Luận văn Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đối với một dân tộc ngay từ thuở hồng hoang dựng nước và giữ nước đã luôn phải đương đầu với các cuộc chinh phạt của ngoại bang thì việc văn học đặc biệt lưu tâm tới đề tài chiến tranh cũng là điều dễ hiểu. Hiện thực đấu tranh chống ngoại xâm đã trở thành đối tượng khám phá và phản ánh của văn học như một tất yếu. Và 30 năm không ngừng tiếng bom, tiếng súng chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ vừa qua của cả dân tộc đã trở thành mảng hiện thực phong phú, có sức hấp dẫn không ít người cầm bút. Họ viết về chiến tranh ngay khi cuộc chiến còn đang diễn ra, họ viết về chiến tranh cả khi tiếng súng đã lắng lại và vòng nguyệt quế đã được đặt trên đầu người chiến thắng. Có thể nói, trong sự phát triển 50 năm của văn học hiện đại Việt Nam, mảng văn học về đề tài chiến tranh với nhiều thể loại: thơ ca, truyện ngắn, truyện vừa, kịch, kí, tiểu thuyết chiếm vị trí rất quan trọng cả về số lượng lẫn chất lượng. Tiểu thuyết dường như đã phát huy được lợi thế về dung lượng khi tiếp cận mảng hiện thực trải dàn trên một không gian rộng lớn kéo dài từ Bắc tới Nam, từ cao nguyên tới đồng bằng, gắn với khoảng thời gian 30 năm không hề ngắn ngủi. Trước 1975 phải kể đến Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Hòn đất (Anh Đức), Gia đình má Bảy (Phan Tứ), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiến sĩ (Nguyễn Khải), Vùng trời (Hữu Mai) Sau 1975 các tiểu thuyết viết về chiến tranh vẫn tiếp tục ra mắt công chúng: Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Năm 1975 họ đã sống như thế, Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Nắng đồng bằng, Ba lần và một lần, Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc (Chu Lai), Nước mắt đỏ (Trần Huy Quang), Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Chuyện làng Cuội (Lê Lựu) Ở những tiểu thuyết này, chiến tranh dù được đề cập đến trực tiếp hay gián tiếp thì vẫn hướng tới mục đích tái hiện một thời kì lịch sử đầy sóng gió của dân tộc trong một cái nhìn mới từ cuộc sống hiện tại sau ngày giải phóng. Người viết luận văn chọn đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết viết về chiến tranh trước hết bởi đề tài chiến tranh là một đề tài lớn, đầy sức hấp dẫn của văn học nước nhà và tiểu thuyết là một thể loại đạt khá nhiều thành công khi khai thác mảng đề tài này. Chọn đề tài "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975", người viết xuất phát từ một thực tế rằng tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 đã có nhiều phương diện đổi mới so với tiểu thuyết trước 1975 mà trong đó sự thay đổi về cảm hứng sáng tác là một trong những phương diện đổi mới cơ bản. Trước 1975, chiến tranh được miêu tả bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn ngợi ca, bởi vậy tiểu thuyết thời kì này mang hơi thở của những bản hùng ca hào sảng, tự tin, đầy khí thế. Điều này cũng dễ hiểu khi văn chương được coi là vũ khí đắc lực để tiêu diệt kẻ thù, cổ vũ tinh thần chiến đấu của toàn quân, toàn dân. Vả chăng cái xôn xao, náo nức hào hùng đó cũng là là tâm lí chung của cả cộng đồng "những buổi vui sao cả nước lên đường" (Chính Hữu). Sau 1975, khi văn chương đã trút bỏ vai trò chính trị, trở lại với bản chất nghệ thuật đích thực của mình và nhà văn có đủ độ lùi thời gian cần thiết để nghiền ngẫm lại hiện thực thì hứng thú viết về chiến tranh có sự vận động, biến đổi. Ở mức độ đậm nhạt khác nhau, trên nét lớn có thể thấy có một cảm hứng chung xuất hiện trong hầu hết các tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kì này: cảm hứng bi kịch. Trước đây, chúng ta nói nhiều đến chiến thắng, niềm vui, thì bây giờ, trong các trang viết sau ngày giải phóng, những mất mát đau thương vốn dĩ rất thường tình của chiến tranh được nhà văn phản ánh sống động, chân thực với đầy đủ vẻ gai góc của nó. Sự vận động của cảm hứng sáng tác về đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết sau 1975 đã đem lại cho tiểu thuyết nói riêng và văn học thời kì này nói chung một diện mạo mới. Đây cũng là lí do quan trọng thu hút người viết luận văn đến với đề tài "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau1975". Khảo sát tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975, người viết luận văn nhận thấy phần lớn các sáng tác có sự gặp gỡ chung là hứng thú viết về nỗi buồn, về sự mất mát, éo le. Chiến tranh không còn được nhìn bằng cái nhìn ngợi ca lãng mạn mà thay vào đó, những góc khuất đen tối, đau thương của hiện thực bắt đầu được bày lên trang viết của các cây bút sau 1975. Tuy nhiên, sự biến đổi cảm hứng sáng tác từ một đề tài lớn như vậy lại chưa được một công trình qui mô nào nghiên cứu. Hầu hết các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở cấp độ bài báo, tham luận hoặc ý kiến, nhận định Ở đây, các phương diện biểu hiện của cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết về chiến tranh sau chiến tranh chưa được đề cập đến đầy đủ trong tính hệ thống. Giới hạn của một bài viết nhỏ buộc người viết chỉ có thể khảo sát sự biểu hiện đó ở một vài phương diện nhất định, ví dụ: hướng tiếp cận hiện thực, số phận con người, nghệ thuật xây dựng tình huống kịch Với đề tài "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975", người viết luận văn mong muốn có thể đem đến cho bạn đọc một cái nhìn có tính hệ thống về mảng văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh với các đặc điểm cơ bản và những biến đổi nội tại đặc trưng của nó. Từ các lí do chọn đề tài trên đây, người viết hi vọng qua luận văn "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975" có thể giúp người đọc xác lập một số đặc điểm cơ bản của văn học viết về chiến tranh sau 1975 trong sự đối sánh với văn học giai đoạn trước đó; đưa ra những kiến giải giúp người đọc phần nào hiểu rõ quy luật vận động nội tại của văn chương nói chung và văn học về chiến tranh nói riêng; từ đó khẳng định các giá trị nhân bản bền vững vốn là kết tinh của mảng văn học viết về chiến tranh trong những năm tháng hoà bình này. II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Sau chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975, lịch sử dân tộc ta đã mở sang một trang mới. Khi tiếng bom, tiếng súng đã lắng xuống thì cuộc sống thời bình mở ra với vô số những biến động của đời thường. Trước những đổi thay đó của môi trường sống, văn học tự thân cũng xuất hiện nhu cầu đổi mới. Được cổ vũ bởi tinh thần dân chủ của Đại hội Đảng VI, các cây bút sau 1975 đã có nhiều nỗ lực lao động nghệ thuật, tạo được những lối đi mới táo bạo, độc đáo, thoát khỏi lối mòn cũ của văn chương trước đây. Việc khuyến khích tự do, dân chủ trong sáng tác của Đảng thực tế đã đọc "lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ"[40], mở ra một giai đoạn văn nghệ mới mà ở đó nhà văn có thể tự tin bộc lộ cá tính, dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, cất lên tiếng nói cá nhân mà trước đây do phải "tự bạt chiều cao thấp đi cho khỏi chạm trần, tự ép khuôn khổ chiều ngang lại để khỏi kềnh càng"[40] trong cái hành lang văn nghệ vừa hẹp vừa thấp, nhà văn không có điều kiện thể hiện. Nằm trong sự vận động đổi mới chung của văn học sau 1975, tiểu thuyết viết về chiến tranh cũng có nhiều phương diện đổi mới mà sự chuyển hướng cảm hứng sáng tác là một phương diện cơ bản.Thông qua các sáng tác về chiến tranh thời kì này, các tác giả đã thể hiện nỗ lực bổ sung những phương diện hiện thực trước đây ít được đề cập tới như: những gay cấn của lịch sử, cái giá phải trả cho chiến thắng, số phận bi kịch của con người Đặt mảng văn học chiến tranh sau 1975 trong quá trình vận động đổi mới của văn học nước nhà, Giáo sư Hà Minh Đức khẳng định "Đại hội Đảng lần thứ VI đã mở ra một thời kì mới cho đất nước, cho sự đổi mới trong tư duy, bao gồm cả tư duy nghệ thuật. Thái độ thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất của các hiện tượng xã hội, tinh thần dân chủ được phát huy trong quá trình đổi mới đã tạo nên sự thúc đẩy lớn lao cho sự phát triển văn xuôi. Đề tài chiến tranh vẫn tiếp tục được miêu tả với nhiều bình diện, những tổn thất đau thương và số phận con người trong chiến tranh và sau chiến tranh"[48]. Nhận định trên của Giáo sư Hà Minh Đức đồng thời cũng là nhận định chung của giới phê bình sau 1975 khi bàn về những đổi mới của tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn này. Hàng loạt các tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975: "Nắng đồng bằng" (1977), "Miền cháy" (1977), "Năm 1975 họ đã sống như thế" (1978), "Đất trắng" (1979); đặc biệt là các tiểu thuyết ra đời trong thập kỉ 80 và 90: "Chim én bay" (1985), "Gió không thổi từ biển" (1985), "Mùa lá rụng trong vườn" (1985), "Nước mắt đỏ" (1988), "Tiễn biệt những ngày buồn" (1988), "Vòng tròn bội bạc" (1990), "Thân phận của tình yêu" (1990), "Ăn mày dĩ vãng" (1994) .đã mở ra những bình diện đổi mới đa dạng, phong phú, nhiều vẻ của mảng văn học chiến tranh mà sự đổi mới cảm hứng sáng tác là một bình diện tiêu biểu. Cũng như nhiều bình diện đổi mới khác của văn học sau 1975 nói chung và tiểu thuyết chiến tranh nói riêng, sự chuyển hướng cảm hứng sáng tác đã gây nhiều sự quan tâm, chú ý của giới nghiên cứu, phê bình. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về sự chuyển hướng cảm hứng sáng tạo này mới chỉ dừng lại trong giới hạn của bài báo, tham luận hay ý kiến, nhận định nhân các hội thảo bàn về văn học viết về chiến tranh. Ngoài các bài báo được đăng tải trên các tạp chí quen thuộc như Văn nghệ Quân đội, Văn nghệ, Tạp chí Văn học, đáng chú ý phải nói đến các tham luận được trình bày trong hội thảo "50 năm Văn học Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám" do khoa Ngữ Văn- Đại học Sư phạm, khoa Ngữ Văn- Đại học Tổng hợp cùng với trường viết văn Nguyễn Du và tạp chí Văn nghệ Quân đội phối hợp tổ chức tại Hà Nội ngày 3-6-1995. 44 báo cáo, tham luận của các nhà văn, nhà phê bình, nhà nghiên cứu văn học có tên tuổi như: Chu Lai, Xuân Thiều, Đinh Xuân Dũng, Lã Nguyên, Nguyễn Văn Long, Vương Trí Nhàn đã bàn luận đến nhiều vấn đề của tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 ở cả phương diện tích cực và tiêu cực nhưng cơ bản vẫn đặc biệt lưu tâm đến sự chuyển hướng cảm hứng sáng tác của nhà văn. Năm 1990, tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" của Bảo Ninh được trao giải thưởng Hội nhà văn đã dấy lên một làn sóng tranh luận với nhiều ý kiến khen- chê. Ngày 24-8-1991, tuần báo Văn nghệ tổ chức thảo luận về tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" của Bảo Ninh với sự góp mặt tham dự của: Trần Đình Sử, Nguyên Ngọc, Vũ Quần Phương, Chu Lai, Từ Sơn. Ngoài các ý kiến được đăng tải trên báo chí, các tham luận được trình bày trong các hội thảo, vấn đề cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 cũng được đề cập tới rải rác trong các công trình nghiên cứu về văn xuôi giai đoạn này, tiêu biểu có thể kể đến luận án "Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật sau 1975" của Tiến sĩ Nguyễn Thị Bình. Qua các công trình nghiên cứu của mình, các nhà nghiên cứu đều khẳng định có sự xuất hiện của cảm hứng bi kịch trong các sáng tác viết về chiến tranh sau chiến tranh ở mức độ đậm nhạt khác nhau. Có thể nhận thấy dấu ấn của cảm hứng này trên nhiều bình diện của tiểu thuyết sau 1975 như: hướng tiếp cận hiện thực, việc miêu tả số phận con người hay nghệ thuật xây dựng tình huống, tạo dựng giọng điệu Khảo sát tiểu thuyết sau 1975, các nhà nghiên cứu đều nhận thấy khi miêu tả, tái hiện hiện thực, các cây bút tiểu thuyết đều bộc lộ một nhu cầu "được thành thực" hết sức mãnh liệt. Chiến tranh vì thế không còn được mô tả trong vị thế độc tôn của cảm hứng lãng mạn ngợi ca, mà được tái hiện lại bằng sự trải nghiệm có tính cá nhân, cá thể, gắn với những đau thương mất mát có thực mà nó gây ra cho con người. Nói cách khác, "nhà văn coi mình có nhiệm vụ hấp dẫn là mổ xẻ thực tế chiến tranh, tìm đến các mặt khác nhau của hiện thực chiến tranh, dù đó là anh hùng hay hèn nhát, niềm vui hay nỗi buồn, chiến công hay thất bại, chiến thắng và những cái giá phải trả cho chiến thắng, không chỉ phải trả ngay trong chiến tranh, mà còn phải tiếp tục phải trả cả những năm dài sau chiến tranh"[42]. Đồng tình với ý kiến của Đinh Xuân Dũng, Ngô Thảo trong bài "Thử nhìn lại mức độ chân thực của các tác phẩm viết về chiến tranh và quân đội" cũng khẳng định "Không mô tả những chi tiết nặng nề bi thảm của chiến tranh là xuyên tạc bộ mặt thật của chiến tranh trong ý thức loài người"[73]. Việc đào xới sâu vào những góc khuất của hiện thực, dũng cảm nói lên những sự thật có thực trong cuộc chiến tranh vừa qua của dân tộc như tâm lí hoang mang, dao động, nỗi bi quan, chán nản, sự thương vong, chết chóc. đã chứng tỏ nỗ lực cố gắng khắc phục sự phiến diện trong cách tiếp cận hiện thực chiến tranh của văn học trước đó. Nỗ lực đổi mới hướng tiếp cận hiện thực này được giới phê bình đánh giá cao song đồng thời cũng chỉ ra nhiều nhược điểm, hạn chế. Lê Thành Nghị trong bài "Tiểu thuyết viết về chiến tranh, mấy ý kiến góp bàn" cho rằng nhiều tác giả đã có "những nỗ lực quá đà" và "để khắc phục sư phiến diện, không phải trước đây viết về anh hùng thì lúc này viết về phi anh hùng, trước đây viết về cái tích cực, lúc này viết về cái tiêu cực ( ). Không nên cho rằng viết về cái tiêu cực mới là viết về sự thật, mới là "dám" viết sự thật"[69.172]. Nhận xét về hướng khám phá hiện thực của tiểu thuyết chiến tranh nói riêng và văn xuôi viết về chiến tranh sau 1975 nói chung, Xuân Thiều một mặt khẳng định: "đã có những nét mới trong cách nhìn nhận đánh giá hiện thực trong chiến tranh trung thực hơn, mạnh dạn hơn", song mặt khác cũng thừa nhận: "bên cạnh những quan điểm đổi mới đích thực lành mạnh đã xuất hiện những quan điểm cực đoan, mà nguy hại nhất là quan điểm phủ định quá khứ ( ), vẽ lên những khung cảnh ảm đạm giả tạo, nặn lên những nhân vật trong chiến tranh như những con thú nhằm khơi dậy sự uỷ mị, chán ngán"[69.145]. Cũng một quan điểm như vậy, Hồ Phương nhận định rằng nhiều tác giả hôm nay "không hề né tránh tất cả sự tàn khốc của chiến cuộc tranh. Viết về những nội dung tàn khốc ấy, các tác giả có ước muốn qua đó có thể làm rõ hơn, sống động hơn sức chịu đựng, lòng hi sinh của con người, cũng như làm cho cái giá và ý nghĩa của chiến thắng được thấy rõ hơn( ). Viết về sự tàn khốc của chiến tranh là điều cần phải làm, nhưng viết như thế nào để không là mờ mất tính chất của cuộc kháng chiến ấy, để cuối cùng người đọc có thể chỉ thấy toàn chuyện chết chóc, ghê sợ và muốn chối bỏ"[69.153] Bên cạnh các ý kiến khái quát, mang tính nhận định chung về hướng tiếp cận hiện thực chiến tranh của văn xuôi sau 1975 nói chung và tiểu thuyết nói riêng, giới nghiên cứu phê bình cũng thể hiện những đáng giá, nhận định cụ thể ở nhiều tác phẩm. Điều này được thể hiện trong các cuộc tranh luận khá sôi nổi xung quanh các tiểu thuyết: "Đất trắng" (Nguyễn Trọng Oánh), "Ăn mày dĩ vãng", "Vòng tròn bội bạc"(Chu Lai), "Thân phận của tình yêu" (Bảo Ninh) Với việc phản ánh một cuộc chiến tranh đầy khốc liệt, tổn thất và những mầm mống của những dao động, phản bội đã xuất hiện ở một số nhân vật có cấp bậc cao, ngay từ khi mới ra mắt bạn đọc, "Đất trắng" (1977) của Nguyễn Trọng Oánh đã vấp phải luồng sóng phê phán mạnh mẽ. Tuy nhiên, cùng với thời gian - đặc biệt là tác động của phong trào đổi mới văn học sau 1975, giới phê bình đã có những đánh giá công bằng hơn về tiểu thuyết này. Giải thưởng Hội nhà văn được trao cho "Đất trắng" sau đó đã khẳng định giá trị của tác phẩm cũng như sự thành công trong hướng tìm tòi, khám phá hiện thực chiến tranh mới mẻ của nhà văn Tiểu thuyết chiến tranh của Chu Lai sau 1975 thực tế cũng gây nhiều tranh luận với những luồng ý kiến khác nhau, song chủ yếu vẫn là khen ngợi. "Qua những cuốn sách gần đây viết về chiến tranh", nhà phê bình Lê Thành Nghị nhận thấy Chu Lai "đã không ngần ngại đưa ra ánh sáng những điều lâu nay còn dấu kín"[74]. Bùi Việt Thắng trong bài "Một cách tái hiện chiến tranh" cũng nhận định: "Viết về chiến tranh còn có ý nghĩa là viết về hậu quả của nó( ) Vòng tròn bội bạc của Chu Lai xoáy vào những vết thương của chiến tranh trong lòng người và cách thức của con người chữa trị những vết thương đó" [83]. Khảo sát các tiểu thuyết chiến tranh và tập truyện "Phố nhà binh" của Chu Lai PGS – TS Lý Hoài Thu khẳng định: "Dù trực tiếp viết về dĩ vãng mù mịt bom đạn hay chuyển dịch sang tiếp cận những "kênh" thông tin mới xô bồ của thời hiện tại, bao giờ Chu Lai cũng nghiền ngẫm suy tư về hiện thực với sự nhiệt tâm và trung thực của người lính" [85]. Nhận thức được rằng "chiến tranh đối với bất cứ dân tộc nào, dù chính nghĩa hay phi nghĩa, cũng không sao tránh khỏi màu sắc bi kịch" (Chu Lai), các cây bút sau 1975 không ngại ngần khi đề cập đến những đau thương, mất mát mà chiến tranh đem lại. Tuy nhiên phần đông các tác phẩm khai phá mảng đề tài chiến tranh này dẫu có thể hiện cái bi, các buồn thì vẫn được nâng đỡ bởi chất "tráng", chất "hùng" nên bi kịch mà vẫn lạc quan, buồn đau mà không tàn lụi niềm tin. Bảo Ninh tạo ra một sự khác biệt khi viết "Thân phận của tình yêu"- đó là sự bao trùm của hứng thú viết về nỗi buồn, của cảm hứng bi kịch. Từ vị thế của một nạn nhân khốn khổ, hiện thực chiến tranh đã được nhà văn miêu tả với toàn bộ tính phi nhân gớm guốc của nó. Với cách nhìn hiện thực chiến tranh đậm màu sắc bi kịch của nhà văn, xung quanh tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" đã nổ ra nhiều cuộc tranh luận gay gắt với những ý kiến khen chê khá quyết liệt. Trong cuộc thảo luận về "Thân phận của tình yêu" do báo Văn nghệ tổ chức ngày 24/8/1991, Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng Bảo Ninh "đã lộn trái cuộc chiến tranh ra để ta được nhìn vào cái phía trong bị che khuất" [72]. Đồng tình với Trần Đình Sử trong việc ủng hộ hướng khám phá, tiếp cận hiện thực của Bảo Ninh, nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định tác phẩm "là sự nghiền ngẫm về chiến thắng; nó chỉ cho chúng ta biết rằng chúng ta đã làm nên chiến công vĩ đại thắng Mỹ với cái giá ghê gớm biết chừng nào" [72]. Theo Nguyên Ngọc, miêu tả chiến tranh bằng cảm hứng bi kịch, chỉ ra những thảm cảnh đau thương, bi đát do chiến tranh mang lại, nhà văn muốn cất lên tiếng nói thống thiết: "phải sống sao hôm nay cho xứng đáng với quá khứ từng quá thiêng liêng và đau đớn như vậy". Đối lập với các ý kiến đồng tình, ủng hộ Bảo Ninh – Từ Sơn cho rằng: "Âm hưởng của tác phẩm còn đậm chất bi, âm hưởng hùng còn bị chìm lấp đâu đó, chưa tạo nên đầy đủ nét bi hùng của một thời đã qua"[72]. Vũ Quần Phương nhận thấy Bảo Ninh "đã đánh mất cái hào khí rất đẹp của năm tháng ấy, có thể nó ấu trĩ nhưng nó có. Có cảm giác tác giả có những điều không hài lòng nên có cái nhìn thiên kiến, có chỗ cực đoan" [72]. Sau cuộc hội thảo do báo Văn nghệ tổ chức, "Thân phận của tình yêu" vẫn tiếp tục là tâm điểm chú ý của nhiều bài viết trên các tờ báo, tạp chí trong suốt một thời gian dài. Đặt câu hỏi "Nghĩ gì khi đọc Thân phận của tình yêu" trên báo Văn nghệ số 43/1991, Đỗ Văn Khang thẳng thắn cho rằng "lẽ ra không nên in vội Thân phận của tình yêu". Hồ Phương tỏ ra khách quan hơn với nhận xét: "Nỗi buồn chiến tranh xứng đáng là một sự khai mở, với văn phong, với cấu trúc mới mẻ khác rất nhiều những tác phẩm về chiến tranh trước nó. Chỉ đáng tiếc cái nhìn của tác giả về cuộc kháng chiến lại quá buồn bã và cũng là đáng sợ hãi, kể cả cay đắng" [78]. Có thể nói, xuất bản năm 1991, tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu"đã gây "sốc" cho một bộ phận công chúng không nhỏ bởi chính bức tranh hiện thực tàn khốc, nghiệt ngã mà nhà văn miêu tả trong tác phẩm- thậm chí có người còn quyết liệt cho rằng không nên trao giải thưởng Hội nhà văn cho Bảo Ninh. Phản ứng này cũng là điều dễ hiểu khi lâu nay chúng ta đã quen với những trang viết hoành tráng, hào sảng về cuộc chiến tranh thần thánh vừa qua của cả dân tộc. Miêu tả chiến tranh bằng cái nhìn ít nhiều mang màu sắc bi kịch, các nhà văn đã đem đến cho văn học thời kì này âm hưởng lặng lẽ, khắc khoải của nỗi buồn chiến tranh mênh mang. Niềm đau u ẩn đó không phải là cái hư vô ảo ảnh mà được chạm khắc thành hình khối ngay trên thân phận bé nhỏ của con người. Nhân vật của tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 vì thế đã trở thành đối tượng gửi đi bức thông điệp u buồn của nhà văn tới tất cả bạn đọc. Nhận thấy sự thay đổi trong cách xây dựng nhân vật, tạo dựng hình tượng của tiểu thuyết sau 1975, Tôn Phương Lan khẳng định: "Càng lùi về cuối thập kỷ 80, sự thật trong văn chương viết về chiến tranh càng được biểu hiện theo một hướng khác ( ). Con người trở thành đối tượng khám phá của cả người viết lẫn người đọc, và hiện thực chiến tranh với đầy đủ tính chất ác liệt của nó đã được hiện lên qua số phận và thế giới nội tâm của con người ( ). Sắc thái của nhân vật trong văn xuôi chiến tranh có phong phú hơn và tính phản quang của đời sống thông qua hệ thống nhân vật đã làm cho văn xuôi trở nên sinh động" [63]. Cũng như Tôn Phương Lan, Hồ Phương nhận thấy một trong những tìm tòi không mệt mỏi của tác phẩm viết về chiến tranh sau 1975, đặc biệt là trong thập kỷ 80 và 90 là "những vấn đề về số phận con người đã được chú ý đào xới, khai thác một cách khá sâu sắc ( ). Gắn liền với việc viết sâu về tính cách và số phận con người trong chiến tranh, mặt bi kịch của chiến tranh cũng đã được miêu tả sâu sắc, chân thực hơn trước" [77]. Bàn về quan niệm và cách thể hiện con người trong văn xuôi sau 1975 khi trình bày "Mấy suy nghĩ về mảng văn học chiến tranh cách mạng" tại Hội thảo "50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám", Xuân Thiều nhận định: "Sự quan tâm của phần lớn các nhà văn viết về chiến tranh là âm vang chiến tranh, nghĩa là viết về số phận con người thời kì hậu chiến mà chiến tranh dù đã đi qua vẫn để lại những dấu ấn khó quên, chiến tranh đã đưa đẩy họ tới những nẻo bất ngờ, ở đấy có thể có niềm vui, nỗi buồn, có tình yêu thương và lòng căm thù, có lòng dũng cảm và tính đớn hèn, có lòng trung thành và những phút giây dao động" [69.140]. Như vậy, khi xem xét hệ thống nhân vật của tiểu thuyết chiến tranh sau 1975, giới nghiên cứu phê bình đều nhận thấy các cây bút thời kỳ này tỏ ra đặc biệt quan tâm đến số phận con người. Ở đó những bi kịch cá nhân riêng tư mà chiến tranh dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều để lại hậu quả đau lòng đã được nhà văn đề cập tới không ngần ngại. Phản ánh bộ mặt của chiến tranh qua thân phận con người, tiểu thuyết chiến tranh thời kì hậu chiến cho thấy dấu ấn của cảm hứng bi kịch không chỉ thể hiện qua bức tranh hiện thực toàn cảnh mà còn thể hiện ngay trong cuộc đời cụ thể của mỗi nhân vật trong tác phẩm. Khảo sát các tiểu thuyết viết về chiến tranh hôm nay, các nhà phê bình nhận thấy con người – nhân vật văn học đang trút bỏ "bộ cánh xã hội" của mình để trở về với bản chất tự nhiên, gắn với những quan hệ đời thường và những vui buồn giản dị của cuộc sống con người. Và vì thế âm hưởng ngợi ca lãng mạn không còn vị thế thống trị trong nền văn học nước nhà như trước đây. Điều này tác động đến sự thay đổi giọng điệu của văn học hôm nay nói chung và tiểu thuyết chiến tranh nói riêng. Hồ Phương cho rằng bên cạnh giọng say sưa lãng mạn "văn học hôm nay đã có những giọng dung dị và trầm tĩnh, có giọng thô mộc và dân dã, trong khi đó lại có những giọng rất bỗ bã, suồng sã, và có cả những giọng sát phạt, góc cạnh đã xuất hiện những giọng buồn sâu lắng, lắm lúc đến cay đắng" [69.135]. Sơ lược qua một số ý kiến, nhận định trên đây của một số nhà nghiên cứu, phê bình, người viết luận văn nhân thấy tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 thực sự trở thành tâm điểm chú ý của công chúng, khuấy động đời sống văn học vốn đang trở nên phẳng lặng sau chiến thắng oanh liệt 30 năm ồn ào đạn bom của dân tộc. Những ý kiến, nhận định đó rất phong phú, đa dạng đã bàn đến nhiều phương diện đổi mới của văn học chiến tranh sau 1975 - đặc biệt là sự chuyển hướng cảm hứng sáng tác được biểu hiện cụ thể qua cách nhìn về chiến tranh của nhà văn. Nhiều ý kiến đánh giá cao vị trí của mảng văn học này, ủng hộ sự đổi mới tìm tòi của các cây bút san 1975. Họ cho rằng nhà văn có quyền viết về nỗi buồn, về bi kịch và chính từ những bi kịch này mà hiện thực chiến tranh mới được tái hiện lại trong bản chất đích thực của nó. Tuy nhiên, bên cạnh những lời đồng tình, ủng hộ là những tiếng nói phê phán khá gay gắt, quyết liệt. Họ cho rằng các nhà tiểu thuyết sau 1975 đã cho ra đời những tác phẩm viết về chiến tranh theo khuynh hướng bóp méo hiện thực, chỉ tập trung đi tìm những mất mát, đau thương, bi thảm, éo le, độc ác xảy ra trong chiến tranh và coi đó là toàn bộ hiện thực chiến tranh. Như thế là phủ nhận ý nghĩa của cuộc kháng chiến gian lao mà vĩ đại vừa qua của cả dân tộc. Có một sự khách quan, công bằng hơn, nhiều nhà nghiên cứu – phê bình vừa nhận thấy chỗ mạnh đồng thời vừa nhìn thấy điểm yếu của tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975. Những nhà phê bình này cho rằng việc miêu tả chiến tranh bằng cái nhìn bi kịch khiến cho hiện thực chiến tranh hiện lên sắc nét, chân thực với mọi góc cạnh thô ráp, xù xì của nó – nhưng cũng lại đánh mất đi yếu tố chân thực quan trọng không kém khác: cái hùng, cái tráng là âm hưởng có thực của thời đại một thủa. Mặc dù còn nhiều luồng ý kiến khen chê khác nhau song người viết luận văn nhận thấy các ý kiến, nhận định của giới nghiên cứu – phê bình đều thừa nhận dấu ấn của cảm hứng bi kịch trong mảng văn học chiến tranh sau 1975 nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Tất nhiên, ở mỗi tác phẩm cụ thể cảm hứng bi kịch đó được biểu hiện ở những mức độ đậm nhạt khác nhau. Phá vỡ vị thế độc tôn của cảm hứng ngợi ca lãng mạn, sự xuất hiện của cảm hứng bi kịch trong văn học chiến tranh sau 1975 xét cho cùng là một tất yếu khi văn học đã hoàn thành chức năng lịch sử của mình và nhà văn với nhu cầu "được thành thực" đã có đủ độ lùi thời gian cần thiết để nghiền ngẫm lại hiện thực. Thừa nhận tính tất yếu, khách quan của sự chuyển hướng cảm hứng sáng tác trong văn học viết về chiến tranh sau 1975, các nhà nghiên cứu – phê bình cũng đồng thời quan tâm đến nhiều phương diện biểu hiện khác nhau của cảm hưng bi kịch. Bàn về các phương diện biểu hiện này, các ý kiến đánh giá, phân tích tương đối thống nhất khi cho rằng cảm hứng bi kịch được thể hiện thông qua toàn bộ chỉnh thể nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, từ cách miêu tả hiện thực, quan niệm về con người cho tới nghệ thuật xây dựng tình huống, bố trí không gian, thời gian, tạo dựng giọng điệu. Khảo sát tình hình nghiên cứu cảm hứng bi kịch trong văn học chiến tranh sau 1975, người viết luận văn nhận thấy đây là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Chọn đề tài "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975, người viết không có ý định khuấy động lại những tranh cãi mà chỉ muốn đưa ra quan điểm có tính cá nhân đồng thời cắt nghĩa, lí giải trong tính hệ thống các đặc điểm khu biệt của một mảng văn học mà ngay từ khi mới xuất hiện đã thu hút sự chú ý của đông đảo công chúng. Đây là điều mà không nhiều công trình nghiên cứu có quy mô đã làm được. Vấn đề cảm hứng bi kịch trong văn học chiến tranh sau 1975 đã được các nhà nghiên cứu đề cập tới từ rất sớm song khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo, một cuộc thảo luận, trao đổi, chỉ cho phép người nghiên cứu dừng lại ở việc nêu vấn đề chứ chưa thực sự nhìn nhận, xem xét, lí giải nó trong tính hệ thống. Đóng góp của luận văn này chính là việc đặt cảm hứng bi kịch của văn học chiến tranh sau 1975 trong sự vận động đổi mới của văn học dân tộc, xem xét quá trình vận động, phát triển cũng như các phương diện biểu hiện của nó , từ đó đem đến cho người đọc cái nhìn toàn diện về vị trí của mảng văn học này, đánh giá đúng những giá trị nhân văn, nhân bản cao đẹp vốn được ẩn kín trong mạch ngầm, đằng sau những đau thương, bi kịch mà chiến tranh mang lại. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.Đối tượng nghiên cứu: Với đề tài "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975, người viết luận văn không có tham vọng nghiên cứu toàn bộ các tiểu thuyết chiến tranh được sáng tác sau 1975 mà chỉ dừng lại khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu của văn học giai đoạn này. Mặt khác, những năm tháng sau ngày giải phóng, cái không khí hào hùng một thủa và niềm vui thắng trận vẫn tiếp tục làm con người ngây ngất. Bởi vậy các tiểu thuyết viết về chiến tranh ngay sau chiến tranh với cảm hứng chủ đạo là ngợi ca lãng mạn là chủ yếu, đã có sự xuất hiện của cảm hứng bi kịch song mới chỉ thấp thoáng đâu đó trong một vài tác phẩm. Kể từ sau Đại hội VI của Đảng với chủ trương "nhìn thẳng vào sự thật", cảm hứng bi kịch đã xuất hiện đậm nét hơn trong văn học. Từ thực tế sáng tác đó của các nhà văn, người viết luận văn chọn đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các tiểu thuyết chiến tranh thời kì đổi mới - đặc biệt là các tiểu thuyết ra đời trong thập kỷ 80 và 90. Đó là các tiểu thuyết: "Đất trắng" (1979), "Chim én bay" (1985),, "Nước mắt đỏ" (1988), "Tiễn biệt những ngày buồn" (1988), "Vòng tròn bội bạc" (1990), "Thân phận của tình yêu" (1990), "Phố" (1993), "Ăn mày dĩ vãng" (1994), Ngoài ra, để làm rõ hơn cảm hứng bi kịch trong văn học chiến tranh sau 1975, người viết luận văn mở rộng phạm vi khảo sát tới các truyện ngắn viết về chiến tranh thời kì này. Đó là chùm truyện ngắn viết về chiến tranh của Nguyễn Minh Châu (Bức tranh, Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bên đường chiến tranh, Mùa trái cóc ở miền Nam, Cơn giông ), 49 cây cơm nguội (Nguyễn Quang Lập), Người sót lại của rừng cười (Võ Thị Hảo), Tiếng vạc sành (Phạm Trung Khâu) 2. Phương pháp nghiên cứu: Thực hiện đề tài "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975", người viết đã sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp nghiên cứu để làm nổi bật cảm hứng bi kịch cũng như thể hiện chân xác các phương diện biểu hiện của nó: - Phương pháp so sánh, đối chiếu: Sử dụng phương pháp này, người viết đặt văn học viết về chiến tranh sau 1975 nói chung và tiểu thuyết nói riêng trong sự so sánh với văn học và tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn trước, từ đó nhận ra sự chuyển hướng cảm hứng sáng tác của nhà văn được thể hiện trên nhiều bình diện (quan niệm về hiện thực, về con người, tình huống, giọng điệu.) - Phương pháp phân tích: Với phương pháp phân tích, người viết đã đi sâu vào từng tác phẩm cụ thể, phân tích, thẩm bình từng chi tiết nghệ thuật. để làm nổi bật tính bi kịch tiềm tàng trong mỗi nhân vật, mỗi tình tiết. Phương pháp phân tích đã giúp người viết tiếp cận được với nhiều phương diện biểu hiện khác nhau của cảm hứng bi kịch. Đây là một phương pháp cơ bản mà luận văn đã sử dụng. - Phương pháp tổng hợp: Sử dụng phương pháp tổng hợp, người viết luận văn có được một cái nhìn toàn diện về mảng văn học mà luận văn quan tâm nghiên cứu. Phương pháp này giúp người viết rút ra được những đặc điểm cơ bản của cảm hứng bi kịch trong văn học chiến tranh sau 1975 cùng các phương diện biểu hiện của nó. IV.CẤU TRÚC LUẬN VĂN: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương I: Cảm hứng bi kịch trong cái nhìn về hiện thực. Chương II: Mối quan hoài về số phận con người. Chương III: Một số thủ pháp nghệ thuật thể hiện cảm hứng bi kịch.

doc124 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3453 | Lượt tải: 9download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đối với một dân tộc ngay từ thuở hồng hoang dựng nước và giữ nước đã luôn phải đương đầu với các cuộc chinh phạt của ngoại bang thì việc văn học đặc biệt lưu tâm tới đề tài chiến tranh cũng là điều dễ hiểu. Hiện thực đấu tranh chống ngoại xâm đã trở thành đối tượng khám phá và phản ánh của văn học như một tất yếu. Và 30 năm không ngừng tiếng bom, tiếng súng chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ vừa qua của cả dân tộc đã trở thành mảng hiện thực phong phú, có sức hấp dẫn không ít người cầm bút. Họ viết về chiến tranh ngay khi cuộc chiến còn đang diễn ra, họ viết về chiến tranh cả khi tiếng súng đã lắng lại và vòng nguyệt quế đã được đặt trên đầu người chiến thắng. Có thể nói, trong sự phát triển 50 năm của văn học hiện đại Việt Nam, mảng văn học về đề tài chiến tranh với nhiều thể loại: thơ ca, truyện ngắn, truyện vừa, kịch, kí, tiểu thuyết… chiếm vị trí rất quan trọng cả về số lượng lẫn chất lượng. Tiểu thuyết dường như đã phát huy được lợi thế về dung lượng khi tiếp cận mảng hiện thực trải dàn trên một không gian rộng lớn kéo dài từ Bắc tới Nam, từ cao nguyên tới đồng bằng, gắn với khoảng thời gian 30 năm không hề ngắn ngủi. Trước 1975 phải kể đến Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Hòn đất (Anh Đức), Gia đình má Bảy (Phan Tứ), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiến sĩ (Nguyễn Khải), Vùng trời (Hữu Mai)…Sau 1975 các tiểu thuyết viết về chiến tranh vẫn tiếp tục ra mắt công chúng: Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Năm 1975 họ đã sống như thế, Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Nắng đồng bằng, Ba lần và một lần, Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc (Chu Lai), Nước mắt đỏ (Trần Huy Quang), Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Chuyện làng Cuội (Lê Lựu)… Ở những tiểu thuyết này, chiến tranh dù được đề cập đến trực tiếp hay gián tiếp thì vẫn hướng tới mục đích tái hiện một thời kì lịch sử đầy sóng gió của dân tộc trong một cái nhìn mới từ cuộc sống hiện tại sau ngày giải phóng. Người viết luận văn chọn đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết viết về chiến tranh trước hết bởi đề tài chiến tranh là một đề tài lớn, đầy sức hấp dẫn của văn học nước nhà và tiểu thuyết là một thể loại đạt khá nhiều thành công khi khai thác mảng đề tài này. Chọn đề tài "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975", người viết xuất phát từ một thực tế rằng tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 đã có nhiều phương diện đổi mới so với tiểu thuyết trước 1975 mà trong đó sự thay đổi về cảm hứng sáng tác là một trong những phương diện đổi mới cơ bản. Trước 1975, chiến tranh được miêu tả bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn ngợi ca, bởi vậy tiểu thuyết thời kì này mang hơi thở của những bản hùng ca hào sảng, tự tin, đầy khí thế. Điều này cũng dễ hiểu khi văn chương được coi là vũ khí đắc lực để tiêu diệt kẻ thù, cổ vũ tinh thần chiến đấu của toàn quân, toàn dân. Vả chăng cái xôn xao, náo nức hào hùng đó cũng là là tâm lí chung của cả cộng đồng "những buổi vui sao cả nước lên đường" (Chính Hữu). Sau 1975, khi văn chương đã trút bỏ vai trò chính trị, trở lại với bản chất nghệ thuật đích thực của mình và nhà văn có đủ độ lùi thời gian cần thiết để nghiền ngẫm lại hiện thực… thì hứng thú viết về chiến tranh có sự vận động, biến đổi. Ở mức độ đậm nhạt khác nhau, trên nét lớn có thể thấy có một cảm hứng chung xuất hiện trong hầu hết các tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kì này: cảm hứng bi kịch. Trước đây, chúng ta nói nhiều đến chiến thắng, niềm vui, thì bây giờ, trong các trang viết sau ngày giải phóng, những mất mát đau thương vốn dĩ rất thường tình của chiến tranh được nhà văn phản ánh sống động, chân thực với đầy đủ vẻ gai góc của nó. Sự vận động của cảm hứng sáng tác về đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết sau 1975 đã đem lại cho tiểu thuyết nói riêng và văn học thời kì này nói chung một diện mạo mới. Đây cũng là lí do quan trọng thu hút người viết luận văn đến với đề tài "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau1975". Khảo sát tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975, người viết luận văn nhận thấy phần lớn các sáng tác có sự gặp gỡ chung là hứng thú viết về nỗi buồn, về sự mất mát, éo le. Chiến tranh không còn được nhìn bằng cái nhìn ngợi ca lãng mạn mà thay vào đó, những góc khuất đen tối, đau thương của hiện thực bắt đầu được bày lên trang viết của các cây bút sau 1975. Tuy nhiên, sự biến đổi cảm hứng sáng tác từ một đề tài lớn như vậy lại chưa được một công trình qui mô nào nghiên cứu. Hầu hết các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở cấp độ bài báo, tham luận hoặc ý kiến, nhận định… Ở đây, các phương diện biểu hiện của cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết về chiến tranh sau chiến tranh chưa được đề cập đến đầy đủ trong tính hệ thống. Giới hạn của một bài viết nhỏ buộc người viết chỉ có thể khảo sát sự biểu hiện đó ở một vài phương diện nhất định, ví dụ: hướng tiếp cận hiện thực, số phận con người, nghệ thuật xây dựng tình huống kịch… Với đề tài "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975", người viết luận văn mong muốn có thể đem đến cho bạn đọc một cái nhìn có tính hệ thống về mảng văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh với các đặc điểm cơ bản và những biến đổi nội tại đặc trưng của nó. Từ các lí do chọn đề tài trên đây, người viết hi vọng qua luận văn "Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu viết về chiến tranh sau 1975" có thể giúp người đọc xác lập một số đặc điểm cơ bản của văn học viết về chiến tranh sau 1975 trong sự đối sánh với văn học giai đoạn trước đó; đưa ra những kiến giải giúp người đọc phần nào hiểu rõ quy luật vận động nội tại của văn chương nói chung và văn học về chiến tranh nói riêng; từ đó khẳng định các giá trị nhân bản bền vững vốn là kết tinh của mảng văn học viết về chiến tranh trong những năm tháng hoà bình này. II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Sau chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975, lịch sử dân tộc ta đã mở sang một trang mới. Khi tiếng bom, tiếng súng đã lắng xuống thì cuộc sống thời bình mở ra với vô số những biến động của đời thường. Trước những đổi thay đó của môi trường sống, văn học tự thân cũng xuất hiện nhu cầu đổi mới. Được cổ vũ bởi tinh thần dân chủ của Đại hội Đảng VI, các cây bút sau 1975 đã có nhiều nỗ lực lao động nghệ thuật, tạo được những lối đi mới táo bạo, độc đáo, thoát khỏi lối mòn cũ của văn chương trước đây. Việc khuyến khích tự do, dân chủ trong sáng tác của Đảng thực tế đã đọc "lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ"[40], mở ra một giai đoạn văn nghệ mới mà ở đó nhà văn có thể tự tin bộc lộ cá tính, dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, cất lên tiếng nói cá nhân mà trước đây do phải "tự bạt chiều cao thấp đi cho khỏi chạm trần, tự ép khuôn khổ chiều ngang lại để khỏi kềnh càng"[40] trong cái hành lang văn nghệ vừa hẹp vừa thấp, nhà văn không có điều kiện thể hiện. Nằm trong sự vận động đổi mới chung của văn học sau 1975, tiểu thuyết viết về chiến tranh cũng có nhiều phương diện đổi mới mà sự chuyển hướng cảm hứng sáng tác là một phương diện cơ bản.Thông qua các sáng tác về chiến tranh thời kì này, các tác giả đã thể hiện nỗ lực bổ sung những phương diện hiện thực trước đây ít được đề cập tới như: những gay cấn của lịch sử, cái giá phải trả cho chiến thắng, số phận bi kịch của con người…Đặt mảng văn học chiến tranh sau 1975 trong quá trình vận động đổi mới của văn học nước nhà, Giáo sư Hà Minh Đức khẳng định "Đại hội Đảng lần thứ VI đã mở ra một thời kì mới cho đất nước, cho sự đổi mới trong tư duy, bao gồm cả tư duy nghệ thuật. Thái độ thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất của các hiện tượng xã hội, tinh thần dân chủ được phát huy trong quá trình đổi mới đã tạo nên sự thúc đẩy lớn lao cho sự phát triển văn xuôi. Đề tài chiến tranh vẫn tiếp tục được miêu tả với nhiều bình diện, những tổn thất đau thương và số phận con người trong chiến tranh và sau chiến tranh"[48]. Nhận định trên của Giáo sư Hà Minh Đức đồng thời cũng là nhận định chung của giới phê bình sau 1975 khi bàn về những đổi mới của tiểu thuyết chiến tranh giai đoạn này. Hàng loạt các tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975: "Nắng đồng bằng" (1977), "Miền cháy" (1977), "Năm 1975 họ đã sống như thế" (1978), "Đất trắng" (1979); đặc biệt là các tiểu thuyết ra đời trong thập kỉ 80 và 90: "Chim én bay" (1985), "Gió không thổi từ biển" (1985), "Mùa lá rụng trong vườn" (1985), "Nước mắt đỏ" (1988), "Tiễn biệt những ngày buồn" (1988), "Vòng tròn bội bạc" (1990), "Thân phận của tình yêu" (1990), "Ăn mày dĩ vãng" (1994)….đã mở ra những bình diện đổi mới đa dạng, phong phú, nhiều vẻ của mảng văn học chiến tranh mà sự đổi mới cảm hứng sáng tác là một bình diện tiêu biểu. Cũng như nhiều bình diện đổi mới khác của văn học sau 1975 nói chung và tiểu thuyết chiến tranh nói riêng, sự chuyển hướng cảm hứng sáng tác đã gây nhiều sự quan tâm, chú ý của giới nghiên cứu, phê bình. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về sự chuyển hướng cảm hứng sáng tạo này mới chỉ dừng lại trong giới hạn của bài báo, tham luận hay ý kiến, nhận định nhân các hội thảo bàn về văn học viết về chiến tranh. Ngoài các bài báo được đăng tải trên các tạp chí quen thuộc như Văn nghệ Quân đội, Văn nghệ, Tạp chí Văn học, đáng chú ý phải nói đến các tham luận được trình bày trong hội thảo "50 năm Văn học Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám" do khoa Ngữ Văn- Đại học Sư phạm, khoa Ngữ Văn- Đại học Tổng hợp cùng với trường viết văn Nguyễn Du và tạp chí Văn nghệ Quân đội phối hợp tổ chức tại Hà Nội ngày 3-6-1995. 44 báo cáo, tham luận của các nhà văn, nhà phê bình, nhà nghiên cứu văn học có tên tuổi như: Chu Lai, Xuân Thiều, Đinh Xuân Dũng, Lã Nguyên, Nguyễn Văn Long, Vương Trí Nhàn… đã bàn luận đến nhiều vấn đề của tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 ở cả phương diện tích cực và tiêu cực nhưng cơ bản vẫn đặc biệt lưu tâm đến sự chuyển hướng cảm hứng sáng tác của nhà văn. Năm 1990, tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" của Bảo Ninh được trao giải thưởng Hội nhà văn đã dấy lên một làn sóng tranh luận với nhiều ý kiến khen- chê. Ngày 24-8-1991, tuần báo Văn nghệ tổ chức thảo luận về tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" của Bảo Ninh với sự góp mặt tham dự của: Trần Đình Sử, Nguyên Ngọc, Vũ Quần Phương, Chu Lai, Từ Sơn... Ngoài các ý kiến được đăng tải trên báo chí, các tham luận được trình bày trong các hội thảo, vấn đề cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 cũng được đề cập tới rải rác trong các công trình nghiên cứu về văn xuôi giai đoạn này, tiêu biểu có thể kể đến luận án "Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật sau 1975" của Tiến sĩ Nguyễn Thị Bình. Qua các công trình nghiên cứu của mình, các nhà nghiên cứu đều khẳng định có sự xuất hiện của cảm hứng bi kịch trong các sáng tác viết về chiến tranh sau chiến tranh ở mức độ đậm nhạt khác nhau. Có thể nhận thấy dấu ấn của cảm hứng này trên nhiều bình diện của tiểu thuyết sau 1975 như: hướng tiếp cận hiện thực, việc miêu tả số phận con người hay nghệ thuật xây dựng tình huống, tạo dựng giọng điệu… Khảo sát tiểu thuyết sau 1975, các nhà nghiên cứu đều nhận thấy khi miêu tả, tái hiện hiện thực, các cây bút tiểu thuyết đều bộc lộ một nhu cầu "được thành thực" hết sức mãnh liệt. Chiến tranh vì thế không còn được mô tả trong vị thế độc tôn của cảm hứng lãng mạn ngợi ca, mà được tái hiện lại bằng sự trải nghiệm có tính cá nhân, cá thể, gắn với những đau thương mất mát có thực mà nó gây ra cho con người. Nói cách khác, "nhà văn coi mình có nhiệm vụ hấp dẫn là mổ xẻ thực tế chiến tranh, tìm đến các mặt khác nhau của hiện thực chiến tranh, dù đó là anh hùng hay hèn nhát, niềm vui hay nỗi buồn, chiến công hay thất bại, chiến thắng và những cái giá phải trả cho chiến thắng, không chỉ phải trả ngay trong chiến tranh, mà còn phải tiếp tục phải trả cả những năm dài sau chiến tranh"[42]. Đồng tình với ý kiến của Đinh Xuân Dũng, Ngô Thảo trong bài "Thử nhìn lại mức độ chân thực của các tác phẩm viết về chiến tranh và quân đội" cũng khẳng định "Không mô tả những chi tiết nặng nề bi thảm của chiến tranh là xuyên tạc bộ mặt thật của chiến tranh trong ý thức loài người"[73]. Việc đào xới sâu vào những góc khuất của hiện thực, dũng cảm nói lên những sự thật có thực trong cuộc chiến tranh vừa qua của dân tộc như tâm lí hoang mang, dao động, nỗi bi quan, chán nản, sự thương vong, chết chóc.. đã chứng tỏ nỗ lực cố gắng khắc phục sự phiến diện trong cách tiếp cận hiện thực chiến tranh của văn học trước đó. Nỗ lực đổi mới hướng tiếp cận hiện thực này được giới phê bình đánh giá cao song đồng thời cũng chỉ ra nhiều nhược điểm, hạn chế. Lê Thành Nghị trong bài "Tiểu thuyết viết về chiến tranh, mấy ý kiến góp bàn" cho rằng nhiều tác giả đã có "những nỗ lực quá đà" và "để khắc phục sư phiến diện, không phải trước đây viết về anh hùng thì lúc này viết về phi anh hùng, trước đây viết về cái tích cực, lúc này viết về cái tiêu cực (…). Không nên cho rằng viết về cái tiêu cực mới là viết về sự thật, mới là "dám" viết sự thật"[69.172]. Nhận xét về hướng khám phá hiện thực của tiểu thuyết chiến tranh nói riêng và văn xuôi viết về chiến tranh sau 1975 nói chung, Xuân Thiều một mặt khẳng định: "đã có những nét mới trong cách nhìn nhận đánh giá hiện thực trong chiến tranh trung thực hơn, mạnh dạn hơn", song mặt khác cũng thừa nhận: "bên cạnh những quan điểm đổi mới đích thực lành mạnh đã xuất hiện những quan điểm cực đoan, mà nguy hại nhất là quan điểm phủ định quá khứ (…), vẽ lên những khung cảnh ảm đạm giả tạo, nặn lên những nhân vật trong chiến tranh như những con thú nhằm khơi dậy sự uỷ mị, chán ngán"[69.145]. Cũng một quan điểm như vậy, Hồ Phương nhận định rằng nhiều tác giả hôm nay "không hề né tránh tất cả sự tàn khốc của chiến cuộc tranh. Viết về những nội dung tàn khốc ấy, các tác giả có ước muốn qua đó có thể làm rõ hơn, sống động hơn sức chịu đựng, lòng hi sinh của con người, cũng như làm cho cái giá và ý nghĩa của chiến thắng được thấy rõ hơn(…). Viết về sự tàn khốc của chiến tranh là điều cần phải làm, nhưng viết như thế nào để không là mờ mất tính chất của cuộc kháng chiến ấy, để cuối cùng người đọc có thể chỉ thấy toàn chuyện chết chóc, ghê sợ và muốn chối bỏ"[69.153] Bên cạnh các ý kiến khái quát, mang tính nhận định chung về hướng tiếp cận hiện thực chiến tranh của văn xuôi sau 1975 nói chung và tiểu thuyết nói riêng, giới nghiên cứu phê bình cũng thể hiện những đáng giá, nhận định cụ thể ở nhiều tác phẩm. Điều này được thể hiện trong các cuộc tranh luận khá sôi nổi xung quanh các tiểu thuyết: "Đất trắng" (Nguyễn Trọng Oánh), "Ăn mày dĩ vãng", "Vòng tròn bội bạc"(Chu Lai), "Thân phận của tình yêu" (Bảo Ninh)… Với việc phản ánh một cuộc chiến tranh đầy khốc liệt, tổn thất và những mầm mống của những dao động, phản bội đã xuất hiện ở một số nhân vật có cấp bậc cao, ngay từ khi mới ra mắt bạn đọc, "Đất trắng" (1977) của Nguyễn Trọng Oánh đã vấp phải luồng sóng phê phán mạnh mẽ. Tuy nhiên, cùng với thời gian - đặc biệt là tác động của phong trào đổi mới văn học sau 1975, giới phê bình đã có những đánh giá công bằng hơn về tiểu thuyết này. Giải thưởng Hội nhà văn được trao cho "Đất trắng" sau đó đã khẳng định giá trị của tác phẩm cũng như sự thành công trong hướng tìm tòi, khám phá hiện thực chiến tranh mới mẻ của nhà văn Tiểu thuyết chiến tranh của Chu Lai sau 1975 thực tế cũng gây nhiều tranh luận với những luồng ý kiến khác nhau, song chủ yếu vẫn là khen ngợi. "Qua những cuốn sách gần đây viết về chiến tranh", nhà phê bình Lê Thành Nghị nhận thấy Chu Lai "đã không ngần ngại đưa ra ánh sáng những điều lâu nay còn dấu kín"[74]. Bùi Việt Thắng trong bài "Một cách tái hiện chiến tranh" cũng nhận định: "Viết về chiến tranh còn có ý nghĩa là viết về hậu quả của nó(…) Vòng tròn bội bạc của Chu Lai … xoáy vào những vết thương của chiến tranh trong lòng người và cách thức của con người chữa trị những vết thương đó" [83]. Khảo sát các tiểu thuyết chiến tranh và tập truyện "Phố nhà binh" của Chu Lai… PGS – TS Lý Hoài Thu khẳng định: "Dù trực tiếp viết về dĩ vãng mù mịt bom đạn hay chuyển dịch sang tiếp cận những "kênh" thông tin mới xô bồ của thời hiện tại, bao giờ Chu Lai cũng nghiền ngẫm suy tư về hiện thực với sự nhiệt tâm và trung thực của người lính" [85]. Nhận thức được rằng "chiến tranh đối với bất cứ dân tộc nào, dù chính nghĩa hay phi nghĩa, cũng không sao tránh khỏi màu sắc bi kịch" (Chu Lai), các cây bút sau 1975 không ngại ngần khi đề cập đến những đau thương, mất mát mà chiến tranh đem lại. Tuy nhiên phần đông các tác phẩm khai phá mảng đề tài chiến tranh này dẫu có thể hiện cái bi, các buồn thì vẫn được nâng đỡ bởi chất "tráng", chất "hùng" nên bi kịch mà vẫn lạc quan, buồn đau mà không tàn lụi niềm tin. Bảo Ninh tạo ra một sự khác biệt khi viết "Thân phận của tình yêu"- đó là sự bao trùm của hứng thú viết về nỗi buồn, của cảm hứng bi kịch. Từ vị thế của một nạn nhân khốn khổ, hiện thực chiến tranh đã được nhà văn miêu tả với toàn bộ tính phi nhân gớm guốc của nó. Với cách nhìn hiện thực chiến tranh đậm màu sắc bi kịch của nhà văn, xung quanh tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu" đã nổ ra nhiều cuộc tranh luận gay gắt với những ý kiến khen chê khá quyết liệt. Trong cuộc thảo luận về "Thân phận của tình yêu" do báo Văn nghệ tổ chức ngày 24/8/1991, Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng Bảo Ninh "đã lộn trái cuộc chiến tranh ra để ta được nhìn vào cái phía trong bị che khuất" [72]. Đồng tình với Trần Đình Sử trong việc ủng hộ hướng khám phá, tiếp cận hiện thực của Bảo Ninh, nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định tác phẩm "là sự nghiền ngẫm về chiến thắng; nó chỉ cho chúng ta biết rằng chúng ta đã làm nên chiến công vĩ đại thắng Mỹ với cái giá ghê gớm biết chừng nào" [72]. Theo Nguyên Ngọc, miêu tả chiến tranh bằng cảm hứng bi kịch, chỉ ra những thảm cảnh đau thương, bi đát do chiến tranh mang lại, nhà văn muốn cất lên tiếng nói thống thiết: "phải sống sao hôm nay cho xứng đáng với quá khứ từng quá thiêng liêng và đau đớn như vậy". Đối lập với các ý kiến đồng tình, ủng hộ Bảo Ninh – Từ Sơn cho rằng: "Âm hưởng của tác phẩm còn đậm chất bi, âm hưởng hùng còn bị chìm lấp đâu đó, chưa tạo nên đầy đủ nét bi hùng của một thời đã qua"[72]. Vũ Quần Phương nhận thấy Bảo Ninh "đã đánh mất cái hào khí rất đẹp của năm tháng ấy, có thể nó ấu trĩ nhưng nó có. Có cảm giác tác giả có những điều không hài lòng nên có cái nhìn thiên kiến, có chỗ cực đoan" [72]. Sau cuộc hội thảo do báo Văn nghệ tổ chức, "Thân phận của tình yêu" vẫn tiếp tục là tâm điểm chú ý của nhiều bài viết trên các tờ báo, tạp chí trong suốt một thời gian dài. Đặt câu hỏi "Nghĩ gì khi đọc Thân phận của tình yêu" trên báo Văn nghệ số 43/1991, Đỗ Văn Khang thẳng thắn cho rằng "lẽ ra không nên in vội Thân phận của tình yêu". Hồ Phương tỏ ra khách quan hơn với nhận xét: "Nỗi buồn chiến tranh xứng đáng là một sự khai mở, với văn phong, với cấu trúc mới mẻ khác rất nhiều những tác phẩm về chiến tranh trước nó. Chỉ đáng tiếc cái nhìn của tác giả về cuộc kháng chiến lại quá buồn bã và cũng là đáng sợ hãi, kể cả cay đắng" [78]. Có thể nói, xuất bản năm 1991, tiểu thuyết "Thân phận của tình yêu"đã gây "sốc" cho một bộ phận công chúng không nhỏ bởi chính bức tranh hiện thực tàn khốc, nghiệt ngã mà nhà văn miêu tả trong tác phẩm- thậm chí có người còn quyết liệt cho rằng không nên trao giải thưởng Hội nhà văn cho Bảo Ninh. Phản ứng này cũng là điều dễ hiểu khi lâu nay chúng ta đã quen với những trang viết hoành tráng, hào sảng về cuộc chiến tranh thần thánh vừa qua của cả dân tộc. Miêu tả chiến tranh bằng cái nhìn ít nhiều mang màu sắc bi kịch, các nhà văn đã đem đến cho văn học thời kì này âm hưởng lặng lẽ, khắc khoải của nỗi buồn chiến tranh mênh mang. Niềm đau u ẩn đó không phải là cái hư vô ảo ảnh mà được chạm khắc thành hình khối ngay trên thân phận bé nhỏ của con người. Nhân vật của tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 vì thế đã trở thành đối tượng gửi đi bức thông điệp u buồn của nhà văn tới tất cả bạn đọc. Nhận thấy sự thay đổi trong cách xây dựng nhân vật, tạo dựng hình tượng của tiểu thuyết sau 1975, Tôn Phương Lan khẳng định: "Càng lùi về cuối thập kỷ 80, sự thật trong văn chương viết về chiến tranh càng được biểu hiện theo một hướng khác (…). Con người trở thà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van chinh thuc1.doc
Luận văn liên quan