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, nền kinh tế thị trường buộc các doanh nghiệp phải luôn phấn đấu nỗ lực không ngừng thì mới có thể tồn tại được trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như vậy. Nhiệm vụ và mục tiêu của các doanh nghiệp không còn là sản xuất cái doanh nghiệp có khả năng mà là sản xuất cái thị trường cần. Doanh nghiệp có thể tồn tại được hay không còn phải phụ thuộc vào khâu tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm của mình, đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Song công tác thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, đưa sản phẩm đến từng khu vực thị trường chưa được coi trọng đúng mức từ phía các doanh nghiệp. Nước ta đang từng bước mở cửa thị trường và hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, điều đó làm cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước sẽ ngày càng khốc liệt hơn. Cùng với đó sản phẩm hàng hoá dịch vụ ngày càng phong phú và đa dạng, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn, càng làm tăng mức độ cạnh tranh. Điều này buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao doanh thu và lợi nhuận. Nhận thấy tầm quan trọng của công tác tiêu thụ và tăng doanh thu bán hàng đối với các doanh nghiệp, công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu đã cố gắng làm tốt công tác tiêu thụ và tạo được uy tín của mình trên thị trường trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh bánh kẹo. Bằng sự kết hợp giữa lý thuyết đã học trong nhà trường và qua tìm hiểu thực tế tại công ty trong thời gian thực tập em đã cố gắng tìm hiểu công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty trên góc độ nhìn nhận của chuyên ngành Tài chính doanh nghiệp thông qua đề tài: “Các giải pháp thúc dẩy tiêu thụ tăng doanh thu tại công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu.” Nội dung đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Tiêu thụ sản phẩm và doanh thu bán hàng của doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng tiêu thụ sản phẩm và doanh thu bán hàng tại công ty cổ phần sản xuất bao bì hàng xuất khẩu. Chương 3: Các giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ và tăng doanh thu tại công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu. Mục đích của đề tài là tìm ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm, góp phần vào sự phát triển của công ty cổ phần sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu. Em hy vọng phần nào đó có thể được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất kinh doanh của công ty. Do thời gian nghiên cứu đề tài có hạn, kiến thức và kinh nghiệm còn chưa nhiều nên bài viết của em không thể tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo hướng dẫn của các thầy cô để bài luận văn được hoàn thiện hơn. Qua đó cũng rút ra được những bài học, kinh nghiệm để nâng cao và hoàn thiện kiến thức của bản thân. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, GS.PTS Nguyễn Đăng Nam cùng các cô chú, anh chị trong công ty đã tận tình hướng dẫn em hoàn thiện bài luận văn này! Hà Nội, tháng 4 năm 2010 Sinh viên Lưu Quang Dũng CHƯƠNG 1: TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ DOANH THU BÁN HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP. 1.1. Lý luận chung về tiêu thụ sản phẩm và doanh thu bán hàng của doanh nghiệp. 1.1.1 Tiêu thụ sản phẩm của DN Đối với mỗi DN tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường, song song với nhiệm vụ sản xuất thì công tác tiêu thụ sản phẩm cũng có vai trò hết sức quan trọng. Có thực hiện tốt quá trình tiêu thụ sản phẩm thì các quá trình kinh tế của sản xuất mới được hoàn thành, mới đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được diễn ra thường xuyên, liên tục. Xét rộng ra trong cả nền kinh tế của bất kì một quốc gia nào, sản xuất là nền tảng của sự ổn định và phát triển kinh tế nhưng tiêu thụ sản phẩm lại là điều kiện cho sự phát triển đó. Tiêu thụ sản phẩm là quá trình DN xuất giao sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho đơn vị mua, đơn vị mua thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận thanh toán theo giá thỏa thuận giữa hai bên mua và bán. Thời điểm sản phẩm được xác định là tiêu thụ về nguyên tắc được xác định khi DN thực hiện xong cả 2 giai đoạn: xuất giao hàng và doanh nghiệp thu được tiền bán hàng. Việc vận dụng nguyên tắc này là tùy thuộc ở từng quốc gia, ở Việt Nam quy định tiêu thụ sản phẩm hoàn thành khi doanh nghiệp xuất giao hàng và người mua sản phẩm, hàng hóa dịch vụ đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc vào việc tiền đã thu được hay chưa. Các sản phẩm này khi được tiêu thụ thì mới thể hiện được giá trị và giá trị sử dụng của mình. Vì vậy, quá trình tiêu thụ sản phẩm thực chất là quá trình thực hiện giá trị trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Đó là mắt xích quan trọng cuối cùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là khâu cuối cùng trong vòng luân chuyển vốn, đóng vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp. Trên góc độ luân chuyển vốn, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa là quá trình chuyển hóa hình thái của vốn từ hình thái hàng hóa sang hình thái tiền tệ. Như vậy, vốn đã trở về hình thái ban đầu với nguyên nghĩa của nó nhưng có sự khác biệt về lượng để rồi từ đó nó lại được tiếp tục tái đầu tư, đưa vào 1 chu trình kinh doanh mới. Quá trình tái sản xuất đó có thể được khái quát qua sơ đồ sau: Vốn TLSX SX Lưu thông Tiêu thụ Vốn SLĐ Nhìn vào sơ đồ trên cho thấy tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là cầu nối trung gian giữa một bên là sản xuất và một bên là tiêu dùng. Đầu tiên vốn được bỏ ra để mua sắm tư liệu sản xuất và sức lao động để đưa vào sản xuất, tạo ra sản phẩm, hàng hóa. Số sản phẩm, hàng hóa này được đem vào lưu thông, tiêu thụ thu hồi tiền về (vốn). Như vậy, thông qua công tác tiêu thụ, sản phẩm thực hiện được giá trị và vốn bằng hiện vật của doanh nghiệp tồn tại dưới hình thái hàng hóa được chuyển hóa thành vốn tiền tệ. Việc tổ chức tốt tiêu thụ sản phẩm không chỉ là hoàn thành một vòng chuyển hóa liên tục của vốn kinh doanh, mà qua đó doanh nghiệp sẽ đánh giá được tính hiệu quả của việc sử dụng vốn trong kinh doanh. Quá trình tiêu thụ sản phẩm bao gồm 2 giai đoạn: - Doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng. - Khách hàng trả tiền cho doanh nghiệp. 2 giai đoạn này có thể diễn ra không đồng thời, tùy thuộc vào từng hình thức bán hàng của doanh nghiệp: bán hàng trả tiền ngay, bán hàng trả góp, bán hàng tín chấp, bán hàng đại lý… Thực hiện tiêu thụ sản phẩm cũng có nghĩa là doanh nghiệp có doanh thu bán hàng. Vì khi tiêu thụ sản phẩm, DN sẽ có một khoản thu nhập bán hàng theo giá trị hàng bán. Do đó, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu bán hàng luôn là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. 1.1. 2 Khái niệm doanh thu tiêu thụ sản phẩm Thông qua hoạt động kinh doanh doanh nghiệp thu được doanh thu. Đứng trên góc độ tài chính doanh nghiệp: Doanh thu là biểu hiện của tổng giá trị các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đã bán ra trong một thời kỳ nhất định. Doanh thu của doanh nghiệp bao gồm: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập khác. Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm : doanh thu bán hàng (doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ) và doanh thu tài chính: - Doanh thu bán hàng: là biểu hiện của tổng giá trị các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đã bán ra trong một thời kỳ nhất định. Doanh thu từ việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ (kể cả giá trị của hàng hóa quà tặng, quà biếu cho các đơn vị khác, hoặc để tiêu dùng nội bộ). Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, doanh thu bán hàng còn bao gồm các khoản như : phần trợ giá phụ thu khi thực hiện cung cấp hàng hóa dịch vụ theo yêu cầu của nhà nước mà doanh nghiệp được hưởng. - Doanh thu từ hoạt động tài chính: là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được từ hoạt động tài chính hoặc kinh doanh về vốn trong kì. Bao gồm: + Tiền lãi mà doanh nghiệp thu được từ hoạt động cho vay, lãi tiền gửi, lãi bán hàng trả chậm trả góp, lãi đầu tư trái phiếu tín phiếu. + Khoản tiền lãi do chênh lệch mua bán chứng khoán (nếu có). + Thu nhập từ việc cho thuê tài sản. + Các khoản lãi thu được từ việc liên doanh liên kết. + Khoản tiền doanh nghiệp được hưởng chiết khấu thanh toán. + Cổ tức lợi nhuận được chia. Ngoài ra, trong kỳ doanh nghiệp còn có các khoản thu nhập khác. Thu nhập khác là các khoản thu được trong kỳ do các hoạt động không thường xuyên ngoài các hoạt động tạo ra doanh thu. Thu nhập khác của doanh nghiệp đại thể bao gồm một số khoản như sau: + Tiền thu do nhượng bán, thanh lý tài sản cố định. + Khoản thu từ tiền bảo hiểm được các tổ chức bồi thường khi doanh nghiệp có tham gia bảo hiểm. + Khoản thu từ tiền phạt từ khách hàng do vi phạm hợp đồng kinh doanh với doanh nghiệp. + Thu các khoản nợ khó đòi đã xóa sổ. + Thu nhập kinh doanh những năm trước bị bỏ sót nay phát hiện được. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp, doanh thu bán hàng vẫn là bộ phận chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu, có ý nghĩa to lớn trong toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp: Thời điểm ghi nhận doanh thu bán hàng đứng trên góc độ tài chính doanh nghiệp là thời điểm mà quyền sở hữu sản phẩm hàng hóa đã được chuyển giao hoặc dịch vụ đã được thực hiện và người mua đã chấp nhận thanh toán không kể đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Doanh thu bán hàng không hoàn toàn đồng nhất với tiền bán hàng. Tiền bán hàng chỉ được xác định khi doanh nghiệp đã thu được tiền về. Đó là số tiền doanh nghiệp thực thu được từ bán hàng. Nó liên quan đến tính thanh khoản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có doanh thu cao chưa chắc đã có tình hình tài chính lành mạnh do tính thanh khoản thấp. Nếu doanh nghiệp thực hiện phương thức bán chịu sản phẩm, hàng hóa cho khách hàng thì sau khi đã xuất giao hàng, quyền sở hữu về hàng hóa đã được chuyển giao cho khách hàng, lúc này doanh thu bán hàng của doanh nghiệp được ghi nhận, nhưng phải sau một thời gian nhất định, doanh nghiệp mới thu được tiền bán hàng. Trong trường hợp có các khoản giảm trừ doanh thu (giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, chiết khấu…) thì doanh thu bán hàng và tiền thu bán hàng còn khác nhau về mặt lượng. Khi đó, tiền bán hàng chỉ là một phần của doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụtương ứng với số tiền mà khách hàng đã thanh toán cho doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải phân biệt rõ được doanh thu bán hàng và tiền thực thu từ bán hàng. Cách xác định doanh thu tiêu thụ sản phẩm như sau: = Trong đó: : số lượng sản phẩm thứ i bán ra trong kì. : giá bán đơn vị sản phẩm thứ i. : tổng doanh thu bán hàng của doanh nghiệp trong kì. i : loại sản phẩm bán trong kì (i=). Khi doanh nghiệp áp dụng kế toán hàng tồn kho hàng tồn kho theo phương pháp nhập trước, xuất trước thì số lượng sản phẩm tiêu thụ bán ra trong kỳ được xác định theo công thức sau : Qti = Qđi + Qxi – Qci Trong đó : Qđi: số lượng sản phẩm i tồn đầu kỳ Qxi : số lượng sản phẩm i sản xuất trong kỳ Qci : số lượng sản phẩm i cuối kỳ i : là loại sản phẩm Doanh thu bán hàng chỉ được ghi nhận khi đồng thời thỏa mãn 5 điều kiện: + Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích kinh tế gắn liền với quyền sở hữu hàng hóa, sản phẩm cho người mua. + Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hóa như người sở hữu hàng hóa hoặc quyền kiểm soát hàng hóa. + Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn. + Doanh nghiệp đã thu được hoặc chắc chắn thu được lợi ích kinh tế từ hoạt động bán hàng. + Xác định được chi phí liên quan đến hoạt động bán hàng. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần phải xác định được doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ. Nó được tính bằng doanh thu tiêu thụ sau khi trừ đi các khoản giảm trừ doanh thu. Trong đó các khoản giảm trừ doanh thu bao gồm: + Chiết khấu thương mại: là khoản tiền mà người bán giảm trừ cho người mua khi mua với khối lượng lớn. + Giảm giá hàng bán: là số tiền mà người bán chấp nhận giảm cho người mua khi hàng hóa không đảm bảo chất lượng như đã thỏa thuận trong hợp đồng. + Trị giá hàng bán bị trả lại: là trị giá số sản phẩm, hàng hóa doanh nghiệp đã xác định là tiêu thụ nhưng bị khách hàng trả lại do vi phạm các điều kiện đã cam kết trong hợp đồng kinh tế như: hàng kém phẩm chất, sai quy cách, chủng loại. + Các khoản thuế gián thu có trong giá bán (nếu có) bao gồm: thuế giá trị gia tăng (trong trường hợp doanh nghiệp tính thuế theo phương pháp trực tiếp), thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu. 1.1.3 Ý nghĩa của việc đẩy mạnh tiêu thụ, tăng doanh thu bán hàng. Công tác tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp Tiêu thụ sản phẩm hàng hóa nhanh sẽ đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, rút ngắn thời gian hàng tồn kho, tăng khả năng thanh khoản cho doanh nghiệp. - Doanh nghiệp ngày càng mở rộng thị phần, tăng sức ảnh hưởng với các đối thủ cạnh tranh và có điều kiện để thâm nhập vào thị trường tiềm năng. - Công tác tiêu thụ được đẩy mạnh sẽ góp phần tăng lưu thông hàng hóa trên thị trường, làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng. - Doanh nghiệp có thể sớm thu hồi vốn để đầu tư tái sản xuất mở rộng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Doanh thu là kết quả đánh giá hiệu quả sản xuất doanh nghiệp trong kì. Nó có các ý nghĩa sau: - Là nguồn tài chính tiềm năng quan trọng để doanh nghiệp bỏ ra thanh toán các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. - Doanh thu là nguồn để có thể tham gia góp vốn cổ phần, tham gia liên doanh, liên kết với các đơn vị khác. - Doanh thu là nguồn quan trọng để các doanh nghiệp có thể thực hiện được các nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước như: nộp các khoản thuế, phí, lệ phí theo luật định. - Tăng doanh thu bán hàng là một trong những mục tiêu thể hiện sự tăng trưởng của doanh nghiệp dựa trên cơ sở tăng quy mô kinh doanh, tăng sản lượng. - Góp phần tăng tốc độ chu chuyển vốn lưu động, góp phần tiết kiệm vốn lưu động, tiết kiệm vốn lưu động thuận lợi cho doanh nghiệp trong công tác tổ chức nguồn vốn. - Tăng doanh thu bán hàng là tiền đề để doanh nghiệp tăng lợi nhuận bán hàng. 1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc tiêu thụ sản phẩm và doanh thu bán hàng Có nhiều nhân tố tác động, ảnh hưởng đến doanh thu bán hàng : 1.1.4.1 Khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Khối lượng sản phẩm hàng hóa sản xuất và tiêu thụ có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu tiêu thụ hàng hóa. Số lượng sản phẩm tiêu thụ phụ thuộc chủ yếu vào khối lượng sản phẩm sản xuất ra rong kỳ và công tác tổ chức tiêu thụ. Xét về mặt lý thuyết, sản phẩm sản xuất ra càng nhiều thì khả năng về doanh thu càng lớn, song đó chỉ là khả năng. Vấn đề quan trọng hơn là khối lượng lượng sản phẩm sản xuất ra phải phù hợp với sức mua của thị trường. Để đạt được mục tiêu doanh thu đề ra trong công tác sản xuất doanh nghiệp phải biết cân đối giữa sản phẩm hàng hóa cung ứng ra thị trường với sức tiêu thụ thực tế của thị trường đó. Tính cân đối này có ý nghĩa rất quan trọng vì lượng hàng mà doanh nghiệp cung ứng vượt quá sức mua của thị trường thì trước hết doanh nghiệp đã lãng phí trong sản xuất do sản phẩm không được tiêu thụ và nhu cầu thị trường luôn có sự thay đổi. Hơn nữa doanh nghiệp bị tồn đọng vốn rất nhiều trong lượng hàng chưa tiêu thụ được dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn không cao. Ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu thì doanh nghiệp đã bỏ phí cơ hội kinh doanh và cơ hội chiếm lĩnh mở rộng thị trường, tạo điều kiện cho đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh một phần thị trường mà doanh nghiệp có điều kiện nhưng chưa khai thác được. Vì vậy, để đảm bảo cân đối giữa cung và cầu đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự tính toán kỹ lưỡng, đi sâu tìm hiểu thị trường và hiểu rõ năng lực sản xuất của mình trước khi tiến hành sản xuất sản phẩm. 1.1.4.2 Kết cấu sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm khác nhau, chất lượng và giá cả của chúng cũng khác nhau. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, mỗi loại sản phẩm đều có tác dụng nhất định trong việc thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy, để phấn đấu tăng doanh thu các doanh nghiệp cần nắm rõ nhu cầu của thị trường về mỗi loại sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Khi đưa ra một kết cấu sản phẩm hợp lý sẽ thúc đẩy khả năng tiêu thụ đồng thời mang lại lợi ích kinh tế cao nhất cho doanh nghiệp. Để có kết cấu mặt hàng sản xuất và tiêu thụ phù hợp với nhu cầu thị trường thì doanh nghiệp cung phải chú ý đến việc thực hiện đảm bảo kế hoạch sản xuất những mặt hàng mà doanh nghiệp đã ký hợp đồng, để vừa đảm bảo có kết cấu sản phẩm hợp lý vừa giữ uy tín với khách hàng. 1.1.4.3 Đặc điểm sản xuất, tiêu thụ của từng ngành. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của từng ngành nghề ảnh hưởng tới việc tiêu thụ sản phẩm và điều đó có ảnh hưởng tới doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Trong ngành công nghiệp, do tính chất sản phẩm đa dạng, nhiều chủng loại, dựa trên trình độ kỹ thuật tiên tiến, việc sản xuất ít phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và thời vụ, sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ nhanh hơn, do đó tiền thu bán hàng cũng nhanh hơn và thường xuyên hơn. Sản phẩm thuộc nghành này dễ bị cạnh tranh bởi sự tác động của khoa học kĩ thuật. Việc thay đổi mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm là đòi hỏi mang tính quy luật. Đối với ngành sản xuất nông nghiệp, đặc trưng của ngành là sản xuất theo mùa vụ, sản phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của tự nhiên. Các nông sản nếu không được bảo quản tốt rất dễ bị hư hỏng, không để được lâu. Do vậy, việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa gặp rất nhiều khó khăn và mất nhiều công sức trong việc bảo quản. Nó ảnh hưởng đến việc thực hiện doanh thu bán hàng của doanh nghiệp. Đối với ngành xây dựng cơ bản, thì sản phẩm của ngành là sản phẩm đơn chiếc, thực hiện theo đơn đặt hàng, thời gian thi công kéo dài, việc tiêu thụ sản phẩm xây lắp chính là bàn giao công trình hoàn thành hoặc hạng mục công trình cho đơn vị giao thầu và thu tiền về. Vì vậy, doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa có sự không đồng đều giữa các kì. Đối với ngành thương mại, doanh nghiệp không trực tiếp sản xuất mà chỉ chuyển hóa vốn từ hình thái vốn bằng tiền sang hình thái vốn sản phẩm, hàng hóa rồi lại về hình thái vốn tiền tệ hoặc vốn trong thanh toán. Đặc điểm của ngành là kì luân chuyển vốn ngắn, vốn tồn tại chủ yếu dưới dạng hàng tồn kho, doanh thu chủ yếu phụ thuộc vào công tác bán hàng. 1.1.4.4 Giá cả sản phẩm, hàng hóa bán ra. Giá cả sản phẩm cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ sản phẩm và doanh thu bán hàng nếu các nhân tố khác không thay đổi. Trong nền kinh tế thị trường, giá cả là 1 yếu tố quan trọng liên quan đến quan điểm của cả người mua và người bán. Nó được hình thành trong sự tác động qua lại giữa cung và cầu. Giá cả là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu trong quá trình chinh phục thị trường của doanh nghiệp. Mỗi sự thay đổi giá cả của các đối thủ cạnh tranh cũng đòi hỏi doanh nghiệp xác định lại giá cả của mình.Việc xây dựng chính sách giá hợp lý là 1 công việc quan trọng để doanh nghiệp tác động đến thị trường. Các chính sách sản phẩm, phân phối và xúc tiến yểm trợ có vai trò lôi kéo khách hàng, tạo ra thị trường để doanh nghiệp bán được hàng và tăng doanh thu. Nhưng bán được số lượng bao nhiêu để bù đắp chi phí và thu được lợi nhuận thỏa đáng thực hiện tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp lại là vấn đề giá cả. Trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải có biện pháp quản lý tốt các yếu tố sản xuất, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để sao cho hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội trên mỗi đơn vị sản phẩm, từ đó làm cho giá thành sản xuất sản phẩm hạ thấp hơn so với giá thành sản xuất bình quân. Đây là 1 lợi thế cạnh tranh thu hút khách hàng. Chính sách giá cả là chính sách duy nhất có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Không có yếu tố phi giá nào có thể thay đổi dễ dàng và tác động đến khách hàng nhanh chóng như yếu tố giá cả. Khi doanh nghiệp có sự thay đổi trong chính sách giá sẽ gây ra những phản ứng từ phía các đối thủ cạnh tranh. Như vậy, giá cả không chỉ là công cụ của doanh nghiệp trong việc chinh phục khách hàng, tạo ra doanh thu, lợi nhuận mà nó còn là vũ khí cạnh tranh lợi hại, không những giúp doanh nghiệp giữ vững mà còn mở rộng thị phần của mình, tránh được sự xâm nhập của các đối thủ cạnh tranh khác. Tuy nhiên, cũng không nên quá lạm dụng chính sách giá vì cạnh tra
Luận văn liên quan