Trong thếkỉ 20 người ta đã tìm ra nhiều vật liệu tốt phục vụcho lĩnh vực quang,
đặc biệt là ZnS, rồi đến vật liệu ZnS pha tạp Cu, Mn. Tuy nhiên những vật liệu mới ra
đời đó cũng không đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của con người ngày càng tăng, nên cần
thiết phải có những vật liệu mới tiên tiến hơn thay thếchúng (khuyết điểm của những vật
liệu này là cường độhuỳnh quang chưa thật sựmạnh, màu sắc bị giới hạn, thời gian phát
quang ngắn,.).
Với sựphát triển của khoa học công nghệ, yêu cầu được đặt ra là phải chếtạo vật
liệu phát quang có thểtạo nhiều màu sắc, hiệu suất cao, tính ổn định cao,. nhưng dù vật
liệu khối ZnS pha tạp hay không pha tạp cũng đã không đáp ứng được tất cảcác nhu cầu,
đòi hỏi đó. May mắn thay, sựphát hiện cấu trúc nano vào giữa thếkỉ trước đã dẫn đến sự
ra đời của vật liệu hoàn toàn mới – vật liệu nano, mởra một cuộc đại cách mạng thật sự
vềkhoa học vật liệu, với những ứng dụng chưa từng có và còn nhiều điều hứa hẹn ở đàng
sau do công nghệ nano đem lại mà ta không lường hết được. Một trong những ứng dụng
của vật liệu nano là ứng dụng vềcông nghệchiếu sáng mà đặc biệt là các thiết bị điện
huỳnh quang. ỞViệt Nam, đã có nhiều nghiên cứu, nhiều bài báo viết vềvấn đềvật liệu
nền phát quang này (người ta đã tiến hành pha tạp ZnS : Cu
2+
, ZnS : Mn
2+
, ZnS : Ni
2+
,.)
nhưng chưa thấy có bài báo nào viết vềviệc đồng pha tạp Mn, Ni. Do đó với mục đích
tìm hiểu thêm nhiều kiến thức vềlĩnh vực còn nhiều mới mẻnày nên tôi tiến hành khảo
sát việc đồng pha tạp Mn
2+
, Ni
2+
vào ZnS.
34 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3818 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chế tạo và nghiên cứu tính chất phát quang của hạt nano ZnS - Ni2+, Mn2+, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘMÔN VẬT LÍ
Luận văn tốt nghiệp
CHẾ TẠO VÀ NGHIÊN CỨU
TÍNH CHẤT PHÁT QUANG CỦA
HẠT NANO ZnS : Ni2+, Mn2+
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Th.S. Lê Văn Nhạn Dương Thành Nhân
SP Vật lí K31
Th.S. Nguyễn Trí Tuấn MSSV: 1050152
Cần Thơ, ngày 10 tháng 5 năm 2009
Chế tạo và nghiên cứu tính chất phát quang của hạt nano ZnS : Ni2+ – Mn2+ 1
Trang | 1 DƯƠNG THÀNH NHÂN
Sư phạm Vật lí K31
Lí do chọn đề tài:
Trong thế kỉ 20 người ta đã tìm ra nhiều vật liệu tốt phục vụ cho lĩnh vực quang,
đặc biệt là ZnS, rồi đến vật liệu ZnS pha tạp Cu, Mn..... Tuy nhiên những vật liệu mới ra
đời đó cũng không đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của con người ngày càng tăng, nên cần
thiết phải có những vật liệu mới tiên tiến hơn thay thế chúng (khuyết điểm của những vật
liệu này là cường độ huỳnh quang chưa thật sự mạnh, màu sắc bị giới hạn, thời gian phát
quang ngắn,...).
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, yêu cầu được đặt ra là phải chế tạo vật
liệu phát quang có thể tạo nhiều màu sắc, hiệu suất cao, tính ổn định cao,.... nhưng dù vật
liệu khối ZnS pha tạp hay không pha tạp cũng đã không đáp ứng được tất cả các nhu cầu,
đòi hỏi đó. May mắn thay, sự phát hiện cấu trúc nano vào giữa thế kỉ trước đã dẫn đến sự
ra đời của vật liệu hoàn toàn mới – vật liệu nano, mở ra một cuộc đại cách mạng thật sự
về khoa học vật liệu, với những ứng dụng chưa từng có và còn nhiều điều hứa hẹn ở đàng
sau do công nghệ nano đem lại mà ta không lường hết được. Một trong những ứng dụng
của vật liệu nano là ứng dụng về công nghệ chiếu sáng mà đặc biệt là các thiết bị điện
huỳnh quang. Ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu, nhiều bài báo viết về vấn đề vật liệu
nền phát quang này (người ta đã tiến hành pha tạp ZnS : Cu2+, ZnS : Mn2+, ZnS : Ni2+,...)
nhưng chưa thấy có bài báo nào viết về việc đồng pha tạp Mn, Ni. Do đó với mục đích
tìm hiểu thêm nhiều kiến thức về lĩnh vực còn nhiều mới mẻ này nên tôi tiến hành khảo
sát việc đồng pha tạp Mn2+, Ni2+ vào ZnS.
Mục tiêu của đề tài:
– Chế tạo các tinh thể nano ZnS : Ni, Mn.
– Đo phổ tán sắc năng lượng EDS (xác định thành phần tỉ đối của các nguyên tố xuất
hiện trong mẫu).
– Xác định kích thước hạt qua phép đo nhiễu xạ tia X.
– Chụp ảnh mẫu tinh thể bằng kính hiện vi điện tử (xác định hình dạng hạt).
– Đo phổ huỳnh quang của mẫu (xác định bước sóng huỳnh quang của mẫu).
Chế tạo và nghiên cứu tính chất phát quang của hạt nano ZnS : Ni2+ – Mn2+ 2
Trang | 2 DƯƠNG THÀNH NHÂN
Sư phạm Vật lí K31
Chương 1:
TỔNG QUAN
Từ xa xưa vấn đề thắp sáng đã được con người rất quan tâm (chẳng ai muốn sống
trong bóng tối khi đêm đến), từ việc biết sử dụng lửa để thắp sáng bằng củi khô của hàng
trăm nghìn năm trước, rồi sử dụng mỡ động vật để làm nguyên liệu, cho đến những ngọn
nến, đèn dầu,.... và việc phát minh bóng đèn dây tóc của Edison đã mở ra một cuộc cách
mạng về chiếu sáng. Cùng với sự phát triển của xã hội, con người đã cố gắng tìm ra nhiều
loại nguyên vật liệu mới ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn phục vụ cho lĩnh vực chiếu
sáng. Thông thường có hai cách tạo ra ánh sáng đó là sự nóng sáng (nếu ta đốt nóng một
vật tới nhiệt độ đủ cao thì nó sẽ phát sáng) và sự phát quang. Trong phạm vi bài viết này
chúng ta quan tâm đến sự phát quang, và tìm hiểu sơ lược về vật liệu phát quang tiên tiến.
1. Sơ lược về công nghệ nano và vật liệu nano:
1.1. Công nghệ nano:
Công nghệ nano là ngành công nghệ liên quan đến việc thiết kế, phân tích,
chế tạo và ứng dụng các cấu trúc, thiết bị và hệ thống bằng việc điều khiển hình dạng,
kích thước cỡ nanomet (1nm = 10-9 m). Ranh giới giữa công nghệ nano và khoa học nano
đôi khi không rõ ràng, tuy nhiên chúng đều có chung đối tượng là vật liệu nano.
1.2. Cơ sở khoa học của công nghệ nano:
1.2.1. Sự chuyển tiếp từ cổ điển sang lượng tử:
Chính kích thước rất nhỏ của các cấu trúc nano đã đem đến nhiều tính chất
vật lí khác xa so với vật thể khối. Bài toán một nguyên tử, phân tử là bài toán lượng tử,
đối với các cấu trúc micro trở lên số nguyên tử chứa trong nó là rất lớn (khối lập phương
có cạnh 1µm đã chứa tới 1012 nguyên tử) nên các hiệu ứng lượng tử bị trung bình hóa và
có thể bỏ qua các thăng giáng ngẫu nhiên, do đó bài toán với các cấu trúc micro trở lên
trở thành bài toán cổ điển. Nhưng các cấu trúc nano chứa một số lượng các nguyên tử ít
đến mức thậm chí chỉ cần thêm hoặc bớt 1 nguyên tử đã có thể làm thay đổi tính chất của
cấu trúc, bởi vậy việc ứng dụng vật lí lượng tử để khảo sát bài toán là cần thiết, và khi đó
các quy luật lượng tử “khó chịu” sẽ tạo nên sự khác biệt cho cấu trúc nano. Ví dụ: một
chấm lượng tử (quantum dot – QD) có thể xem như một đại nguyên tử và cũng có các
mức năng lượng gián đoạn (năng lượng của hạt bị lượng tử hóa là một đặc trưng của thế
giới lượng tử).
Chế tạo và nghiên cứu tính chất phát quang của hạt nano ZnS : Ni2+ – Mn2+ 3
Trang | 3 DƯƠNG THÀNH NHÂN
Sư phạm Vật lí K31
1.2.2. Hiệu ứng bề mặt:
Khi vật liệu có kích thước nm, số nguyên tử nằm trên bề mặt sẽ chiếm tỉ lệ
đáng kể so với tổng số nguyên tử. Chính vì vậy các hiệu ứng có liên quan đến bề mặt, gọi
tắt là hiệu ứng bề mặt sẽ trở nên quan trọng làm cho tính chất của vật liệu có kích thước
nano khác biệt so với vật liệu ở dạng khối. Mặt khác, năng lượng liên kết của nguyên tử
bề mặt bị hạ thấp một cách đáng kể vì chúng không được liên kết một cách đầy đủ. Vì
vậy, các hạt nano có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn so với vật liệu khối của chúng.
1.2.3. Hiệu ứng kích thước:
Khi giảm kích thước của vật thể xuống đến kích thước nano thì các đại
lượng đặc trưng cho vật như độ dẫn điện, nhiệt nóng chảy,.... không còn là hằng số nữa
mà chúng sẽ thay đổi theo kích thước, người ta gọi đó là hiệu ứng kích thước.
Khi hạt dẫn và các trạng thái kích thích bị giam giữ trong cả 3 chiều của
vật liệu có kích thước nano – chấm lượng tử (QD). Do 3 chiều của QD bị giới hạn, theo
cơ học lượng tử người ta tính được năng lượng của điện tử trong QD là:
Nếu chấm lượng tử có dạng lập phương cạnh a:
2
222
chiêu1 2
3
3
ma
n
EE
Nếu chấm lượng tử có dạng cầu đường kính là a:
2
2222
ma
n
E
Vì 3
3
23
4
aV
a
V lpc
nên chúng ta có thể kết luận rằng, kích thước vật liệu nano
càng nhỏ (kích thước QD càng nhỏ), các hạt tải điện bị giam giữ càng mạnh thì khoảng
cách giữa hai mức năng lượng liên tiếp càng riêng biệt (lượng tử hóa càng mạnh
nn EEE 1 càng lớn). Khi đó khoảng cách giữa hai vùng năng lượng – chính là
vùng cấm (sẽ xem xét rõ hơn ở phần sau – 4.1) càng rộng.
1.2.4. Hiệu ứng xuyên hầm:
Hiện tượng xuyên hầm lượng tử là hiện tượng các electron bằng các cơ
chế của cơ học lượng tử đã “đi xuyên” qua được bờ rào thế năng chắn giữa hai vùng chứa
electron ngay cả khi động năng của electron thấp hơn chiều cao của rào thế. Điều này
cũng tựa như việc bạn sẽ vô cùng ngạc nhiên khi thấy một chiếc xe chạy xuyên qua bức
tường mà không gây ra một thiệt hại nào. Dĩ nhiên đó chỉ là hình ảnh so sánh, đừng có hy
vọng chuyện này sẽ xảy ra với một chiếc xe thật.
Chế tạo và nghiên cứu tính chất phát quang của hạt nano ZnS : Ni2+ – Mn2+ 4
Trang | 4 DƯƠNG THÀNH NHÂN
Sư phạm Vật lí K31
1.3. Vật liệu nano:
Vật liệu nano là vật liệu trong đó ít nhất một chiều có kích thước nano mét.
Về trạng thái của vật liệu, người ta phân chia thành ba trạng thái, rắn, lỏng và khí. Vật
liệu nano được tập trung nghiên cứu hiện nay, chủ yếu là vật liệu rắn, sau đó mới đến
chất lỏng và khí. Về hình dáng vật liệu, người ta phân ra thành các loại sau:
Vật liệu nano không chiều (cả ba chiều đều có kích thước nano, không còn
chiều tự do nào cho điện tử), ví dụ: đám nano, hạt nano...
Vật liệu nano một chiều là vật liệu trong đó hai chiều có kích thước nano,
điện tử được tự do trên một chiều, ví dụ: dây nano, ống nano,...
Vật liệu nano hai chiều là vật liệu trong đó một chiều có kích thước nano,
hai chiều tự do, ví dụ: màng mỏng nano,...
Ngoài ra còn có vật liệu có cấu trúc nano hay nanocomposite trong đó chỉ
có một phần của vật liệu có kích thước nm, hoặc cấu trúc của nó có nano
không chiều, một chiều, hai chiều đan xen lẫn nhau.
1.4. Chế tạo vật liệu nano:
Vật liệu nano được chế tạo bằng hai phương pháp: phương pháp từ trên
xuống (top–down) và phương pháp từ dưới lên (bottom–up). Phương pháp từ trên xuống
là phương pháp tạo hạt kích thước nano từ các hạt có kích thước lớn hơn; phương pháp từ
dưới lên là phương pháp hình thành hạt nano từ các nguyên tử. Ở đây ta chỉ chú ý đến
phương pháp kết tủa (thuộc phương pháp từ dưới lên) là phương pháp được sử dụng để
tạo vật liệu nano trong quá trình thực hiện đề tài này.
1.4.1. Phương pháp từ trên xuống:
Nguyên lý: dùng kỹ thuật nghiền để biến vật liệu có kích thước lớn về kích
thước nano. Đây là các phương pháp đơn giản, rẻ tiền và rất hiệu quả, có thể chế tạo được
một lượng lớn vật liệu nhưng tính đồng nhất của vật liệu không cao. Trong phương pháp
nghiền, vật liệu ở dạng bột được trộn lẫn với những viên bi được làm từ các vật liệu rất
cứng và đặt trong một cái cối. Máy nghiền có thể là nghiền lắc, nghiền rung hoặc nghiền
quay (nghiền kiểu hành tinh). Các viên bi cứng va chạm vào nhau và phá vỡ bột đến kích
thước nano. Ngoài ra, hiện nay người ta thường dùng các phương pháp quang khắc để tạo
ra các cấu trúc nano phức tạp.
Chế tạo và nghiên cứu tính chất phát quang của hạt nano ZnS : Ni2+ – Mn2+ 5
Trang | 5 DƯƠNG THÀNH NHÂN
Sư phạm Vật lí K31
1.4.2. Phương pháp từ dưới lên:
Nguyên lý: hình thành vật liệu nano từ các nguyên tử hoặc ion. Phương
pháp từ dưới lên được phát triển rất mạnh mẽ vì tính linh động và chất lượng của sản
phẩm cuối cùng. Phần lớn các vật liệu nano mà chúng ta dùng hiện nay được chế tạo từ
phương pháp này. Phương pháp từ dưới lên có thể là phương pháp vật lý, hóa học hoặc
kết hợp hóa – lý. Một số cách tạo vật liệu nano thuộc phương pháp từ dưới lên là: phương
pháp sol – gel, phương pháp kết tủa (có hai phương pháp đó là phương pháp kết tủa từ
dung dịch đồng nhất dưới các điều kiện nhất định và kết tủa từ khí hơi khi một hóa chất
ban đầu bị phân li. Ta sẽ chỉ quan tâm đến phương pháp thứ nhất); phương pháp điện
phân, phương pháp ngưng tụ từ pha khí (kết hợp hóa – lý).
Phương pháp kết tủa từ dung dịch:
+ Khi nồng độ của chất đạt đến một trạng thái bão hòa tới hạn, trong dung dịch
sẽ xuất hiện đột ngột những mầm kết tụ.
+ Các mầm kết tụ đó sẽ phát triển thông qua quá trình khuếch tán của vật chất từ
dung dịch lên bề mặt của các mầm cho đến khi mầm trở thành hạt nano.
+ Để thu được hạt có độ đồng nhất cao, người ta cần phân tách hai giai đoạn hình
thành mầm và phát triển mầm. Trong quá trình phát triển mầm, cần hạn chế sự hình thành
của những mầm mới.
+ Một số phương pháp thuộc phương pháp kết tủa từ dung dịch:
Phương pháp đồng kết tủa: Là một trong những phương pháp thường
được dùng để tạo các hạt oxit sắt. Hydroxit sắt bị oxy hóa một phần bằng một chất oxy
hóa khác hoặc tạo hạt từ Fe2+ và Fe3+ trong dung môi nước. Kích thước hạt (4 – 15nm) và
diện tích bề mặt được điều khiển bằng độ pH và mật độ ion trong dung dịch.
Vi nhũ tương (microemulsion): Các hạt dung dịch bị bẫy bởi các
phân tử chất hoạt hóa bề mặt trong dầu (các mixen). Do sự giới hạn về không gian của
các phân tử chất hoạt hóa bề mặt nên sự hình thành, phát triển các hạt nano bị hạn chế và
tạo nên các hạt nano rất đồng nhất. Kích thước hạt có thể từ 4 – 12 nm với độ sai khác
khoảng 0.2 – 0.3 nm. Bằng phương pháp này, người ta có thể chế tạo hạt oxyt sắt bao phủ
bởi một lớp vàng để tránh oxy hóa và tăng tính tương hợp sinh học.
Polyol: là phương pháp thường dùng để tạo các hạt nano kim loại
như Ru, Pd, Au, Co, Ni, Fe,... Các hạt nano kim loại được hình thành trực tiếp từ dung
dịch muối kim loại có chứa polyol. Polyol có tác dụng như một dung môi hoặc trong một
Chế tạo và nghiên cứu tính chất phát quang của hạt nano ZnS : Ni2+ – Mn2+ 6
Trang | 6 DƯƠNG THÀNH NHÂN
Sư phạm Vật lí K31
số trường hợp như một chất khử ion kim loại. Hình dạng và kích thước của các hạt nano
phụ thuộc vào tốc độ kết tủa của dung dịch thông qua việc điều khiển nhiệt độ dung dịch.
Phân ly nhiệt: Sự phân ly của các hợp chất chứa sắt với sự có mặt
của một chất hoạt hóa bề mặt ở nhiệt độ cao cải thiện đáng kể chất lượng của các hạt
nano.
2. Sự phát quang:
Khi một số chất hấp thụ năng lượng thì chúng có khả năng phát ra bức xạ điện từ
(trong đó có vùng ánh sáng khả kiến). Hiện tượng đó được gọi là sự phát quang. Chú ý
rằng không phải mọi sự phát sáng đều là sự phát quang. Chẳng hạn: phản xạ, tán xạ, bức
xạ nhiệt cũng là sự phát sáng nhưng chúng không phải là sự phát quang. Để phân biệt,
Vavilop đã đưa ra định nghĩa về sự phát quang như sau:
Sự phát quang của một chất là sự phát những bức xạ dư ngoài bức xạ nhiệt do chất
đó phát ra và có thời gian phát quang ( ≥ 10-10s ) lớn hơn nhiều so với chu kì dao động
sáng (~ 10-14s).
Tùy vào phương pháp kích thích phát quang, người ta phân chia thành một số dạng
phát quang sau:
- Quang phát quang (Photoluminescence): là sự phát quang xảy ra khi chất phát
quang được kích thích bằng bức xạ quang học (tia X, UV,....).
- Điện phát quang (Electroluminescence): là sự phát quang xảy ra khi chất phát
quang được kích thích bằng cách đặt nó trong điện trường.
- Âm cực phát quang (Cathodoluminescence): là sự phát quang xảy ra khi chất
phát quang được kích thích bằng cách chiếu vào nó một chùm electron.
- Hóa phát quang (Chemiluminescence): là sự phát quang xảy ra khi chất phát
quang được kích thích bằng năng lượng lấy từ các phản ứng hóa học (sự phát
sáng của đom đóm, photpho, cây mục,....).
- Phóng xạ phát quang (Radioluminescence): là sự phát quang xảy ra khi chất
phát quang được kích thích bằng sản phẩm của sự phân rã phóng xạ (như các
hạt α, β, γ,....).
3. Vật liệu phát quang:
Chúng ta biết rằng để có sự phát quang tốt, cần nhất là chúng ta phải có nguồn
nguyên liệu tốt. Những nghiên cứu về vật liệu và công nghệ huỳnh quang được phát triển
từ rất sớm, thu hút được rất nhiều nhóm nghiên cứu. Một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự
Chế tạo và nghiên cứu tính chất phát quang của hạt nano ZnS : Ni2+ – Mn2+ 7
Trang | 7 DƯƠNG THÀNH NHÂN
Sư phạm Vật lí K31
phát triển mạnh mẽ của ánh sáng huỳnh quang là việc phát hiện ra vật liệu làm nền phát
sáng huỳnh quang – thành phần quan trọng nhất của các thiết bị huỳnh quang. Trong số
các chất làm nền thì ZnS được chú ý nhiều nhất, được nghiên cứu sớm nhất và ứng dụng
rộng rãi nhất.
Năm 1936, Destriau khi nghiên cứu về chất phát quang dựa trên vật liệu nền là
ZnS đã phát hiện thấy khi có một lượng nhỏ tạp chất Cu tồn tại trong ZnS thì có thể làm
cho vật liệu này phát sáng mạnh hơn bình thường nhiều lần nếu đặt nó vào trong một
hiệu điện thế xoay chiều thích hợp.
Giữa những năm 1960, linh kiện điện huỳnh quang dạng bột sử dụng dòng một
chiều được phát triển dựa trên vật liệu ZnS pha tạp Cu và Mn (ZnS : Cu, Mn).
Nhưng như ta thấy vật liệu khối ZnS cho dù là pha tạp cũng chưa thể khắc phục tốt
hết các khuyết điểm như cường độ huỳnh quang chưa thật sự mạnh, màu sắc bị giới hạn,
thời gian phát quang ngắn,... Một câu hỏi được đặt ra là phải sử dụng vật liệu nào để có
thể khắc phục được các nhược điểm trên? Sự phát hiện cấu trúc nano vào giữa thế kỉ
trước đã và đang giúp ta trả lời câu hỏi đó. Bài viết này sẽ tìm hiểu về vật liệu nano ZnS :
Ni2+– Mn2+ thay cho vật liệu khối ZnS phục vụ cho công nghệ quang.
Trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về các nguyên tố mà ta cần để tạo nên vật
liệu nano ZnS : Ni2+– Mn2+.
3.1. Niken:
Tổng quát
Tên, Ký hiệu, Số proton Niken, Ni, 28
Phân loại kim loại chuyển tiếp
Nhóm; Chu kỳ 10; 4
Khối lượng riêng; Độ cứng 8.908 kg/m³; 4,0 (so với kim cương là 10)
Bề ngoài kim loại màu trắng bóng
Tính chất nguyên tử
Khối lượng nguyên tử 58,6934 đvC.
Bán kính nguyên tử (calc.) 135 (149) pm
Bán kính cộng hoá trị 121 pm
Bán kính van der Waals 163 pm
Cấu hình electron [Ar]3d8 4s2
Trạng thái ôxi hóa (Ôxít) +2, +3 (lưỡng tính)
Cấu trúc tinh thể lập phương tâm diện
Tính chất vật lí
Trạng thái vật chất Rắn
Chế tạo và nghiên cứu tính chất phát quang của hạt nano ZnS : Ni2+ – Mn2+ 8
Trang | 8 DƯƠNG THÀNH NHÂN
Sư phạm Vật lí K31
Điểm nóng chảy 1.728 K (2.651oF)
Điểm sôi 3.186 K (5.275oF)
Trạng thái trật tự từ sắt từ
Nhiệt bay hơi 377,5 kJ/mol
Nhiệt nóng chảy 17,48 kJ/mol
Áp suất hơi 100.000 Pa tại 3.184 K
Vận tốc âm thanh 4.900 m/s tại 298 K (25oC)
Nhiệt dung riêng 444,17 J/(kgK)
Độ dẫn điện 1,443x107 /Ωm
Độ dẫn nhiệt 90,9 W/(mK)
Thông tin khác
Độ âm điện 1,91 (thang Pauling)
Năng lượng ion hóa 1. 737,1 kJ/mol
2. 1.753,0 kJ/mol
3. 3.395 kJ/mol
Đơn vị SI và STP được dùng trừ khi có ghi chú
3.2. Mangan:
Tổng quát
Tên, Ký hiệu, Số proton Mangan, Mn, 25
Phân loại kim loại chuyển tiếp
Nhóm; Chu kỳ 7; 4
Khối lượng riêng; Độ cứng 7.210 kg/m³; 6,0 (so với kim cương là 10)
Bề ngoài kim loại màu trắng bạc
Tính chất nguyên tử
Khối lượng nguyên tử 54,938045(5) đvC
Bán kính nguyên tử (calc.) 140 (161) pm
Bán kính cộng hoá trị 139 pm
Cấu hình electron [Ar]3d5 4s2
Trạng thái ôxi hóa (Ôxít) 2, 3, 4, 6, 7 (acid mạnh)
Cấu trúc tinh thể lập phương tâm khối
Tính chất vật lí
Trạng thái vật chất Rắn
Điểm nóng chảy 1.519 K (2.275oF)
Điểm sôi 2.334 K (3.742oF)
Trạng thái trật tự từ Phản sắt từ
Nhiệt bay hơi 221 kJ/mol
Nhiệt nóng chảy 12,91 kJ/mol
Áp suất hơi 100.000 Pa tại 2.333K
Vận tốc âm thanh 5.150 m/s tại 293 K (20oC)
Độ dẫn điện 0,694x107 /Ωm
Chế tạo và nghiên cứu tính chất phát quang của hạt nano ZnS : Ni2+ – Mn2+ 9
Trang | 9 DƯƠNG THÀNH NHÂN
Sư phạm Vật lí K31
Độ dẫn nhiệt 7,81 W/(mK)
Nhiệt dung riêng 479 J/(kgK) (25oC)
Thông tin khác
Độ âm điện 1,55 (thang Pauling)
Năng lượng ion hóa 1. 717,3 kJ/mol
2. 1.509 kJ/mol
3. 3.248 kJ/mol
Đơn vị SI và STP được dùng trừ khi có ghi chú
3.3. Kẽm sulfit ZnS:
Kẽm sulfit (ZnS: Zinc Sulfide) là hợp chất hóa học thường tồn tại ở dạng bột
hoặc tinh thể màu trắng vàng. Có hai dạng ZnS tồn tại trong tự nhiên là sphalerite (tinh
thể có dạng lập phương Cubic) và wurtzite (tinh thể có dạng sáu cạnh Hexagonal). Cả hai
dạng này đều cùng bản chất.
Hợp chất Sphalerite, wurtzite
Mật độ khối 4.090kg/m3
Nhiệt độ nóng chảy 10200C
Độ cứng so với kim cương (10) 4,5
Độ dẫn nhiệt 27,2 W/mK
Độ dẫn điện 10–12 – 10–8 /Ωm
Hằng số điện môi ε 9,67
Độ rộng vùng cấm Eg 3,54 – 3,91 eV (300K)
Bước sóng phát quang 330nm (300K)
Nhiệt dung riêng 530 J/kgK
Chiết suất 2,161 – 2,419
Hình 2: Cấu trúc tinh thể dạng HexagonalHình 1: Cấu trúc tinh thể dạng Cubic
Chế tạo và nghiên cứu tính chất phát quang của hạt nano ZnS : Ni2+ – Mn2+ 10
Trang | 10 DƯƠNG THÀNH NHÂN
Sư phạm Vật lí K31
3.4. ZnS pha tạp và ứng dụng của nó:
3.4.1. Vật liệu khối ZnS pha tạp:
ZnS được sử dụng từ rất sớm trong vật lí hạt nhân để làm các đầu dò phát
quang vì ZnS có khả năng phát sáng khi bị kích thích (tia X, chùm electron,…). Trong
quá trình nghiên cứu tìm kiếm vật liệu phát quang ngày càng tốt, người ta nhận thấy vật
liệu khối ZnS pha thêm một số tạp chất có khả năng phát ra ánh sáng đặc trưng của tạp
chất thêm vào. ZnS pha thêm vài phần triệu tạp chất thích hợp được dùng để thay thế
Phospho trong nhiều ứng dụng như các ống cathode phát quang và các sản phẩm khác.
Chẳng hạn, pha thêm một ít Cu thì ZnS : Cu sẽ cho ánh sáng xanh lục, thay Cu bằng bạc
Ag thì ánh sáng phát ra có màu xanh đậm, hoặc nếu pha Mn thì màu phát ra là đỏ –
cam… Sự pha tạp này còn làm kéo dài thời gian phát quang, được ứng dụng khá nhiều
trong các biển báo, pano, ap–phich phát sáng.
3.4.2. Tinh thể nano ZnS:
Năm 1983, lần đầu tiên một bài báo về tính chất quang của chất bán dẫn
pha tạp có kích thước nano được công bố. Các kết quả nghiên cứu cho thấy các tinh thể
dạng này (và các tinh thể đã pha tạp có kích thước nano) có hiệu suất phát quang cao,
màu sắc khác, thời gian phát quang cũng khác so với vật thể khối. Điều này cho phép
chúng ta n