Luận văn Cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - Thương mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

Trong thế kỉ XX, thương mại quốc tế đã chuyển từ hệ thống chính trị đa cực dựa trên sự liên kết giữa các quốc gia sang một hệ thống hợp tác về mặt kinh tế mang tính chất khu vực với những nét đặc trưng riêng. Điều không thể tránh khỏi của sự hợp tác tăng cường thông qua các thoả thuận song phương, khu vực và quốc tế là sự xuất hiện các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và thực hiện các thoả thuận quốc tế. Theo đó, một cơ chế đáng tin cậy cho việc giải quyết các tranh chấp thương mại phát sinh đã trở nên cần thiết để đảm bảo chức năng hiệu quả và liên tục của các thoả thuận quốc tế này. Trong những năm qua, các cơ chế giải quyết tranh chấp nói chung và giải quyết tranh chấp thương mại nói riêng đã phát triển từ các cơ chế tương đối đơn giản dựa trên con đường ngoại giao như đã đề ra trong GATT, đến các cơ chế mang tính chất pháp lý dựa trên việc xét xử được tìm thấy trong WTO. Các hiệp định song phương và khu vực hay các thiết chế khu vực chẳng hạn như NAFTA, EU đã thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp dựa trên quy trình xét xử ở các mức độ khác nhau. Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất vào năm 1976, ASEAN đã dẫn đầu việc tạo ra một khối thương mại khu vực trong khu vực Đông Nam Á, hợp tác và phát triển kinh tế giữa các nước trong khu vực ASEAN bắt đầu được quan tâm. Đã có nhiều văn kiện pháp lý về kinh tế - thương mại được ký kết trong khuôn khổ ASEAN trong thời kì này như: Thoả thuận ưu đãi thương mại (PTA) năm 1977, Chương trình liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) năm 1983, Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư năm 1987, Tuy nhiên, trong thời kì đầu liên kết kinh tế, mức độ hợp tác diễn ra chậm bởi thời kì này ASEAN coi hợp tác khu vực nói chung và hợp tác an ninh chính trị nói riêng là biện pháp quan trọng để hoà bình ổn định khu vực, coi đây là nền tảng cho những bước hợp tác quan trọng trong tương lai của ASEAN. Phải tới đầu những năm 90, hợp tác phát triển kinh tế khu vực mới được chú trọng và có những bước tiến đáng kể. Tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 4 tại Singapore năm 1992, các nước ASEAN đã thông qua Tuyên bố Singapore, Hiệp định khung về tăng cường hợp tác ASEAN và đặc biệt là quyết định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trên cơ sở Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEFT), tiếp đó là hành loạt các điều ước quốc tế khác được ký kết trong lĩnh vực kinh tế - thương mại của ASEAN (Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ năm 1995, Hiệp định khung ASEAN về hợp tác về quyền sở hữu trí tuệ năm 1995, Hiệp đinh cơ bản về hợp tác công nghiệp năm 1996, ). Cũng như trong các khối thương mại khác, trước sự phát triển nhanh chóng của hoạt động hợp tác kinh tế trong khuôn khổ ASEAN, yêu cầu thiết yếu cần phải xây dựng một cơ chế giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực này một cách hiệu quả và khả thi. Việc nghiên cứu về cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Do vậy, tác giả đã chọn đề tài “Cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á” cho luận văn của mình.

doc80 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2710 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - Thương mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và thực hiện công trình nghiên cứu, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình và vô cùng quý báu từ các thầy cô, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình, nghiêm túc và khoa học của thầy giáo PGS.TS Hoàng Phước Hiệp. Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trường Đại học Luật Hà Nội, các anh chị em học viên Cao học khoá XVII và các đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Học viên Trần Thị Thu Trà LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Trong quá trình thực hiện và hoàn thành bản Luận văn này, tác giả có tham khảo một số bài viết, các tài liệu của các tác giả khác, các nguồn trích dẫn, tham khảo đã được chỉ ra trong danh mục tài liệu tham khảo. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của trường Đại học Luật Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị trường Đại học Luật Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Học viên Trần Thị Thu Trà MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thế kỉ XX, thương mại quốc tế đã chuyển từ hệ thống chính trị đa cực dựa trên sự liên kết giữa các quốc gia sang một hệ thống hợp tác về mặt kinh tế mang tính chất khu vực với những nét đặc trưng riêng. Điều không thể tránh khỏi của sự hợp tác tăng cường thông qua các thoả thuận song phương, khu vực và quốc tế là sự xuất hiện các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và thực hiện các thoả thuận quốc tế. Theo đó, một cơ chế đáng tin cậy cho việc giải quyết các tranh chấp thương mại phát sinh đã trở nên cần thiết để đảm bảo chức năng hiệu quả và liên tục của các thoả thuận quốc tế này. Trong những năm qua, các cơ chế giải quyết tranh chấp nói chung và giải quyết tranh chấp thương mại nói riêng đã phát triển từ các cơ chế tương đối đơn giản dựa trên con đường ngoại giao như đã đề ra trong GATT, đến các cơ chế mang tính chất pháp lý dựa trên việc xét xử được tìm thấy trong WTO. Các hiệp định song phương và khu vực hay các thiết chế khu vực chẳng hạn như NAFTA, EU đã thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp dựa trên quy trình xét xử ở các mức độ khác nhau. Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất vào năm 1976, ASEAN đã dẫn đầu việc tạo ra một khối thương mại khu vực trong khu vực Đông Nam Á, hợp tác và phát triển kinh tế giữa các nước trong khu vực ASEAN bắt đầu được quan tâm. Đã có nhiều văn kiện pháp lý về kinh tế - thương mại được ký kết trong khuôn khổ ASEAN trong thời kì này như: Thoả thuận ưu đãi thương mại (PTA) năm 1977, Chương trình liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) năm 1983, Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư năm 1987,… Tuy nhiên, trong thời kì đầu liên kết kinh tế, mức độ hợp tác diễn ra chậm bởi thời kì này ASEAN coi hợp tác khu vực nói chung và hợp tác an ninh chính trị nói riêng là biện pháp quan trọng để hoà bình ổn định khu vực, coi đây là nền tảng cho những bước hợp tác quan trọng trong tương lai của ASEAN. Phải tới đầu những năm 90, hợp tác phát triển kinh tế khu vực mới được chú trọng và có những bước tiến đáng kể. Tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 4 tại Singapore năm 1992, các nước ASEAN đã thông qua Tuyên bố Singapore, Hiệp định khung về tăng cường hợp tác ASEAN và đặc biệt là quyết định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trên cơ sở Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEFT), tiếp đó là hành loạt các điều ước quốc tế khác được ký kết trong lĩnh vực kinh tế - thương mại của ASEAN (Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ năm 1995, Hiệp định khung ASEAN về hợp tác về quyền sở hữu trí tuệ năm 1995, Hiệp đinh cơ bản về hợp tác công nghiệp năm 1996,…). Cũng như trong các khối thương mại khác, trước sự phát triển nhanh chóng của hoạt động hợp tác kinh tế trong khuôn khổ ASEAN, yêu cầu thiết yếu cần phải xây dựng một cơ chế giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực này một cách hiệu quả và khả thi. Việc nghiên cứu về cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Do vậy, tác giả đã chọn đề tài “Cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á” cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hợp tác giữa các quốc gia ASEAN ngày càng được mở rộng ở nhiều lĩnh vực và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đặc biệt là lĩnh vực thương mại với mục tiêu nỗ lực hướng tới xây dựng Cộng đồng ASEAN thành Cộng đồng kinh tế vào năm 2020. Song song với điều đó là một loạt các tranh chấp phát sinh từ việc giải thích, thực hiện hay áp dụng các hiệp định, thoả thuận được ký kết song phương hoặc đa phương. Hiện nay, trong giáo trình luật quốc tế của các cơ sở đào tạo luật chưa đề cập đến cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Còn trong các công trình khoa học trên các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,… đã đề cập tới cơ chế trên tuy nhiên các công trình nghiên cứu này mới chỉ nghiên cứu cơ chế giải quyết tranh chấp nói chung của ASEAN chứ chưa nghiên cứu sâu cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế - thương mại của ASEAN. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn a. Mục đích nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu sự phát triển của cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (sau đây gọi tắt là cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của ASEAN) xuất phát từ mô hình ngoại giao là chủ yếu sang một hệ thống dựa trên các quy định pháp luật với tham chiếu cụ thể là bối cảnh ASEAN. Từ đó có cơ sở khoa học để đánh giá pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, cụ thể là đánh giá mức độ việc thông qua Nghị định thư về tăng cường giải quyết tranh chấp năm 2004 để từ đó có thể tiến hành giải quyết các vụ tranh chấp thương mại phát sinh trong khu vực. Bên cạnh đó, Luận văn cũng nghiên cứu xác định các triển vọng và thách thức mà ASEAN phải đối mặt trong việc thực hiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của mình dựa trên việc so sánh với cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại trong các hiệp định thương mại khác. Mặt khác, Luận văn xem xét cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của Việt Nam hiện nay, phương hướng và một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại để hài hoà hoá với cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của ASEAN. b. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề giải quyết các tranh chấp thương mại phát sinh giữa các quốc gia luôn được nhìn nhận là lĩnh vực phức tạp. Mặt khác, với sự phát triển của quan hệ quốc tế hiện nay, thực tiễn của hoạt động giải quyết các tranh chấp thương mại ở các tổ chức quốc tế nói chung và của ASEAN nói riêng đã và đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu. Bản luận văn không đề cập được đến tất cả các vấn đề mà chỉ tập trung nghiên cứu các nội dung sau: - Những vấn đề lý luận cơ bản về giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Triển vọng và thách thức của ASEAN trong việc thực thi cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của khu vực mình dựa trên việc so sánh với cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại trong các hiệp định thương mại khác. - Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của ASEAN - Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại của Việt Nam c. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành mục đích và những nhiệm vụ đặt ra, luận văn đã được tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp liệt kê, phương pháp tổng hợp,… Đặc biệt, các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của khoa học pháp lý như: phương pháp phân tích, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh,… được sử dụng chủ yếu trong luận văn. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Qua quá trình nghiên cứu, luận văn góp phần làm rõ hơn sự phát triển của cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của ASEAN và pháp luật của ASEAN về giải quyết tranh chấp thương mại, tạo cơ sở khoa học để làm rõ và bước đầu hoàn thiện pháp luật quốc gia về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Về mặt thực tiễn, luận văn giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của ASEAN. Từ đó có những kiến thức cơ bản về cơ chế này trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của khu vực nói chung và của Việt Nam nói riêng. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Chương 2: Pháp luật và thực tiễn vận hành cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam để đáp ứng cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của ASEAN Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ - THƯƠNG MẠI CỦA HIỆP HỘI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á 1.1. TỔNG QUAN QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ - THƯƠNG MẠI CỦA HIỆP HỘI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á Trong thập kỷ đầu mới thành lập, hoạt động của ASEAN chủ yếu tập trung vào các vấn đề văn hoá, chính trị và tăng cường mối quan hệ hiểu biết lẫn nhau để củng cố, hợp tác phát triển mối quan hệ đoàn kết trong khu vực Đông Nam Á. Các quốc gia thành viên cố tránh các va chạm, căng thẳng, các tranh chấp, xung đột chủ yếu được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải hoặc theo cơ chế chung của hệ thống pháp luật quốc tế [2]. Thời kỳ này, ASEAN chưa có một cơ chế giải quyết tranh chấp riêng trong khu vực. Tuyên bố Băng - kốc năm 1967 ghi nhận khẳng định bước đầu của các nước ASEAN cùng nhau thúc đẩy hoà bình, ổn định khu vực thông qua việc tôn trọng công lý, các nguyên tắc pháp luật trong quan hệ giữa các quốc gia và Hiến chương của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, Tuyên bố này chủ yếu nhấn mạnh vào sự hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các quốc gia thành viên ASEAN mà chưa thực sự đề ra một cơ chế giải quyết tranh chấp rõ rệt cho các tranh chấp giữa các nước này. Thập kỷ sau, các hoạt động thương mại có chiều hướng chuyển sang thương mại quốc tế và khu vực. Hàng loạt các văn kiện về hợp tác kinh tế khu vực đã được ký kết giữa các quốc gia thành viên ASEAN. Tiếp theo Tuyên bố Băng - kốc năm 1967, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á đã được ký kết tại Bali (Indonesia) ngày 23-24/2/1976 (còn được gọi tắt là Hiệp ước Bali hoặc TAC). Đúng như tên gọi của Hiệp ước, mục đích của Hiệp ước này là duy trì nền hoà bình vĩnh viễn, thúc đẩy sự thân thiện và hợp tác lâu bền góp phần tăng cường tình đoàn kết và quan hệ chặt chẽ giữa các nước tham gia Hiệp ước. TAC được đánh giá là văn kiện quan trọng, đề ra các nguyên tắc cơ bản tạo nền tảng cho các quan hệ hợp tác bền vững giữa các quốc gia thành viên ASEAN. Đồng thời, TAC cũng quy định nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình và đưa ra cơ chế chung giải quyết các tranh chấp trên các lĩnh vực hợp tác an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội…của ASEAN. Do đó, trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp, TAC được đánh giá là bộ quy tắc chỉ đạo cho ra đời một cơ chế chung để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thành viên ASEAN. Tuy nhiên, với cơ chế quy định tại TAC thì vai trò của ASEAN chưa thật sự trở thành “bánh xe chính” trong quá trình giải quyết tranh chấp của khu vực. Cùng với sự phát triển đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế quốc tế và khu vực, số lượng các thoả thuận hợp tác kinh tế giữa các quốc gia thành viên ASEAN ngày càng nhiều. Đồng thời, các tranh chấp, bất đồng liên quan đến việc áp dụng và thực thi các cam kết kinh tế thương mại trong khu vực ngày càng gia tăng và làm nảy sinh nhu cầu xây dựng một cơ chế giải quyết một cách hiệu quả các tranh chấp thương mại trong khu vực Đông Nam Á [18]. Sau khi thành lập Khu vực mậu dịch tự do AFTA, sự cần thiết phải có một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại hiệu quả trong khu vực trở nên rõ ràng. Hiệp định CEFT-AFTA chỉ cung cấp cho các nước thành viên sự tham khảo khi các nước thành viên đối mặt với sự khác biệt liên quan tới việc giải thích hay áp dụng Hiệp định bởi trong nội dung của Hiệp định có rất ít hướng dẫn cho các bên trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh. Tại cuộc họp lần thứ 3 vào tháng 12 năm 1992, các thành viên ASEAN đã đưa một cơ chế giải quyết tranh chấp vào chương trình nghị sự của Hội đồng AFTA. Vào năm 1995, Hội nghị Bộ trưởng kinh tế AEM kêu gọi tăng cường một số cơ chế phối hợp hợp tác kinh tế ASEAN, đặc biệt liên quan đến các cam kết của các thành viên ASEAN hướng tới việc thực hiện Hiệp định CEFT-AFTA. Theo đó, các quyết định chính thức mang tính chất hợp tác được ban hành bởi ASEAN đã được bổ sung bởi một cơ chế dựa trên các nguyên tắc pháp lý nhiều hơn để đảm bảo tính minh bạch và bền vững của quá trình hợp tác kinh tế khu vực. Các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhất trí thiết lập một cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN bằng việc ký kết thông qua Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp vào ngày 20 tháng 11 năm 1996 tại Manila (Philippine) (sau đây gọi tắt là Nghị định thư năm 1996), đưa ra một cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế - thương mại của ASEAN. ASEAN được thành lập với nhiệm vụ bảo đảm hoà bình, an ninh và xây dựng một nền kinh tế. Trong hai thập kỉ đầu tiên tồn tại, chính trị và an ninh là mối quan tâm chính trong các chương trình nghị sự. Tuy nhiên, từ những năm 1970, hợp tác về kinh tế đã trở thành ưu tiên hàng đầu của ASEAN với các bước đi quan trọng đã được thực hiện nhằm giảm các rào cản trong khu vực để gia tăng dòng chảy thương mại và đầu tư. Phản ánh sự phát triển hội nhập kinh tế khu vực, khu vực ASEAN đang hiện diện những cơ hội đáng kể để đem lại sự thịnh vượng cho khu vực. Năm 2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua Hiệp ước Bali II, theo đó Hiệp ước kêu gọi thành lập Cộng đồng ASEAN (Asean Community – AC) vào năm 2020. Cộng đồng ASEAN sẽ bao gồm ba trụ cột liên quan đến an ninh – chính trị, văn hoá – xã hội và các vấn đề kinh tế. Trụ cột thứ ba - Cộng đồng kinh tế ASEAN ( Asean Economic Community – AEC) được dự kiến sẽ tiến xa hơn, không chỉ là một khu vực thương mại tự do mà còn tạo ra một thị trường và cơ sở sản xuất thực sự, phần nào tương tự như Liên minh Châu Âu (European Union – EU), tổ chức được đặc trưng bởi dòng chảy tự do hàng hoá, dịch vụ và lao động có tay nghề cao. Xuất phát từ những thiếu sót của Nghị định thư năm 1996 và quyết định đi đến thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2020, việc thiết lập một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại mới để tăng cường, củng cố cho cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại hiện có của ASEAN đã trở nên cấp thiết và rõ ràng. Các nước ASEAN đồng thuận chấp nhận việc sửa đổi Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại hiện có để đảm bảo rằng các quyết định ràng buộc có thể được thực hiện khẩn trương và chỉ dựa vào các yếu tố pháp lý đối với các vụ tranh chấp thương mại nội khối ASEAN. Trong năm 2004, các nước thành viên ASEAN đã thông qua một Nghị định thư mới về cơ chế giải quyết tranh chấp, được gọi là Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp (sau đây gọi tắt là Nghị định thư năm 2004). Với việc thông qua Nghị định thư năm 2004, ASEAN đã thực hiện một bước quan trọng trong việc tạo ra một hệ thống xét xử riêng biệt dựa trên các nguyên tắc mang tính pháp lý khác với hệ thống tập trung vào việc hoà giải như trước đây. Theo hệ thống trước đó, quá trình hoà giải là việc mang lại một giải pháp mà mỗi bên tranh chấp sẽ lựa chọn để chấp nhận. Nếu có bất đồng, các bên chỉ cần đặt vấn đề sang một bên và không đồng ý với cách giải quyết đó. Thay vào đó, quá trình xét xử mới xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp. Cách tiếp cận này cho thấy quá trình giải quyết tranh chấp là một quá trình xử lý mang tính kỷ luật cao mà Ban hội thẩm thực hiện phán quyết một cách khách quan về hoạt động bất kỳ nào đó của một số nước thành viên mà không phù hợp với việc áp dụng hiệp định. Nghị định thư năm 2004 thay thế và xây dựng dựa trên Nghị định thư năm 1996 cung cấp rất nhiều điều khoản quy định chi tiết về tư vấn, thủ tục Ban hội thẩm, thảo luận. Đồng thời Nghị định thư năm 2004 cũng đưa ra thêm thủ tục mới, chẳng hạn như tài liệu tham khảo về Ban hội thẩm, bên khiếu nại, bên thứ ba và Cơ quan phúc thẩm. Thật vậy, việc thành lập Cơ quan phúc thẩm là sự phát triển quan trọng nhất của Nghị định thư năm 2004. Việc ký kết Nghị định thư năm 2004 về tăng cường giải quyết tranh chấp thương mại đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc tăng cường thế chế của ASEAN và đây là bước mới nhất trong quá trình hợp pháp hoá các cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại trong ASEAN. Nghị định thư 2004 đồng thời cũng là một bước rất quan trọng để ASEAN tiến tới thành lập một Cộng đồng kinh tế (AEC) vào năm 2020. Nghị định thư năm 2004 đánh dấu giai đoạn cuối cùng của quá trình chuyển đổi từ cách thức giải quyết tranh chấp thông qua con đường ngoại giao là chủ yếu sang cách thức giải quyết tranh chấp thông qua con đường xét xử dựa trên các nguyên tắc pháp lý chặt chẽ. Ngày 20/11/2007 đánh dấu một sự kiện quan trọng trong lịch sử ASEAN khi các nhà Lãnh đạo ASEAN đã ký thông qua Hiến chương ASEAN tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-13 ở Singapore. Hiến chương ASEAN chính thức có hiệu lực từ ngày 15/12/2008. Sự ra đời của Hiến chương ASEAN phản ánh sự trưởng thành của Hiệp hội, thể hiện tầm nhìn và quyết tâm mạnh mẽ của các nước thành viên nhằm mục tiêu xây dựng một ASEAN hoà bình, ổn định và phát triển với vị thế mới hơn, liên kết chặt chẽ hơn và ràng buộc pháp lý hơn. Đồng thời, Hiến chương cũng dành một chương quy định về việc giải quyết tranh chấp, hệ thống hoá những thoả thuận trước kia của ASEAN và tạo cơ cở pháp lý việc xây dựng và hoàn thiện các cơ chế giải quyết tranh chấp trong mọi lĩnh vực của ASEAN. Hiến chương ASEAN được đánh giá là một sản phẩm mang đậm nét truyền thống văn hoá của các quốc gia Đông Nam Á, là tiếng nói chung phản ánh mức độ “thống nhất trong đa dạng” về một Cộng đồng ASEAN ngày càng gắn kết và ràng buộc hơn về pháp lý để giúp duy trì môi trường hòa bình và ổn định ở khu vực, hỗ trợ đắc lực cho các nước thành viên phát triển kinh tế - xã hội cũng như hội nhập khu vực và quốc tế. Về cơ bản, nội dung của Hiến chương không phải là những vấn đề hoàn toàn mới mà đó là sự đúc kết và hệ thống hóa trong một văn kiện pháp lý những mục tiêu, nguyên tắc và thỏa thuận đã có của ASEAN, có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới [9]. Thông qua Hiến chương, ASEAN và các quốc gia thành viên nêu rõ cam kết về việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản đã được nêu trong các tuyên bố và các văn kiện của ASEAN. Đó là các nguyên tắc như tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, ra quyết định bằng tham vấn và đồng thuận… Với cách tiếp cận đó, trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp, nhiều quy định về các cơ chế giải quyết tranh chấp quy định trong Hiến chương ASEAN cũng được tổng hợp và hệ thống hoá từ các văn kiện khác của ASEAN. Ví dụ, nguyên tắc giải quyết tranh chấp kịp thời bằng biện pháp hoà bình, kiềm chế không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực khi có tranh chấp, tôn trọng sự thoả thuận... đã được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc, TAC năm 1976, được tái khẳng định trong Nghị định thư năm 1996, Nghị định thư năm 2004 và tiếp tục được sử dụng trong Nghị định thư năm 2010. Một số biện pháp giải quyết tranh chấp mang tính truyền thống của ASEAN như môi giới, trung gian, hoà giải cũng đã được quy định trong Nghị định thư năm 2004, Hiến chương ASEAN và lại được quy định một cách cụ thể hơn, hoàn thiện hơn trong Nghị định thư năm 2010 cùng các phụ lục của Nghị đ