Gắn liền với công cuộc đổi mới và mở cửa ở nước ta, có nhiều yêu cầu phải mở
giải quyết cùng một lúc: Vừa ổn định, vừa phát triển kinh tế trong nước, vừa mở rộng
giao lưu quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài .Nhu cầu mở rộng lượng tiền
cung ứng (Cầu về tiền) ngày càng lớn, dẫn đến sự xác lập quan hệ cung - cầu mới về tiền
trong khi đó vẫn phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập
nền tảng cho sự phát triển chung.
Ngày nay không ai còn có thể phủ nhận bằng việc điều chỉnh tiền tệ cho phù hợp
với nhu cầu của nền kinh tế là một trong những vấn đề thiết yếu mà tổ chức của các hệ
thống tiền tệ phải tuân thủ và chính sách tiền tệ phải theo đuổi.
Xét về toàn cảnh thị trường tài chính thế giới trong những năm qua thì bức tranh
thị trường tài chính khá sáng sủa, các khoảng tối đã bị thu hẹp và nhường chỗ cho những
khoảng sáng. Thế giới đã từng chứng kiến sự hồi phục nhanh chóng của các nền kinh tế
từ châu á, châu Âu và Mỹ sau những tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ châu á diễn ra giữa năm 1997 chắc chắn còn là nỗi ám ảnh đối với nhiều người.
Bước vào thế kỷ mới, năm 2000, năm bản lề của sự phát triển và hưng thịnh, Việt
Nam - con rồng châu á xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vì vậy
việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu
quả nhất vẫn còn là một ẩn số phức tạp và nhiều bất cập.
Qua quá trình học tập môn học, được sự hướng dẫn của các thầy cô giáo ở bộ môn
nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, em xin mạnh dạn trình bày tiểu luận môn học Lý thuyết
tiền tệ với đề tài: “Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay”.
Tiểu luận gồm 3 phần:
Phần I : Lý thuyết chung về chính sách tiền tệ.
Phần II: Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
Phần III: Những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn hiện
nay.
43 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2132 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay
Lời mở đầu
Gắn liền với công cuộc đổi mới và mở cửa ở nước ta, có nhiều yêu cầu phải mở
giải quyết cùng một lúc: Vừa ổn định, vừa phát triển kinh tế trong nước, vừa mở rộng
giao lưu quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài ...Nhu cầu mở rộng lượng tiền
cung ứng (Cầu về tiền) ngày càng lớn, dẫn đến sự xác lập quan hệ cung - cầu mới về tiền
trong khi đó vẫn phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập
nền tảng cho sự phát triển chung.
Ngày nay không ai còn có thể phủ nhận bằng việc điều chỉnh tiền tệ cho phù hợp
với nhu cầu của nền kinh tế là một trong những vấn đề thiết yếu mà tổ chức của các hệ
thống tiền tệ phải tuân thủ và chính sách tiền tệ phải theo đuổi.
Xét về toàn cảnh thị trường tài chính thế giới trong những năm qua thì bức tranh
thị trường tài chính khá sáng sủa, các khoảng tối đã bị thu hẹp và nhường chỗ cho những
khoảng sáng. Thế giới đã từng chứng kiến sự hồi phục nhanh chóng của các nền kinh tế
từ châu á, châu Âu và Mỹ sau những tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ châu á diễn ra giữa năm 1997 chắc chắn còn là nỗi ám ảnh đối với nhiều người.
Bước vào thế kỷ mới, năm 2000, năm bản lề của sự phát triển và hưng thịnh, Việt
Nam - con rồng châu á xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Vì vậy
việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu
quả nhất vẫn còn là một ẩn số phức tạp và nhiều bất cập.
Qua quá trình học tập môn học, được sự hướng dẫn của các thầy cô giáo ở bộ môn
nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, em xin mạnh dạn trình bày tiểu luận môn học Lý thuyết
tiền tệ với đề tài: “Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay”.
Tiểu luận gồm 3 phần:
Phần I : Lý thuyết chung về chính sách tiền tệ.
Phần II: Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
Phần III: Những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn hiện
nay.
Phần I
Lý thuyết chung về chính sách tiền tệ
I. Những lý luận cơ bản về chính sách tiền tệ
1. Chính sách tiền tệ và vai trò của nó.
Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của
Nhà nước, nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân với các
nội dung sau:
Một là, Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động Ngân hàng.
Hai là, có biện pháp để động viên các nguồn lực trong nước là chính tranh thủ tối
đa nguồn lực ngoài nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế.
Ba là, bảo đảm vai trò chủ đạo và chủ lực của các tín dụng Nhà nước trong lĩnh
vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàn.
Bốn là, giữ vững định hướng XHCN, chủ quyền quốc gia, mở rộng hợp tác và hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng.
Năm là, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần công nghiệp
hóa hiện đại hoá đất nước.
Đây là chính sách lớn, mang tính định hướng cho hoạt động của hệ thống Ngân
hàng nói chung và trong lĩnh vực tiền tệ nói riêng. Chính sách tiền tệ có vai trò quan trọng
trong nền kinh tế thị trường. Nó là đòn bảy kinh tế lớn nhất trong hệ thống đòn bảy kinh
tế được sử dụng thường xuyên và linh hoạt nhất đối với mọi thành phần kinh tế. Không
sử dụng và không thực hiện đúng chính sách, chắc chắn sẽ làm cho quá trình phát triển
kinh tế gặp nhiều khó khăn hay vấp phải nguy cơ không lường trước được. Do đó điều
tiết vĩ mô cho đến nền kinh tế mỗi quốc gia.
Để chuẩn bị bước vào thế kỷ 21, thế kỷ hội nhập quốc tế và bùng nổ của khoa học
công nghệ, việc xây dựng chiến lựợc phát triển đã trở thành một vấn đề quan trọng đối
với mỗi quôc gia. Cho đến nay đã hoàn thành việc xây dựng cho mình một chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội chặng đường đầu tiên của thế kỷ mới. Với Việt Nam hiện nay,
vấn đề này đang được Đảng và Nhà nước coi là một nhiệm vụ to lớn củ cả các ngành, các
cấp, trong đó xây dựng chiến lược tài chính thực hiện chính sách tiền tệ được đặc biệt coi
trọng bởi tài chính luôn là một lĩnh vực bao trùm, chi phối mọi mặt, mọi phương diện của
đời sống xã hội trong bối cảnh kinh tế thế giới đầy thách thức và trở ngại với công cuộc
CNH - HĐH đất nước thì vai trò chính sách tiền tệ càng trở nên quan trọng bức thiết hơn
bao giờ hết.
Cụ thể hơn, chính sách tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều tiết
khối lượng tiền lưu thông trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua chính sách tiền tệ NHTW
có thể kiểm soát được hệ thống tiền tệ để từ đó kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định sức
mua của đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác chính sách tiền tệ còn là
công cụ để kiểm soát toàn bộ hệ thống các NHTM và các tổ chức tín dụng.
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Về cơ bản
6 mục tiêu cơ bản được những người của Dự trữ liên bang nêu lên thường xuyên
khi họ bàn luận đến đối tuợng chính sách tiền tệ là :
1. Công ăn việc làm cao
2.Tăng trưởng kinh tế.
3. ổn định giá cả
4. ổn định lãi suất
5. ổn định thị trường tài chính
6. ổn định thị trường ngoại hối
2.1. Về việc tạo công ăn việc làm
Việc làm cao là một mục tiêu có giá trị từ hai lý do chính :
- Trường hợp ngược lại, thất nghiệp cao, gây nên nhiều sự đau khổ cho con người,
các gia đình bị khốn cùng về tài chính.
- Khi thất nghiêph lên cao, thì nền kinh tế không những có những người lao động
ngồi không mà còn những nguồn tài nguyên để không(Xí nghiệp đóng cửa, thiết bị không
hoạt động, sản xuất ngưng trệ) đưa đến kết quả hoạt động giảm đi (GDP thấp xuống).
Mục tiêu của việc làm cao do đó sẽ không phải là một mức số không thất nghiệp,
mà là một mức trên số không phù hợp với việc làm đầy đủ, mà tại mức này cầu của lao
động ngang bằng cung của lao động. Các nhà Kinh tế gọi mức thất nghiệp đó là tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên.
Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm chủ yếu phụ thuộc vào tình hình tăng trưởng
kinh tế. Tình hình đó đặt ra cho NHTW trách nhiệm là phải vận dụng các công cụ của
mình góp phần tăng cưòng mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh đồng thời phải tham gia
tích cực vào sự taưng trưởng liên tục và ổn định khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt
quá mức tăng thất nghiệp tự nhiên.
2.2. Về việc tăng trưởng kinh tế :
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế quan hệ chặt chẽ với mục tiêu việc làm cao. Các
Chính sách có thể đặc biệt nhằm vào việc khuyến khích tăng trưởng kinh tế bằng cách
khuyến khích trực tiếp các hãng đầu tư hoặc quần chúng nhân dân tiết kiệm để có thêm
nhiều vốn cho các hãng đưa vào đầu tư.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu và quan trong nhất của chính sách tiền
tệ. Với tư cách là trung tâm tiền tệ tín ụng và thanh toán trong nền kinh tế quốc dân.
NHTW có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này. Ngân hàng nhà nước Việt
Nam cần Bằng mọi phương thức để có thể huy động được hầu hết các nguồn vốn nhàn rổi
trong nước và nước ngoài để phuc vụ cho mục tiêu này. Mục tiêu từ năm 2000 trở đi tốc
độ tăng trưởng kinh tế hàng năm phải đạt từ 9- 10% đó là múc tăng trưởng cao, nó đòi hỏi
phải gia tăng đầu tư hàng năm hàng chục tỷ USD.
2.3. Về ổn định giá cả
Hơn hai thập kỷ qua công chúng và các nhà kinh tế chuyên nghiệp Mỹ càng hiểu
rõ hơn cái giá phải trả về khinh tế và xã hội của lạm phát gay nên. Họ đã quan tâm nhiều
hơn đến một mức giá ổn định. ặn định giá cả là điều ai cũng mong muốn bởi vì mức giá
cả tăng lên (lạm phát) gây nên tình trạng bấp bênh trong nền kinh tế. Vì vậy, NHTW phải
góp phần duỳ trì tăng trưởng liên tục nhưng ổn định triệt tiêu nghững nhân tố gây nên sự
tăng nhu cầu giả tạo để tăng chi phí lên cao. Trong cuộc đấu tranh này, lãi suất và cung
ứng tiền tệ là hai thứ vũ khí lợi hại, luôn nắm bắt và theo dõi được thực tế diễn biến của
quá tình thực hiện mục tiêu để từ đó có những giải pháp, điều chỉnh phù hợp.
2.4.Về ổn định xã hội.
Mong muốn có một sự ổn định lãi suất vì những biết động của lãi suất làm cho nền
kinh tế bấp bênh và khó lập kế hoạch cho tương lai. Vì vậy, ổn định lãi suất chính là thực
hiện lãi suất tín dụng cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân thông
qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn
tiền gửi của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo phải linh hoạt, phù hợp với sự
vận động của cơ chế thị trường.
2.5. Về ổn định thị trường tài chính.
Một lý do rõ ràng của việc thành lập hệ thống dự trữ liên bang là hệ thống đó có
thể thúc đẩy một hệ thống tài chính ổn định. Việc ổn định thị trường tài chính cũng được
thúc đẩy bởi sự ổn định lãi suất bởi vì biến động trong lãi suất gay nên sự lưỡng lự lớn
cho các tổ chức tài chính. Trong những năm gần đây những biến động mạnh của lãi suất
là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với các hiệp hội tiết kiệm và cho vay đã gặp khó
khăn về tài chính như chúng ta đã biết.
2.6. Về ổn định thị trường ngoại hối
Nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền nội địa NHTW thưc hiên các nhiệm
vụ giao dịch về tài chính và tiền tệ đối ngoại qua các phương diện:Quản lý ngoại hối, lập
và theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế, thưch hiện các nghiệp vụ hối đoái tổ
chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước. Xây dựng và thống nhất quản lý dự trữ
ngoại hối, tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế. Cần lập mối quan hệ
với NHTW khác với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ
(vay nợ) nước ngoài và có điều kiện ưu đãi khuyến khích đầu tưu nuớc ngoài và thu hút
kiều hối.
*Các mục tiêu trung gian
Trong cơ chế thị trường, NHTW phải xác định các mục tiêu trung gian của chính
sách tiền tệ, nhằm đạt đến mục tiêu cuối cùng của chính sách này. Bởi lẽ NHTW sử dụng
các mục tiêu trung gian đẻ có thể xét đoán nhanh chóng tình hình thưch hiện các hoạt
động của mình phục vụ cho các mục tiêu cuối cùng hơn là chờ cho đến khi nhìn thấy
được kết quả cuối cùng của các mục tiêu đó. Các mục tiêu trung gian cảu chiónh sách tiền
tệ mà NHTW sử dụng là các khối tiền tệ M1,M2,M3 và lãi suất.
Đây là những mục tiêu mang tính định luợng, chúng có thể đo lường, kiểm soát
được và có thể dự đoán tác động của chúng đối với việc thực hiện cac mục tiêu cuối cùng
của chính sach tiền tệ.
Bằng việc tăng, giảm các khối tiền tệ, NHTW góp phần tác động đến tăng, giảm
tổng cung và tổng cầu của tiền tệ. Đồng thời, NHTW cũng có thể sử dụng công cụ lãi suất
để tác động đến sự tăng giảm khối lưọng tiền tệ từ đó mà tác động đến tổng cung và tổng
cầu xã hội. Tuy nhiên thực tiễn thi hành chính sách tiền tệ ở nhiều nuớc cho phép người
ta thiên về hướng lụa chọn các khối lượng tiền tệ làm mục tiêu trung gian hơn là lựa chọn
lãi suất.
Trong các khối tiền tệ, tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước, NHTW có thể lựa
chọn M1, M2 hoặc M3 làm mục tiêu trung gian ưu tiên
3. Nội dung chính sách tiền tệ
Trong cơ chế kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ bào gồm ba thành phần cơ bản
gắn liền với ba kênh dẫn nhập tiền vào lưu thông là:
+ Chính sách tín dụng
+ Chính sách ngoại hối
+ Chính sách đối với ngân sách nhà nước
3.1. Chính sách tín dụng
Thực chất chính sách tín dụng là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế,
thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngan hàng, dựa trên các quỹ cho vay đựoc tạo lập từ các
nguồn tiền gửi của xã hội và một hệ thống lãi suất mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với sự
vận động của cơ chế thị trường.
3.2. Chính sách ngoại hối.
Nhằm đảm bảo việc sử dụng hiệu quả ccá tài sản có giá trị thanh toán đối ngoại
phục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đảy tăng trưởng kinh tế bền vững và gia tăng việc
làm trong xã hội, bảo đảm chủ quyền tiền tệ của đất nứoc.
3.3. Chính sách đối với ngân sách nhà nước
Nhằm đảm bảo phương tiện thanh toán cho chính phủ trong trường hơph nmhân
sách nhà nước bị thiếu hụt.
Phương thức cung ứng tối ưu là NHTW cho ngân sách nhà nước vay theo kỳ hạn
nhất định. Đần và tiến tới loại bỏ hoàn toàn phát hành tiền tệ để bù đắp thiếu hụt ngân
sách.
3.3.1. Trường hợp ngân sách thâm hụt
Chênh lệch giữa thu và chi ngân sách sẽ có tác động khác nhau ddeens nền kinh tế
tuỳ cách tài trợ số chênh lêch ấy có bốn cách đẻ tài trợ thâm hụt ngân sách
Một là vay dân cư
Hai là vay hệ thống tín dụng và thị trường tài chính trong nước
Ba là vay NHTW
Bốn là vay nước ngoài
Vay của NHTW và vay của nước ngoài (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng mạnh khối tiền
tệ, gây áp lực tiềm tàng về sau. Vay của dân cư và của cac NHTM trong nước nguy cơ
làm tăng khối lượng tiền tệ nhẹ hơn. áp lực lạm phát tại các nước đang phát triển mạnh
hơn các nước có thu nhạp cao là do các nước này chủ yếu sử dụng biện pháp vay NHTW
bằng cách phát hành tiền trực tiếp và vay nợ nước ngoài .
3.3.2. Trường hợp ngân sách cân bằng
Khi chính phủ thu thuế tức là đã lấy ra khỉ lưu thông một lưọng tiền và chi trở lại
số tiền ấy vào bộ máy kinh tế. khối tiền tệ không thay đổi vì nó được tăng giảm một
ngạch số như nhau. Tuy nhiên, nó có thể thay đổi kết cấu giữa tiêu dùng và tiết kiệm,
chẳng hạn nếu tầng lớp chịu thuế không giảm tiêu thụ mà giảm tiết kiệm. Trong khi đó,
chính phủ phải dùng số thuế thu được một phần trợ cấp cho những người có thu nhập
thấp thì số tiêu thụ chung lại gia tăng, số đầu tư giảm và kết quả là có thể làm tăng vật
giá. Nếu nhà nước dùng số chi ngân sách để đầu tư thì đầu tư nhà nước tăng lên, đầu tư
chung không đổi. Lưu ý hai trường hợp :
Thứ nhất : Nếu chính sách tiền tệ chống lạm phát, ngân sách thăng bằng vẫn có thể
tác dụng ngược với chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái.
Thứ hai: Trường hợp chính sách tiền tệ nằm chống suy thoái ngân sách thăng bằng
vẫn có thể chuyển dịch thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách
làm tăng mức tiêu thụ.
3.3.3. Trường hợp ngân sách thặng dư:
Đây là trường hợp rất quý và nó là ước mơ chung của mọi quốc gia vì nó rút bới
tiền tệ dư thừa, tác đọng có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ.
4. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ
Xét cho cùng, NHTW có thể thục thinhai loại chính sách tiền tệ phù hợp với tình hình
thực hiện cuỉa nền kinh tế đó là:
- Chính sách nới lỏng tiền tệ
- Chính sách thắt chặt tiền tệ
Chính sách nới lỏng tiền tệ là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế nhằm
khuyến khích đầu tư phát triiển kinh tế tạo công ăn việc làm.
Chính sách thắt chặt tiền tệ là việc giảm cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế, nhằm
hạn chế đầu tư, nganư chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế kiềm chế lạm phát.
Để thực hiện hai chính sách tiền tệ này, NHTW có thể sử dụng hàng loạt các công
cụ tiền tệ nằm trong tay của mình, đố là các công cụ trực tiếp, các công cụ gián tiếp.
4.1.Các công cụ trực tiếp
Gọi là các công cụ trực tiếp vì thông qua chúng, NHTW có thể tác đọng trực tiếp
đến cung cầu tiền tệ, mà không cần phải thông qua công cụ khác.
4.1.1. ấn định khung lãi suất tiền gửi và chon vay
NHTW có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc các ngân hành kinh doanh
phải thi hành.
Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút đựơc tiền gửi làm tăng nguồn vốn cho vay.
Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rông kinh doanh tín dụng.
Song biện pháp này sẽ làm cho NHTM mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh.
Mặt khác nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng, nhưng lại thiếu vốn đầu tư,
hoặc khuyến khích dân cư vào dự trữ vàng, ngoại tệ, bất động sản, trong khi ngân hàng bị
hụt hẫng về tiền mặt, cũng như nguồn vốn cho vay.
NHTW có thể quy định khung lãi suất cho vay buộc ngân hàng khinh doanh chấp
hành.
Khi muốn tăng khối lượng cho vay, NHTW giảm mức lãi suất để kích thích các
nhà đầu tư vay vốn. Khi vần hạn chế đầu tư. NHTW ấn định với lãi suất cao.
Biện pháp này có ưu điểm là giúp ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho
vay, loại những dự án kém hiệu quả.
Việc ấn định các cung lãi suất tiền gửi và cho vay nhìn chung ngày càng được áp
dụng ởi các nước theo cơ chế thị trường, lãi xuất rất nhậy cảm với đầu tư, nó phải vận
động theo quy luật cung cầu vốn trên thị trường.
4.1.2. ấn định mức tín dụng
Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể. Thực chất biện pháp này cho
phép NHTW ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một
thời gian nhất định và sau đó tìm con đường để đưa nó vào nền kinh tế.
Song trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín dụng biến động không ngừng, biện
pháp này chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu.
4.1.3. Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và cho đầu tư
Trong điều kiện ngân sách bị thiếu hụt, NHTW phải phát hành tiền để bù đắp sự
thiếu hụt đó. Rõ ràng biện pháp này làm gia tăng luợng tiền trong lưu thông, trong khi
lượng hàng hoá không tăng hoặc tăng không kịp. Hởu quả là gia tăng lạm phát. Nó được
nhanh chóng loại trừ trong điều kiện kinh tế thị trường bình thường.
Phát hành trực tiếp cho đầu tư có thể qua ngân sách nhà nước hoặc qua con đường
tín dụng ngân hàng (biện pháp này gọi là biện pháp cho sản xuất hay gọi ;à biện phát lạm
phát lành mạnh) biện phápnày cần thiết trong điều kện nền kinh tế suy thoái, dư thừa tiềm
năng kinh tế. Nó sẽ mang lại hiệu quả tích cực, khơi dậy các tiềm năng về tài nguyên và
con người.
4.1.4. Phát hành trái phiếu Nhà nước để giảm lượng tiền trong lưu thông
Trong điều kiện không thể áp dụng các biện pháp khác chính phủ có thể phát hành
một loạt trái phiếu nhất định để thu hút khối lượng tiền trong lưu thông. Việc phân bổ trái
phiếu mang tính bắt buộc
4.2. Các công cụ gián tiếp
Là những công cụ mà tác dụng của nó được coi là kinh tế thị trường
4.2.1. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các NHTM đưc và dự trữ theo luật định. Phần
dự trữ này được gửi vào tài khoản chuyên dùng của NHTM và đẻ lại quỹ của mình với
mục đích góp phần bảo đảm khả năng thanh toán của NHTM và làm phương tiện kiểm
soát khối lưọng tín dụng của ngân hàng này.
Khi tăng tỷ lệ dự trữ sẽ góp phần giảm khả năg cho vay và đầu tư của NHTM, từ
đó giảm lượng tiền trong lưu thông, góp phần làm giảm cầu iền để cân bằng với sự
giảm cung xã hội. trong trường hợp giảm tỷ lệ giự trữ bắt buộc, khả năng mở rông cho
vay của NHTM sẽ tăng lên, dẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăng
cung xã hội để cân đối tăng cầu về tiền.
4.2.2. Lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn
Tái cấp vốn là cách để NHTM đua tiền ra lưu thông đồng thời khống chế và số
lượng và khối lượng tín dụng của ngan hàng trung gian. Qua việc cấp tín dụng, NHTW đã
tạo cơ sở đầu tiên thúc đảy toàn bộ hệ thống các ngân hàng trung gian tạo ra tiền, cũng
như khai thông được thanh toán cho họ.
Khi một ngân hàng trung gian, bằng nguồn vốn đi vay hoặc huy động được, cấp ra
một khoản tín dụng và lập tức biến thành tiền gửi tại nhân hàng đó hoặc tại ngân hàng
liên đới. Họ nhanh chóng có nhu cầu tiền trung ương để :
Đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng
Thanh toán bằng tiền mặt hay chuyểnm khoản cho các ngân hàng khác.
Mua ngoại tệ trên thị trường hối đoái hoặc của NHTƯ
Các ngân hàng trung gian tìm đến NHTW xin cấp vốn bằng cách xin tái chiết khấu
trước đó.
Tái cấp vốn là đầu mối phát sinh tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ nên
NHTW giải quyết rất thận trọng trên cơ sở :
Chỉ tiêu tín dụng trong nền kinh tế nằm trong khối lượng tiền tệ cung ứng thêm
hàng kỳ kế hoạch.
Hạn mức tín dụng đã phân phố cho từng NHTM theo mức dư nợ tín dụng thực tế
hoặc theo vốn tự có cuả NHTM đó nhưng chưa dùng tới.
Tỷ lệ tiền mặt và tiền ghi sổ đã hình thành trong nền kinh tế. Tuy nhiên trong số
tiền trung ương được tái cấp vốn. NHTM sử dụng bao nhiêu tiền mặt cũng được.
Điều kiện để NHTW tái cấp vốn là :
Còn hạn mức tín dụng (tái cấp vốn) dành cho NHTM đó :
Các khoản tín dụng đem tái chiết khấu có lành mạnh và đảm bảo hối nợ hay
k