Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, với vị trí địa - chiến lược quan trọng, Đông Nam Á là khu vực thu hút sự quan tâm của các nước lớn, nhưng các mối quan hệ quốc tế ở đây đan xen lẫn nhau hết sức phức tạp. Với tư cách là siêu cường, Mỹ đã dính líu vào Đông Nam Á tới mức hầu như hiện diện trong mọi mối quan hệ quốc tế của khu vực. Ý đồ chiến lược, chính sách của Mỹ không chỉ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các quốc gia trong khu vực mà còn tác động không nhỏ tới quan hệ đối nội, đối ngoại của từng quốc gia. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, vai trò của Đông Nam Á trong chính sách đối ngoại của Mỹ phần nào giảm sút bởi vì mục tiêu ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản trên thế giới và ở châu Á - Thái Bình Dương (CA-TBD) của Mỹ đã không còn là mục tiêu chiến lược hàng đầu khi chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) còn lại như Trung Quốc, Việt Nam. đang tiến hành cải cách theo hướng kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, bước vào thế kỷ XXI, đặc biệt là từ sau sự kiện khủng bố tại Mỹ ngày 11/9/2001, Mỹ đã điều chỉnh chiến lược toàn cầu và phát động cuộc chiến chống khủng bố. Chống khủng bố đã trở thành ưu tiên số một, quan trọng hơn bao giờ hết đối với nước Mỹ trong cả hai nhiệm kỳ của Tổng thống G. Bush và cũng chính nó đã tạo ra những đổi thay trong chiến lược toàn cầu của Mỹ nói chung, chính sách đối với CA-TBD và Đông Nam Á nói riêng. Sự kiện 11/9 đã buộc chính quyền G. Bush phải xem xét lại chính sách Đông Nam Á của mình. Sự hoạt động của các tổ chức Hồi giáo cực đoan, mối liên hệ của chúng với tổ chức Al Qaeda là đe dọa lớn nhất đối với an ninh của Mỹ. Đông Nam Á đã trở thành một trong những mặt trận chính trong cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ. Thông qua hoạt động chống khủng bố, Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự tại khu vực đồng thời lôi kéo, gây áp lực với các nước nhằm tập hợp lực lượng hình thành "liên minh chống khủng bố" do Mỹ cầm đầu.
Việc Mỹ can dự trở lại đối với Đông Nam Á đã làm gia tăng sự lo ngại về khả năng Mỹ can thiệp, kiểm soát và khống chế cả trên đất liền và trên biển những khu vực trọng yếu ở khu vực. Đây là điểm đáng quan tâm nhất của tình hình thế giới những năm đầu thế kỷ XXI, tác động trực tiếp đến các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Hơn nữa, đối với Việt Nam, xét về chiến lược lâu dài, Mỹ không từ bỏ ý định can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam trên các mặt để từ đó hướng Việt Nam đi vào quỹ đạo của CNTB. Điều này được quy định bởi ý đồ của Mỹ là xoá bỏ CNXH và mở rộng CNTB, nền kinh tế thị trường TBCN. Cùng với các yếu tố khác của tình hình thế giới, những tính toán lợi ích trong chính sách của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á cũng biểu thị tính chất đan xen, phức tạp giữa thời cơ và nguy cơ đã được các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định. Vì thế, trước các tình huống chiến lược, những tính toán lợi ích của Mỹ liên quan đến an ninh quốc gia ở khu vực cũng như của nước ta, cần phải được xử lý hết sức thận trọng và khéo léo trên cơ sở khoa học.
Những trình bày trên cho thấy việc nghiên cứu về "Chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á những năm đầu thế kỷ XXI" có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Nó không chỉ làm rõ thực chất nội dung chính sách của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á, vị trí của Việt Nam trong tổng thể chính sách đó mà còn góp phần luận chứng cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn cho các đối sách trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với Mỹ cũng như với những vấn đề liên quan ở khu vực Đông Nam Á hiện nay và những năm tới
129 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5798 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á những năm đầu thế kỷ XXI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, với vị trí địa - chiến lược quan trọng, Đông Nam Á là khu vực thu hút sự quan tâm của các nước lớn, nhưng các mối quan hệ quốc tế ở đây đan xen lẫn nhau hết sức phức tạp. Với tư cách là siêu cường, Mỹ đã dính líu vào Đông Nam Á tới mức hầu như hiện diện trong mọi mối quan hệ quốc tế của khu vực. Ý đồ chiến lược, chính sách của Mỹ không chỉ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các quốc gia trong khu vực mà còn tác động không nhỏ tới quan hệ đối nội, đối ngoại của từng quốc gia. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, vai trò của Đông Nam Á trong chính sách đối ngoại của Mỹ phần nào giảm sút bởi vì mục tiêu ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản trên thế giới và ở châu Á - Thái Bình Dương (CA-TBD) của Mỹ đã không còn là mục tiêu chiến lược hàng đầu khi chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) còn lại như Trung Quốc, Việt Nam... đang tiến hành cải cách theo hướng kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, bước vào thế kỷ XXI, đặc biệt là từ sau sự kiện khủng bố tại Mỹ ngày 11/9/2001, Mỹ đã điều chỉnh chiến lược toàn cầu và phát động cuộc chiến chống khủng bố. Chống khủng bố đã trở thành ưu tiên số một, quan trọng hơn bao giờ hết đối với nước Mỹ trong cả hai nhiệm kỳ của Tổng thống G. Bush và cũng chính nó đã tạo ra những đổi thay trong chiến lược toàn cầu của Mỹ nói chung, chính sách đối với CA-TBD và Đông Nam Á nói riêng. Sự kiện 11/9 đã buộc chính quyền G. Bush phải xem xét lại chính sách Đông Nam Á của mình. Sự hoạt động của các tổ chức Hồi giáo cực đoan, mối liên hệ của chúng với tổ chức Al Qaeda là đe dọa lớn nhất đối với an ninh của Mỹ. Đông Nam Á đã trở thành một trong những mặt trận chính trong cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ. Thông qua hoạt động chống khủng bố, Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự tại khu vực đồng thời lôi kéo, gây áp lực với các nước nhằm tập hợp lực lượng hình thành "liên minh chống khủng bố" do Mỹ cầm đầu.
Việc Mỹ can dự trở lại đối với Đông Nam Á đã làm gia tăng sự lo ngại về khả năng Mỹ can thiệp, kiểm soát và khống chế cả trên đất liền và trên biển những khu vực trọng yếu ở khu vực. Đây là điểm đáng quan tâm nhất của tình hình thế giới những năm đầu thế kỷ XXI, tác động trực tiếp đến các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Hơn nữa, đối với Việt Nam, xét về chiến lược lâu dài, Mỹ không từ bỏ ý định can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam trên các mặt để từ đó hướng Việt Nam đi vào quỹ đạo của CNTB. Điều này được quy định bởi ý đồ của Mỹ là xoá bỏ CNXH và mở rộng CNTB, nền kinh tế thị trường TBCN. Cùng với các yếu tố khác của tình hình thế giới, những tính toán lợi ích trong chính sách của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á cũng biểu thị tính chất đan xen, phức tạp giữa thời cơ và nguy cơ đã được các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định. Vì thế, trước các tình huống chiến lược, những tính toán lợi ích của Mỹ liên quan đến an ninh quốc gia ở khu vực cũng như của nước ta, cần phải được xử lý hết sức thận trọng và khéo léo trên cơ sở khoa học.
Những trình bày trên cho thấy việc nghiên cứu về "Chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á những năm đầu thế kỷ XXI" có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết. Nó không chỉ làm rõ thực chất nội dung chính sách của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á, vị trí của Việt Nam trong tổng thể chính sách đó mà còn góp phần luận chứng cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn cho các đối sách trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với Mỹ cũng như với những vấn đề liên quan ở khu vực Đông Nam Á hiện nay và những năm tới
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do tính chất và quy mô tác động nhanh chóng, sâu sắc nên chính sách đối ngoại của Mỹ đối với thế giới nói chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng từ lâu đã trở thành đề tài được giới nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của hoạt động đối ngoại. Đã có nhiều công trình khoa học đề cập đến vấn đề này ở những mức độ khác nhau. Các công trình được xuất bản thành sách có thể kể đến: Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu của Lý Thực Cốc, Nxb CTQG, Hà Nội, 1998, trong đó nêu lên các chiến lược lớn của Mỹ đối với các khu vực trên thế giới; sự tranh giành ảnh hưởng của Mỹ và Liên Xô trước đây và những dự đoán cho tương lai của Mỹ; Chính sách của Hoa Kỳ đối với ASEAN trong và sau chiến tranh lạnh của Lê Khương Thùy, Nxb KHXH Hà Nội, 2003; Về chiến lược an ninh của Mỹ hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004 của Lê Linh Lan (chủ biên); Nhân tố địa - chính trị trong chiến lược toàn cầu mới của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á, Nxb CTQG, Hà Nội 2007 của Nguyễn Văn Lan (chủ biên) v.v...
Bên cạnh đó còn có các bài viết của các tác giả trong và ngoài nước như "Chính sách châu Á của Bill Clinton" của tác giả người Ấn Độ MV. Rappai, Trung tâm Thông tin khoa học công nghệ môi trường - Bộ Quốc phòng đã nêu lên chính sách đối ngoại của Tổng thống Mỹ Bill Clinton đối với các khu vực và quốc gia ở châu Á, khẳng định sự can thiệp ngày càng tăng của Mỹ vào CA-TBD; "Học thuyết Bush" của Jamie Glozov, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 2/2003; "Chính sách ngoại giao của Mỹ trong một thế kỷ mới" của Ivoh Daaelder & James Lindsay, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 06/2003; Hai bài viết "Sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu sau chiến tranh lạnh của Mỹ: từ George Bush (cha) đến Bill Clinton" đăng trên Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 1/2001 và "Nhìn lại sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh" đăng trên Tạp chí Nghiên cứu quốc tế số 1(68) tháng 3/2007 của tác giả Hà Mỹ Hương đã nêu lên những nhân tố chi phối chiến lược toàn cầu sau chiến tranh lạnh của Mỹ và những nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Mỹ suốt thời kỳ từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc đến nay; "Chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống G.W. Bush" của Trần Bá Khoa, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 8-10/2001; "Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ và tác động của nó đến khu vực Đông Nam Á" của Phạm Đức Thành, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, Số 11/2003; "Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Đông Nam Á từ sau sự kiện 11/9" của tác giả Phạm Cao Cường, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 6/2005; "Mỹ và an ninh Đông Nam Á hiện nay" của tác giả Lê Đình Tĩnh, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 6/2005…Đáng chú ý là Dự án Đông Nam Á trong thế kỷ 21 do Stanley Foundation thực hiện năm 2003 - 2005, trong đó đề cập đến nhiều khía cạnh chính sách của Mỹ với Đông Nam Á như chính sách dân chủ nhân quyền, an ninh - quân sự, hợp tác chống khủng bố...
Nhìn chung, trong các công trình nghiên cứu và ấn phẩm khoa học kể trên, chính sách của Mỹ và việc triển khai đối với khu vực Đông Nam Á những năm đầu thế kỷ 21 đã được phản ánh trên nhiều khía cạnh, nhưng chưa mang tính hệ thống. Mặt khác, do xuất phát từ những mục đích, yêu cầu cụ thể, cùng với những phân tích, đánh giá và khuyến nghị của các nhà nghiên cứu nước ngoài do đứng trên nghiên cứu lập trường, quan điểm khác nhau nên còn nhiều điểm chưa phù hợp với lập trường, quan điểm của Việt Nam.
Những trình bày ở trên là cơ sở để tác giả lựa chọn vấn đề "Chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á những năm đầu thế kỷ XXI" làm đề tài Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quan hệ quốc tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
- Làm rõ thực chất chính sách Đông Nam Á của Mỹ dưới thời Tổng thống G. Bush trong đó có chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Dự báo xu hướng chính sách của Mỹ với Đông Nam Á trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Phân tích chính sách Đông Nam Á của chính quyền Clinton từ đó rút ra những thành công và hạn chế của chính sách này.
- Phân tích vị trí chiến lược của Đông Nam Á và nội dung cũng như quá trình triển khai chính sách Đông Nam Á của chính quyền Bush, từ đó tìm ra những điểm khác biệt so với chính sách Đông Nam Á của chính quyền Clinton.
- Phân tích chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trong tổng thế chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á và việc triển khai chiến lược này trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, đồng thời phân tích chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trong một số lĩnh vực chủ yếu.
- Về thời gian: Trọng tâm nghiên cứu của luận văn là thời gian từ khi G. Bush lên cầm quyền (2001) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những nhận định, đánh giá của Đảng và Nhà nước ta về quan hệ quốc tế và chiến lược của Mỹ từ sau chiến tranh lạnh đến nay. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một cách chọn lọc các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về chính sách của Mỹ và việc triển khai đối với khu vực Đông Nam Á được công bố từ sau chiến tranh lạnh đến nay có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình giải quyết những nhiệm vụ đề ra, Luận văn quán triệt và tuân thủ hệ quan điểm, nguyên lý phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và những quan điểm lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại.
Luận văn kết hợp phương pháp lôgic với phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích với phương pháp tổng hợp; đồng thời còn sử dụng các phương pháp bổ trợ như: hệ thống, thống kê, đối chiếu so sánh v.v...
Mọi nhận định, đánh giá trong luận văn đều được xây dựng trên cơ sở phân tích, khái quát những dữ kiện thực tế và những công trình khoa học đã công bố trong và ngoài nước liên quan đến đề tài.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Trên cơ sở phân tích một cách hệ thống nội dung chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á những năm đầu thế kỷ 21, luận văn làm rõ thực chất chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á.
- Làm rõ vị trí của Việt Nam trong chính sách Đông Nam Á của Mỹ hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy những nội dung về lịch sử thế giới hiện đại và quan hệ chính trị quốc tế. Ngoài ra, một số nhận định, đánh giá được trình bày trong Luận văn có thể góp phần cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính sách an ninh quốc phòng và đối ngoại trong bối cảnh và tình hình mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn bao gồm 3 chương với 7 tiết.
Chương 1
KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á CỦA CHÍNH QUYỀN BILL CLINTON (1992 - 2000)
1.1. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA CHÍNH QUYỀN B. CLINTON
Bill Cliton lên làm Tổng thống Mỹ trong bối cảnh thế giới bước vào thời kỳ hậu chiến tranh lạnh sau sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Đông Âu - Liên Xô và sự tan rã của trật tự thế giới đối đầu hai cực. Những thay đổi này lại được thúc đẩy nhanh thêm bởi sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Nguy cơ chiến tranh giữa các nước lớn giảm đi nhưng các xung đột lãnh thổ, sắc tộc, tôn giáo lại tăng lên cùng với những mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Những vấn đề kinh tế nổi lên chiếm ưu thế trong các chương trình nghị sự của tất cả các quốc gia. Do vậy, duy trì hòa bình, ổn định trong môi trường quốc tế mới và tìm kiếm lợi thế tương đối trong trật tự quốc tế mới đang hình thành là mục tiêu chiến lược của mỗi nước.
Sau chiến tranh lạnh, nước Mỹ đứng trước những cơ hội và thách thức đan xen nhau. Môi trường quốc tế về cơ bản thuận lợi cho việc thực hiện mưu đồ bá chủ của Mỹ. Nước Nga đang trong thời kỳ chuyển đổi đầy khó khăn. Các trung tâm kinh tế Nhật Bản, Tây Âu tuy mạnh nhưng chưa đủ tiềm lực tổng hợp thách thức vị trí của Mỹ. Bên cạnh đó, sự tan rã của Liên Xô và hệ thống XHCN là cơ hội to lớn để Mỹ truyền bá mô hình kinh tế thị trường và dân chủ nhân quyền kiểu phương Tây ra toàn thế giới. Tuy nhiên, Mỹ lại phải đối phó với những khó khăn xuất phát từ ngay trong lòng nước Mỹ. Về kinh tế, cuộc chạy đua vũ trang tốn kém trong thập kỷ 80 làm cho kinh tế Mỹ suy giảm nghiêm trọng. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm liên tục, sức cạnh tranh giảm sút, nợ liên bang trầm trọng, thâm hụt cán cân buôn bán và ngân sách lên đến mức báo động, mức sống của người dân ít được cải thiện... Về chính trị, trong giới lãnh đạo Mỹ cũng như công chúng Mỹ, cuộc đấu tranh giữa hai trường phái "biệt lập" và "quốc tế" chưa chấm dứt phản ánh sự chưa thống nhất trong nhận thức về vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ, đây là một khó khăn đối với việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của Mỹ trong thời kỳ mới. Ngoài ra, Mỹ còn phải đối phó với những thách thức mới trong môi trường quốc tế, đó là sự vươn lên của các trung tâm quyền lực, xu hướng ly tâm trong các nước đồng minh của Mỹ, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống...
Trước những khó khăn, thách thức như vậy, chính quyền Clinton vẫn phải tiếp tục theo đuổi mục tiêu chiến lược bao trùm là duy trì sự lãnh đạo của Mỹ đối với thế giới. Những quyền lợi to lớn và quan tâm chiến lược sâu sắc ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới do các chính quyền Mỹ gây dựng từ sau chiến tranh thế giới thứ hai không cho phép bất kỳ một tổng thống nào có thể từ bỏ để tập trung củng cố nội bộ theo "chủ nghĩa biệt lập". Chính vì thế, trong tuyên bố nhậm chức ngày 20/1/1993, Tổng thống B. Clinton tuyên bố: "Mỹ vẫn có trách nhiệm trên thế giới... Dân tộc chúng ta (Mỹ) sẵn sàng lãnh đạo một thế giới đang bị thách thức ở khắp mọi nơi". Để đạt mục tiêu "lãnh đạo thế giới", các nhà hoạch định chiến lược Mỹ đưa ra chiến lược toàn cầu mới "Can dự và mở rộng" dựa trên việc mở rộng cộng đồng các nền dân chủ theo kinh tế thị trường đồng thời răn đe, ngăn chặn các hiểm họa đối với Mỹ và đồng minh của Mỹ với 3 trụ cột chính là: Bảo vệ vững chắc an ninh của Mỹ bằng một lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu cao; Hỗ trợ cho sự hồi sinh kinh tế của Mỹ; Thúc đẩy dân chủ nhân quyền ở nước ngoài [9, tr.11]. Trên cơ sở đó, khi tập trung vào các mối đe dọa mới và các cơ hội mới, mục tiêu chính của Mỹ là:"Tăng cường an ninh của Mỹ qua việc duy trì tiềm lực phòng thủ mạnh và thúc đẩy các biện pháp hợp tác an ninh, khuyến khích sự thịnh vượng kinh tế của Mỹ qua việc mở rộng của thị trường nước ngoài và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu; thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài" [9, tr.12]. Để thực hiện các mục tiêu này, chính quyền Clinton chủ trương xây dựng một chính sách đối ngoại gồm ba nội dung chính:
Thứ nhất, khôi phục sức mạnh kinh tế Mỹ thông qua đẩy mạnh kinh tế đối ngoại, tự do hóa thương mại toàn cầu nhằm đảm bảo an ninh kinh tế, trên cơ sở đó hỗ trợ cho chiến lược quân sự quốc phòng, bảo vệ vững chắc vị trí bá quyền của Mỹ. Giành lại vị thế lãnh đạo kinh tế trong nền kinh tế thế giới được chính quyền Clinton coi là ưu tiên và lợi ích quốc gia sống còn của Mỹ trong giai đoạn mới. Quyết tâm đó được Tổng thống B. Clinton khẳng định trong tuyên bố nhậm chức ngày 20/1/1993:"Tôi sẽ tập trung vào kinh tế như một chùm lase". Theo đó, kinh tế trở thành ưu tiên hàng đầu trong trong tất cả các lĩnh vực trong đó có quan hệ đối ngoại: "Lợi ích kinh tế phải là trọng tâm chủ yếu của chính sách đối ngoại Mỹ" [10, tr. 16] và: "Trên mặt trận kinh tế, chắc chắn với sự kết thúc của chiến tranh lạnh, hoạt động kinh tế do sự phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn và sự thu hẹp lại của khoảng cách về thông tin liên lạc ngày càng trở nên quan trọng trong chính sách đối ngoại của chúng ta" [60, tr. 25]. Xuất phát điểm của chính sách phục hồi kinh tế của chính quyền Clinton là kinh tế đối ngoại gắn liền với kinh tế trong nước và do đó, cùng với các chính sách kinh tế trong nước, thì chính quyền B. Clinton kiên trì theo đuổi tự do hóa thương mại, coi đây là biện pháp chiến lược quan trọng nhất và là động lực chính của chính sách kinh tế đối ngoại Mỹ.Với các nước đang phát triển, Mỹ khuyến khích xu hướng kinh tế thị trường, thúc đẩy tự do thương mại và đầu tư, tự do cạnh tranh, mở cửa cho hàng hóa Mỹ thâm nhập …
Thứ hai, xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh làm công cụ khống chế các nước đồng minh cũng đồng thời là đối thủ, khống chế các khu vực và đủ khả năng đối phó với các mối đe dọa khác về an ninh trên thế giới. Tổng thống B. Clinton khẳng định: "Sức mạnh kinh tế và quân sự của chúng ta, cũng như sức mạnh tư tưởng của chúng ta làm cho các nhà ngoại giao giữ vị trí hàng đầu giữa những người ngang sức... nhưng dù sao thì lực lượng quân sự vẫn là yếu tố không thể thay thế được của sức mạnh cường quốc chúng ta. Kể cả khi chiến tranh lạnh đã hết, đất nước ta vẫn buộc phải duy trì các lực lượng quân sự có hiệu quả để ngăn chặn nguy cơ từ nhiều phía và khi cần thiết, chiến đấu và chiến thắng địch" [10]. Để xây dựng lực lượng vũ trang mạnh, Mỹ chú trọng phát triển kỹ thuật quân sự cao của cả vũ khí thông thường và hạt nhân. Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo cho lực lượng quân sự có thể đối phó nhanh nhạy với những đe dọa tiềm tàng, phù hợp với khả năng thực tế của Mỹ, chính quyền Clinton chủ trương cơ cấu lại quân đội, thúc ép đồng minh gánh vác thêm chi phí đóng quân của Mỹ ở nước ngoài trong kế hoạch "chia sẻ trách nhiệm"; giải quyết các cuộc xung đột thông qua cơ chế đa phương có sự chỉ đạo của Mỹ...
Thứ ba, thúc đẩy dân chủ nhân quyền. Đây là một trong ba trụ cột trong chính sách đối ngoại của chính quyền Clinton và là một bộ phận cấu thành trong trật tự thế giới mới với sự lãnh đạo của Mỹ, do Mỹ dàn dựng. Khi chiêu bài chống chủ nghĩa cộng sản cũng như các biện pháp quân sự trực tiếp đã giảm hẳn tác dụng thì dân chủ nhân quyền là công cụ thích hợp hơn cả để Mỹ tập hợp lực lượng. Đồng thời, thông qua quá trình này, Mỹ muốn áp đặt các giá trị Mỹ đối với các dân tộc khác. Trong thời gian cầm quyền, Clinton đã tìm nhiều cách để thúc đẩy dân chủ nhân quyền ở các nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, đồng thời tác động vào các nước XHCN còn lại. Những biện pháp chính quyền Clinton đã áp dụng là Bộ Ngoại giao Mỹ nghiên cứu và viết báo cáo về tình trạng nhân quyền trên thế giới để gửi Quốc hội, thông qua các Hội nghị nhân quyền quốc tế, các cơ chế đa phương để tác động vào những nước mà Mỹ cho là "vi phạm nhân quyền". Ngoài ra, Mỹ còn sử dụng các biện pháp kinh tế như gắn vấn đề dân chủ nhân quyền với ưu đãi thương mại, Quy chế Tối huệ quốc, thậm chí cấm vận, cô lập chính trị... Tuy nhiên, chính quyền Clinton cũng chủ trương không đặt ra yêu cầu đạt được mục tiêu dân chủ nhân quyền bằng bất cứ giá nào trong quan hệ với các nước, không để vấn đề này ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế và an ninh của Mỹ.
Tóm lại, nhằm xây dựng sức mạnh một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị tư tưởng, chiến lược đối ngoại của Mỹ sau chiến tranh lạnh tập trung vào ba nội dung chính: an ninh kinh tế, an ninh quân sự và thúc đẩy dân chủ nhân quyền. Đảm bảo lợi ích kinh tế được coi là ưu tiên cao nhất của chính quyền Clinton nhưng sức mạnh quân sự vẫn được chú trọng và lần đầu tiên, dân chủ nhân quyền được nâng lên thành một trụ cột bên cạnh hai nội dung truyền thống là kinh tế và quân sự. Có thể nói, cơ sở tư tưởng của chính sách đối ngoại của Clinton là sự kết hợp giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa hiện thực, hay nói cách khác, đó là "chủ nghĩa hiện thực dân chủ" theo cách gọi của chính Clinton.
1.2. NỘI DUNG VÀ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á CỦA CHÍNH QUYỀN B. CLINTON
Dưới chính quyền B. Clinton, CA-TBD ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Trong Chiến lược "Cam kết và mở rộng", Đông Á được coi là khu vực có tầm quan trọng ngày càng lớn đối với các mục tiêu của Mỹ. Báo cáo Chiến lược an ninh quốc gia năm 1995 cũng khẳng định, "khu vực này có ý nghĩa ngày càng tăng đối với nền an ninh và sự tồn tại của Mỹ. Không ở đâu ba yếu tố trong chiến lược của chúng ta (Mỹ) lại liên hệ chặt chẽ với nhau như vậy và cũng không ở đâu sự cần thiết phải tiếp tục có sự dính líu của Mỹ lại hiển nhiên như vậy" và "khi nghĩ về khu vực CA-TBD thì vấn đề an ninh nổi lên trước và sự hiện di