Ca dao, dân ca là những viên ngọc quí trong kho tàng văn hóa dân tộc, in đậm hình ảnh
cuộc sống và con người Việt Nam. Trong bài viết về truyền thống văn hóa dân tộc, giáo sư viện
sĩ Nguyễn Khánh Toàn đã khẳng định: “Có thể nói dân tộc Việt Nam là một trong những dân
tộc có nền văn hóa dân gian rất giàu đẹp và giá trị của nó đã vượt qua thử thách của thời gian,
bởi vì bản chất của nó là nhân nghĩa thủy chung, vì nước, vì dân, vì con người, vì độc lập tự do
hạnh phúc và hòa bình, nền tảng của nó là nhân dân. Nó là một cống hiến xứng đáng vào nền
văn hóa chung của loài người ”. [176]
Cái gốc của văn hóa dân tộc là văn hóa dân gian, đặc biệt là thơ ca dân gian. Có thể nói hơn
bất cứ dữ liệu văn hóa nào khác, qua thơ ca dân gian chúng ta có thể thấy được một phần bản
lĩnh, bản sắc, tính cách của dân tộc Việt Nam. Ca dao là một biểu hiện độc đáo của văn hóa dân
tộc, văn hóa địa phương. Nó vừa có nét chung, tính thống nhất của ca dao các vùng miền trên
đất nước, vừa có đặc điểm riêng của từng vùng miền cụ thể, nhất là những vùng miền văn hóa
lớn. Những đặc điểm chung và riêng đó phản ánh tính thống nhất và tính đa dạng của văn hóa
Việt Nam
139 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 3232 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm ca dao xứ Nghệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Kim Ngân
ĐẶC ĐIỂM CA DAO XỨ NGHỆ
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TSKH. BÙI MẠNH NHỊ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn PGS. TSKH. Bùi Mạnh Nhị đã tận
tình hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Xin cảm ơn các Thầy Cô, gia đình, đồng nghiệp và bằng hữu
đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu.
Nguyễn Thị Kim Ngân
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ca dao, dân ca là những viên ngọc quí trong kho tàng văn hóa dân tộc, in đậm hình ảnh
cuộc sống và con người Việt Nam. Trong bài viết về truyền thống văn hóa dân tộc, giáo sư viện
sĩ Nguyễn Khánh Toàn đã khẳng định: “Có thể nói dân tộc Việt Nam là một trong những dân
tộc có nền văn hóa dân gian rất giàu đẹp và giá trị của nó đã vượt qua thử thách của thời gian,
bởi vì bản chất của nó là nhân nghĩa thủy chung, vì nước, vì dân, vì con người, vì độc lập tự do
hạnh phúc và hòa bình, nền tảng của nó là nhân dân. Nó là một cống hiến xứng đáng vào nền
văn hóa chung của loài người”. [176]
Cái gốc của văn hóa dân tộc là văn hóa dân gian, đặc biệt là thơ ca dân gian. Có thể nói hơn
bất cứ dữ liệu văn hóa nào khác, qua thơ ca dân gian chúng ta có thể thấy được một phần bản
lĩnh, bản sắc, tính cách của dân tộc Việt Nam. Ca dao là một biểu hiện độc đáo của văn hóa dân
tộc, văn hóa địa phương. Nó vừa có nét chung, tính thống nhất của ca dao các vùng miền trên
đất nước, vừa có đặc điểm riêng của từng vùng miền cụ thể, nhất là những vùng miền văn hóa
lớn. Những đặc điểm chung và riêng đó phản ánh tính thống nhất và tính đa dạng của văn hóa
Việt Nam.
Nghệ Tĩnh là một vùng văn hóa rộng lớn, rất lâu đời của văn hóa Việt Nam. Từ bao đời
nay, các nghệ sĩ dân gian đã không ngừng sáng tạo nên một kho tàng ca dao, dân ca đồ sộ, độc
đáo in dấu hình ảnh đất nước, con người xứ Nghệ. Trong ngôn ngữ chúng ta thường gặp những
khái niệm như “Vùng văn hóa xứ Nghệ”, “Đất Nghệ”, “Người Nghệ”, “Ca dao xứ Nghệ”
Điều đó là hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. “Nghệ Tĩnh có một kho tàng văn hóa dân gian rất
phong phú và có lẽ vào bậc nhất so với tất cả các địa phương khác trong toàn quốc”[70] .
Tìm hiểu đề tài “Đặc điểm ca dao xứ Nghệ ” là tìm hiểu tính thống nhất, đặc biệt là những
nét riêng của ca dao xứ Nghệ so với ca dao của các vùng miền khác trên đất nước. Nghệ Tĩnh là
một vùng văn hóa lâu đời, có nhiều đặc điểm riêng biệt về địa lí, lịch sử, cư dân, ngôn ngữ và
văn hóa. Tìm hiểu về thơ ca dân gian xứ Nghệ cũng là tìm hiểu những đặc trưng về ngôn ngữ
và văn hóa của con người xứ Nghệ qua các câu ca dao, điệu hát, câu hò. Kho tàng thơ ca dân
gian xứ Nghệ rất phong phú đa dạng gồm nhiều thể loại khác nhau. Trong đó ca dao được xem
là thể loại ổn định, phản ánh rõ nét đặc điểm lịch sử, địa lí, văn hóa, ngôn ngữ và bản sắc con
người xứ Nghệ. Tính địa phương là một đặc trưng của thi pháp ca dao, của thi pháp Văn học
dân gian. Nghiên cứu đề tài này cũng là tìm hiểu đặc trưng đó, góp phần làm sáng tỏ thêm đặc
trưng thi pháp của ca dao.
Chúng tôi chọn đề tài “Đặc điểm ca dao xứ Nghệ” trước tiên là bởi niềm say mê ca dao
Nghệ Tĩnh - một mảnh đất nghệ thuật đầy hấp dẫn nhưng cũng đầy bí ẩn - và cũng bởi đề tài
này có tác dụng trực tiếp, thiết thực trong việc dạy văn ở Trường phổ thông. Hiện nay, văn học
địa phương, trong đó có ca dao địa phương, đang được chọn giảng trong chương trình văn học
địa phương ở các trường. Việc tìm hiểu về ca dao xứ Nghệ sẽ giúp cho việc giảng dạy văn học
dân gian nói chung và văn học địa phương ở Nghệ Tĩnh được tốt hơn.
Là người con xứ Nghệ, lại là một giáo viên dạy văn, mỗi hình ảnh, tấc đất, ngọn núi, con
sông và con người nơi đây là niềm tự hào kiêu hãnh của tôi. Việc khảo sát, tìm hiểu về đặc
điểm ca dao xứ Nghệ càng giúp tôi thêm hiểu để thêm yêu quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn
của mình.
Vì tất cả những lí do trên, tôi chọn đề tài “Đặc điểm ca dao xứ Nghệ” làm đề tài nghiên
cứu của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Các công trình, các bài nghiên cứu về văn hóa dân gian xứ Nghệ, có thể chia làm hai loại:
Những nghiên cứu chung về văn học dân gian xứ Nghệ.
Những nghiên cứu về ca dao người Việt xứ Nghệ.
2.1. Những công trình nghiên cứu chung về văn học dân gian xứ Nghệ
Những bài nghiên cứu này tuy không đặt vấn đề nghiên cứu riêng về ca dao xứ Nghệ,
nhưng những vấn đề đặt ra có liên quan đến việc tìm hiểu đặc điểm ca dao xứ Nghệ.
Trong những bài nghiên cứu chung trước hết ta phải nói tới bài: “Vị trí và đặc điểm của
vùng văn học dân gian Nghệ Tĩnh” của Phó giáo sư Hoàng Tiến Tựu (Thông báo khoa học số 1,
ĐHSP Vinh năm 1983). Trong bài viết này, tác giả đã đặt vấn đề: “Mỗi vùng, mỗi khu vực văn
học dân gian của dân tộc và đất nước đều có một vị trí quan trọng và một phong cách truyền
thống riêng của mình”. Trong bài nghiên cứu công phu này, PGS Hoàng Tiến Tựu đã rút ra 4
kết luận như sau:
1. Trước hết, đây là một vùng văn học dân gian phong phú và hoàn chỉnh có quy mô rộng lớn,
đồng thời có phong cách chung thống nhất trong toàn vùng và đặc sắc, độc đáo so với các
vùng, các khu vực văn học dân gian khác của dân tộc, đất nước.
2. Đây là một vùng văn học dân gian truyền thống có lịch sử lâu đời vào bậc nhất của dân tộc
và đất nước ta.
3. Vùng văn học dân gian Nghệ Tĩnh không những có từ lâu đời mà còn là một quá trình sinh
thành phát triển liên tục, phản ánh hầu hết các chặng đường lịch sử quan trọng, các hình thái
xã hội cơ bản của dân tộc và đất nước từ viễn cổ cho đến bây giờ.
4. Nó phản ánh rất trung thực, rất rõ nét hoàn cảnh thiên nhiên, xã hội và con người của xứ
Nghệ.
Những luận điểm này có tác dụng gợi mở việc nghiên cứu ca dao xứ Nghệ, vì ca dao là
một bộ phận của văn học dân gian.
Công trình thứ hai cần kể tới là bài “Đất nước, con người xứ Nghệ qua kho tàng ca dao xứ
Nghệ ” của Trương Xuân Tiếu. (Tạp chí văn hóa dân gian số 3 -1997). Trong bài này tác giả đã
phân tích và khái quát được những đặc điểm chung về đất nước con người xứ Nghệ: Đất nước
xứ Nghệ thật hùng vĩ, hữu tình, con người xứ Nghệ thật thông minh, quả cảm. Những tên núi,
tên sông, tên làng, tên xã và những tên dòng họ, những con người cụ thể ở xứ Nghệ đã bước
vào trong những điệu hò, câu hát, bài ca, góp phần tô thắm những nét son truyền thống của văn
học dân gian xứ Nghệ. Những kết luận này của tác giả rất có ích cho việc tìm hiểu tình yêu của
con người xứ Nghệ qua ca dao xứ Nghệ.
2.2. Những công trình nghiên cứu về ca dao xứ Nghệ
Công trình đồ sộ nhất là “Kho tàng ca dao xứ Nghệ” (2 tập) do Nguyễn Đổng Chi – Ninh
Viết Giao (chủ biên) – Võ Văn Trực biên soạn năm 1996 NXB Nghệ An. Trong công trình này
có bài nghiên cứu giới thiệu về ca dao xứ Nghệ của Ninh Viết Giao với tựa đề: “Về ca dao của
người Việt ở xứ Nghệ”. Là một nhà nghiên cứu Văn học dân gian lâu năm, có kinh nghiệm, đã
gắn bó với mảnh đất Nghệ Tĩnh hàng chục năm, hơn ai hết tác giả đã sưu tầm, lựa chọn, phân
loại hàng nghìn câu ca dao xứ Nghệ và có bài giới thiệu những đặc điểm, bản sắc riêng của ca
dao xứ Nghệ. Bản thân tác giả đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn học dân gian xứ Nghệ.
Trong bài viết trên tác giả đã giới thiệu sơ lược về đặc điểm đất đai, khí hậu, hoàn cảnh lịch sử
của xứ Nghệ cũng như sơ lược về nội dung của ca dao xứ Nghệ, qua đó làm nổi bật tính cách,
tình cảm, tâm hồn của con người xứ Nghệ. Trong các đặc điểm của vùng Nghệ Tĩnh, tác giả
đặc biệt nhấn mạnh: “Nghệ Tĩnh có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú và có lẽ
phong phú vào bậc nhất, so với tất cả các địa phương khác trong toàn quốc. Đã bao đời rồi,
cái gia tài vô giá ấy là nguồn nuôi dưỡng tinh thần, là cơ sở văn hóa, là trí tuệ và tài năng, là
sức mạnh vật chất, động lực phát triển của bà con xứ Nghệ. Ở đây có đủ các loại hình văn
học dân gian mà loại hình nào cũng phong phú”. Đây là một nhận định rất quan trọng, giúp
chúng ta đi sâu tìm hiểu ca dao xứ Nghệ.
Trước khi đi vào nghiên cứu ca dao xứ Nghệ, Ninh Viết Giao nêu ra luận điểm: ca dao của
các vùng (trong đó có Nghệ Tĩnh) là vốn chung của cả nước, ca dao các vùng dù có mang
những điểm riêng, sắc thái riêng vẫn thể hiện những đặc điểm chung, phổ biến của cả nước.
Đây là một nhận định quan trọng, giúp chúng ta đi vào tìm hiểu những nét riêng của ca dao xứ
Nghệ, tìm hiểu ngọn nguồn của từng bài ca dao.
Nội dung của ca dao xứ Nghệ được Ninh Viết Giao giới thiệu qua nhiều chủ đề, qua đó
làm nổi bật tính cách, đời sống tình cảm cuả con người xứ Nghệ. Nghiên cứu về hình thức nghệ
thuật của ca dao xứ Nghệ, tác giả đồng ý với ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, cho rằng ca dao
xứ Nghệ không được mượt mà, bay bướm.
Về ngôn ngữ của ca dao xứ Nghệ, Ninh Viết Giao viết: “Những bài ca dao ấy, ngôn ngữ
giản dị mà tươi rói như đất mới cày, áo nâu non mới mặc, chứa đầy nhựa sống ”[70]
Về tiếng địa phương trong ca dao, ông nhận xét: “ Mà hình như trong các loại hình văn
vần của kho tàng văn học dân gian xứ Nghệ, ca dao ít từ địa phương, ít phương ngữ hơn cả. Có
chăng là những từ phổ biến dễ hiểu[70]
Theo tác giả nét riêng biệt của ca dao xứ Nghệ là tính chất “ trí tuệ”, “chữ nghĩa” mang
nhiều “điển tích” và tính chất trạng. “Trạng ở đây thể hiện tính vui vẻ, thông minh, nhanh trí, dí
dỏm, nghịch ngợm của con người xứ Nghệ”[59].
Về hình thức đối trong thể lục bát và song thất lục bát xứ Nghệ, Ninh Viết Giao nhận
định: “ Có thể nói thêm về hình thức đối trong thể lục bát và song thất lục bát của ca dao xứ
Nghệ, về hình thức này khá nhiều và cũng khá đa dạng, độc đáo, không chỉ đối ngẫu mà còn
đối câu, đối bài.”[70]
Có thể nói xét về mặt hình thức nghệ thuật, tức là thi pháp ca dao xứ Nghệ, Ninh Viết
Giao đã khảo sát được một số mặt và đã đưa ra một số nhận xét xác đáng. Những nhận xét ấy
khái quát được những nét đặc trưng riêng biệt của ca dao xứ Nghệ. Tuy nhiên, do đặc điểm và
tính chất của một bài giới thiệu chung về ca dao xứ Nghệ, nên tác giả không đi sâu vào việc tìm
hiểu nghiên cứu về thi pháp của ca dao xứ Nghệ, mà chỉ nói qua về hiện tượng gieo vần, về
ngôn từ, nhất là các từ địa phương, về các dạng kết cấu, về thời gian và không gian nghệ
thuật
Có một số công trình khác không trực tiếp nghiên cứu về ca dao xứ Nghệ mà khảo sát đặc
điểm của ca dao các miền và lấy ca dao xứ Nghệ làm đối tượng so sánh. Tuy vậy ở đây cũng có
những thông tin, gợi ý cho việc tìm hiểu ca dao xứ Nghệ.
Trong những bài viết này, có 3 bài viết đáng chú ý:
- “Bước đầu so sánh những sắc thái miền Trung qua bốn vùng dân ca: Thanh Hóa, Nghệ An,
Bình Trị Thiên và Nam Trung Bộ” của Lê Văn Hảo (Hội thảo khoa học văn học dân gian miền
Trung lần thứ nhất)
- “ Sự khác nhau giữa ca dao người Việt ở xứ Nghệ và xứ Bắc” của Nguyễn Phương Châm
(Tạp chí văn hóa dân gian số 3 năm 1997)
-“Ca dao tình yêu và tình cảnh con người ở Bình Trị Thiên” của Trần Thùy Mai (Hội thảo
khoa học văn học dân gian miền Trung lần thứ nhất).
Trong bài viết “Bước đầu so sánh những sắc thái miền Trung qua bốn vùng dân ca: Thanh
Hóa, Nghệ An, Bình Trị Thiên và Nam Trung Bộ”, Lê Văn Hảo đã lấy bốn vùng dân ca: Thanh
Hóa, Nghệ An, Bình Trị Thiên và Nam Trung Bộ làm đối tượng khảo sát và so sánh. Dựa vào
những dữ liệu về lịch sử, địa lý, văn hóa đã được xác định, ông đưa ra 3 kết luận:
+ Có một văn hóa dân gian miền Trung trên bản đồ văn hóa dân gian Việt Nam.
+ Trên địa bàn văn hóa dân gian miền Trung có bốn vùng văn hóa lớn: Thanh Hóa, Nghệ An,
Bình Trị Thiên và Nam Trung Bộ.
+ Bốn vùng văn hóa ấy tương ứng với bốn vùng ca dao dân ca mà mỗi vùng tiêu biểu cho một
phong cách.
Về cách sử dụng hình ảnh trong ca dao, Lê Văn Hảo nhận xét: “Tình yêu nồng nàn thắm
thiết thường được thể hiện bằng những hình tượng gần gũi quen thuộc giản dị. Để cụ thể hóa
nỗi lòng con người Nghệ Tĩnh thích dùng những hình ảnh rộng lớn, hùng vĩ của quê hương để
ví von”[84]. Tác giả đã khái quát về phong cách người Nghệ Tĩnh: “Phong cách Nghệ Tĩnh có
cái gì gân guốc, cứng cỏi, quyết liệt”[84].
Trong bài nghiên cứu “Ca dao tình yêu và tình cảnh con người ở Bình Trị Thiên “ Trần
Thùy Mai đã trực tiếp so sánh ca dao tình yêu ở Bình Trị Thiên với ca dao tình yêu Nghệ Tĩnh.
Trần Thùy Mai cho rằng: “ Nếu so sánh phong cách ca dao Bình Trị Thiên với ca dao Nam
Trung Bộ và Nghệ Tĩnh ta sẽ thấy ca dao Bình Trị Thiên gần gũi với phong cách ca dao Nghệ
Tĩnh hơn Nhưng phong cách Nghệ Tĩnh vẫn khác phong cách Bình Trị Thiên ở chỗ thiên về
tính chân chất, chuộng diễn ý, mộc mạc. Ở đây nói “mộc mạc” không có nghĩa là thổ thiển.
Thực ra về phương diện văn từ ca dao Nghệ Tĩnh rất trau chuốt, điêu luyện..”[131]. So sánh
với ca dao Nam Trung Bộ ,Trần Thùy Mai cho rằng: “Ca dao Nghệ Tĩnh chuộng diễn ý nhưng
cũng như ca dao miền Nam Trung Bộ không có khuynh hướng chuộng hình ảnh âm điệu như ca
dao ở Bình Trị Thiên ..”[131]
So sánh ca dao Bình Trị Thiên và ca dao Nghệ Tĩnh, Trần Thùy Mai có nhận xét: “Phong
cách Bình Trị Thiên ở phía Bắc có nhiều chỗ khá gần gũi với phong cách Nghệ Tĩnh, rạch ròi,
khỏe mạnh, thiên về lí trí. Phía Nam không có cái đó, thì lại tinh tế, nhuần nhụy và gợi cảm
hơn”.[131]
Nếu như Lê Văn Hảo và Trần Thùy Mai so sánh ca dao Nghệ Tĩnh với ca dao các vùng ở
miền Trung thì Nguyễn Phương Châm so sánh sự khác nhau giữa ca dao người Việt ở xứ Nghệ
và xứ Bắc trong bài nghiên cứu: “Sự khác nhau giữa ca dao người Việt ở xứ Nghệ và xứ Bắc”.
Nguyễn Phương Châm đã so sánh sự khác nhau đó trên nhiều bình diện của thi pháp ca dao,
những điều mà hai nhà nghiên cứu trên chưa có điều kiện đi sâu. Trước hết tác giả đưa ra nhận
xét chung: “Nhìn tổng thể trong toàn bộ nội dung ca dao xứ Nghệ và Xứ Bắc thì ca dao xứ
Nghệ phong phú hơn khá nhiều chủ đề được phản ánh”[25]. Về ca dao tình yêu nam nữ của xứ
Bắc và xứ Nghệ, Nguyễn Phương Châm nhận xét: “Đây là một chủ đề được phản ánh viên mãn
nhất trong ca dao hai vùng. Tuy vậy, cách thể hiện các cung bậc tình yêu âm hưởng những lời
ca dao có khác nhau Cao dao xứ Bắc mượt mà, êm dịu hơn, ca dao tình yêu xứ Nghệ bộc
trực, thẳng thắn và quyết liệt hơn”[25]. “Ca dao tình yêu xứ Nghệ ngoài cái chất lãng mạn vốn
có của ca dao Việt Nam, nó còn rất thực tế, gần gũi với cuộc sống đời thường đôi khi táo bạo
mãnh liệt”[25].
Sau khi nhận xét chung về nội dung, Nguyễn Phương Châm đã đi sâu so sánh các khía
cạnh trên bình diện thi pháp. Về ngôn ngữ, tác giả viết: “Cả ca dao xứ Nghệ, xứ Bắc trong ngôn
ngữ đều có sự kết hợp giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời thường nhưng sự hoạt động của
ngôn ngữ đời thường mạnh mẽ hơn trong ca dao xứ Nghệ. Ở nơi này, ngôn ngữ đời thường đi
vào ca dao một cách tự nhiên làm cho một số lời ca dao có cái chất phác, hồn nhiên gần với
hiện thực đôi khi còn hơi thô” [25].
Về cách sử dụng địa danh, tác giả nhận xét: “Nhắc đến tên núi, tên sông như bao nơi khác
nhưng ca dao xứ Nghệ thường dùng một cặp núi - sông tạo thành biểu tượng cho quê hương
mình” “Cách dùng một cặp địa danh núi -sông như thế đã trở thành một môtip quen thuộc
thường gặp trong ca dao xứ Nghệ”[25].
Về thể thơ Nguyễn Phương Châm cho rằng: “Cùng mang đặc điểm chung của ca dao Việt
Nam, ca dao xứ Nghệ và xứ Bắc được sáng tác theo thể thơ lục bát là chính nhưng điều khác
nhau cơ bản giữa ca dao hai vùng là ca dao xứ Nghệ có nhiều biến thể và ít có lời ca dao được
sáng tác theo thể lục bát hơn ca dao xứ Bắc”.
Về không gian nghệ thuật, tác giả đã đưa ra những nhận xét khá cụ thể: “Không gian nghệ
thuật cũng có sự khác nhau giữa ca dao xứ Nghệ và ca dao xứ Bắc, Cũng là không gian làng
quê nhưng ca dao xứ Bắc nói một cách xa xôi bóng gió nhiều hơn là cụ thể... Không gian trong
ca dao xứ Nghệ thường cụ thể, gần gũi thân thiết với con người lao động hơn”. “Ngoài những
không gian làng quê như thế, ca dao xứ Nghệ còn mở rộng ra những không gian rộng lớn mênh
mông của biển, cao ngất của núi thể hiện ý chí của con người nơi này Đó là những không
gian mở, động và rộng rãi hơn ở ca dao xứ Bắc.”
Về phương ngữ, Nguyễn Phương Châm cũng có những quan sát riêng: “Mỗi địa phương
đều có nét riêng về ngôn ngữ và ngôn ngữ ấy in dấu đậm nét vào ca dao. Xứ Bắc thực sự đã mờ
nhạt phương ngữ nhưng xứ Nghệ, tiếng Nghệ từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà
ngôn ngữ học”. “Nhắc đến ca dao xứ Nghệ, đọc ca dao xứ Nghệ điều khác biệt đầu tiên có lẽ
là phương ngữ và cũng chính phương ngữ xứ Nghệ đã làm cho ca dao xứ Nghệ hay hơn, hấp
dẫn hơn, có tình hơn, độc đáo hơn và nó còn là một tư liệu giúp cho việc tìm hiểu lại lịch văn
hoá của xứ Nghệ và cả dân tộc Việt”[35].
Tác giả không những đi sâu tìm hiểu những nét khác nhau cơ bản giữa ca dao xứ Bắc và
xứ Nghệ trên bình diện thi pháp mà còn giải thích nguyên nhân của sự khác nhau đó: “Nhân tố
nào là quan trọng làm nên sự khác nhau này?”. “Theo chúng tôi nhân tố đầu tiên có tính chất
quyết định chính là điều kiện tự nhiên. Có thể nói xứ Nghệ là khu vực có khí hậu đặc biệt ở
nước ta. Ca dao xứ Nghệ không được nhẹ nhàng, uyển chuyển, bóng bẩy như ca dao xứ Bắc
cũng là điều dễ hiểu”[25].
Những đặc trưng khái quát của ca dao xứ Nghệ trong sự so sánh với ca dao xứ Bắc và ca
dao các tỉnh Trung Bộ còn được nhắc đến trong một số công trình nghiên cứu khác như luận án
tiến sĩ của Trần Thị Kim Liên với đề tài “Tính thống nhất và sắc thái riêng trong ca dao người
Việt ở ba miền Bắc, Trung, Nam”, luận án thạc sĩ của Trần Văn Nam với đề tài“Biểu trưng
trong ca dao Nam Bộ”, luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Điệp với đề tài “Biểu trưng nghệ
thuật trong ca dao truyền thống người Việt”.
Tuy có nhiều công trình nghiên cứu về ca dao xứ Nghệ, nhưng việc nghiên cứu, khảo sát
đặc điểm nội dung và thi pháp của ca dao xứ Nghệ vẫn là một đề tài cần tiếp tục được quan
tâm.
3. Giới hạn đề tài
Kho tàng ca dao xứ Nghệ rất phong phú, bao gồm ca dao của nhiều tộc người như ca dao
của người Thái, ca dao của người Kinh ca dao của người H’MôngỞ đề tài này chúng tôi chỉ
khảo sát, nghiên cứu ca dao người Kinh ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Nghiên cứu, khảo sát
của luận án chủ yếu dựa vào phần sưu tầm của những nhà nghiên cứu nổi tiếng như Nguyễn
Đổng Chi, Ninh Viết Giao. Tư liệu chính được sử dụng là “Kho tàng ca dao xứ Nghệ” do Ninh
Viết Giao chủ biên, NXB Nghệ An, năm 1996 (tập 1 và tập 2) và “Hát Phường Vải” do Ninh
Viết Giao sưu tầm và biên soạn, NXB Văn hoá Thông tin - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông
Tây, năm 2001. Đúng ra phải gọi đề tài này là ca dao hay dân ca sưu tầm ở xứ Nghệ, vì ngoài
những bài nói lên đặc điểm địa phương mang địa danh và nhân danh cụ thể, mang tính cách của
con người xứ Nghệ, mang phương ngữ Nghệ Tĩnh, nhiều bài trong quá trình giao lưu giữa các
miền, do người xứ Nghệ hay người địa phương khác sáng tác ra, giờ đây chưa xác định được.
Luận án chỉ khảo sát những bài được sưu tầm trên đất Nghệ Tĩnh và bấy lâu nay được người
Nghệ Tĩnh giữ gìn, thưởng thức, lưu truyền.
Ngoài ra, để làm rõ hơn đặc điểm ca dao xứ Nghệ chúng tôi còn chọn một số tư liệu về ca
dao miền Bắc, ca dao xứ Quảng, ca dao Bình Trị Thiên, ca dao xứ Huế, ca dao Miền Nam
Trung Bộ để so sánh, đối chiếu với ca dao Nghệ Tĩnh.
Luận án giới hạn trong việc khảo sát ca dao truyền thống, tức ca dao xuất hiện từ năm
1945 trở về trước, không nghiên cứu mảng ca dao hiện đại.
Trong công trình này chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu toàn diện ca dao xứ Nghệ vì
điều đó đòi hỏi nhiều thời gian và công sức, mà chỉ muốn nêu lên những đặc điểm mà chúng tôi
cho là khá nổi bật của ca dao xứ Nghệ so với ca dao của một số vùng trong cả nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau đây :
4.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: đối tượng nghiên cứu của luận văn là ca dao xứ
Nghệ. Bản thân ca dao là hiện tượng văn hoá dân gian, gắn với điều kiện địa lý, lịch sử, xã hội,