Bệnh sốt rét là một bệnh xã hội phổ biến trên thế giới, ảnh hưởng rất
lớn ñến sức khỏe con người, ñặc biệt ở các nước vùng nhiệt ñới. Mặc dù các
hoạt ñộng phòng bệnh sốt rét ñã có từ những năm 1955 nhưng cho ñến nay
bệnh vẫn lưu hành ở nhiều nơi trên thế giới [24],[34].
Nhờ các nỗ lực phòng chống bệnh, cho ñến nay tình hình sốt rét nhiều
vùng trên thế giới giảm ñáng kể, nhưng nguy cơ mắc sốt rét ở một số khu vực
(như Châu Phi), nhất là tại các vùng có dân di cư tự do là rất ñáng quan tâm [13],
[8].
Theo một số báo cáo, sốt rét ñang gia tăng ở nhiều nước và ở một số
vùng mặc dù bệnh sốt rét ñã hết lưu hành. Một trong những yếu tố góp phần
vào sự gia tăng trở lại này là do sự di dân ñến ñịnh cư ở những vùng ñất khác
vì nhiều lý do như: kinh tế, xung ñột, thiên tai. Ở các nước ñang phát triển
di dân liên quan ñến nông nghiệp, ñào vàng.và nguy cơ mắc , tử vong sốt rét
là rất cao. Cũng theo các phân tích này cho thấy, sốt rét là một trong những
nguyên nhân tử vong cao ở ñối tượng di dân ở một sốvùng của Thailand,
Sudan, Somalia, Burundi, Rwanda, và Congo. Vụ dịch mới ñây nhất xảy ra ở
cộng ñồng dân Burundi di cư ñến ở Tây Bắc Tanzania,chết do sốt rét và thiếu
máu ở trẻ em dưới 5 tuổi tăng gấp 10 lần so với trước khi có dịch; phản ảnh
sự thiếu miễn dịch của nhóm tuổi này [25], [28], [29]
Tại Việt Nam tình hình dân di cư tự do (DCTD) rất phức tạp kéo theo
nguy cơ gia tăng mắc và tử vong do sốt rét.
Năm 2002, ước tính có 2 triệu dân DCTD ñến các khu vực rải rác khắp
cả nước. Phần lớn dân DCTD này ñều có nguy cơ cao nhiễm bệnh sốt rét
(SR), ñiều kiện kinh tế khó khăn, phương tiện không ñầy ñủ ñể bảo vệ cá
nhân.
75 trang |
Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2536 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm dịch tễ học sốt rét và một số biện pháp can thiệp cộng đồng cho nhóm dân di cư tự do tại huyện Krông Bông, tỉnh Dak Lak năm 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
----------------------------
TRẦN ĐỨC TƯƠI
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC SỐT RÉT VÀ MỘT SỐ
BIỆN PHÁP CAN THIỆP CỘNG ĐỒNG CHO NHÓM DÂN
DI CƯ TỰ DO TẠI HUYỆN KRÔNG BÔNG,
TỈNH DAK LAK NĂM 2008.
LUẬN VĂN THẠC SĨ: KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG
Buôn Ma Thuột, năm 2009
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
----------------------------
TRẦN ĐỨC TƯƠI
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC SỐT RÉT VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP
CAN THIỆP CỘNG ĐỒNG CHO NHÓM DÂN DI CƯ TỰ DO TẠI
HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH DAK LAK NĂM 2008.
CHUYÊN NGÀNH KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG
MÃ SỐ : 607265
LUẬN VĂN THẠC SĨ: KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS HỒ VĂN HOÀNG
Buôn Ma Thuột, năm 2009
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi ,Các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được các đồng
tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công
trình nào khác.
Trần Đức Tươi
4
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này, tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
- Ban giám hiệu trường Đại Học Tây Nguyên
- Ban giám đốc Viện SR-Côn Trùng-Ký Sinh Trùng Quy Nhơn
- Phòng sau Đại học trường Đại Học Tây Nguyên
- Khoa Y Dược , trường Đại Học Tây Nguyên
- Bộ môn Ký sinh trùng- Côn trùng,
- Trung Tâm Y Tế Dự phòng huyện Krông Bông,
- Đặc biệt tôi bày tỏ long biết ơn sâu sắc đến TS – Thầy thuốc Ưu tú Hồ
Văn Hoàng đã tận tình trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tôi
hoàn thành đề tài này.
- Xin cảm ơn gia đình và bạn bè, đồng nghiệp đã chia sẻ, động viên tôi
trong suốt thời gian học tập.
5
6
Mục lục
Trang
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cám ơn iii
Mục lục iv
Danh mục các chữ viết tắt v
Danh mục các bảng biểu vi
Tài liệu tham khảo
Đặt vấn đề 1
1. Tổng quan tài liệu 3
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 17
2.1 Địa điểm và đối tượng nghiên cứu 17
2.2 Phương pháp nghiên cứu 17
2.3 Phương pháp thống kê y sinh học 22
2.4 Thời gian tiến hành nghiên cứu: 1 năm (2008) 23
3. Kết quả nghiên cứu 25
3.1 Đặc điểm dịch tễ học sốt rét của cộng đồng dân di cư tự do tại
huyện Krông Bông
25
3.2 Đánh giá hiệu quả của biện pháp giám sát chủ động tại cụm dân di cư
36
4. Bàn luận 46
5. Kết luận 56
7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BNSR : Bệnh nhân sốt rét
CSYT : Cơ sở y tế
CSSKBĐ : Chăm sóc sức khỏe ban đầu
GDTT : Giáo dục truyền thông
KAP : Knowlegde - Attitude - Practice
KST : Ký sinh trùng
KSTSR : Ký sinh trùng sốt rét
MT-TN : Miền Trung-Tây Nguyên
NVYT : Nhân viên y tế
P.f : Plasmodium falciparum
P.v : Plasmodium vivax
PCSR : Phòng chống sốt rét
PH : Phối hợp (P.f +P.v)
SL : Số lượng
SR : Sốt rét
SRLH : Sốt rét lưu hành
SRLS : Sốt rét lâm sàng
SRAT : Sốt rét ác tính
TDSR : Tiêu diệt sốt rét
TVSR : Tử vong sốt rét
WHO : Tổ chức y tế thế giới
XN : Xét nghiệm
YTTB : Y tế thôn bản
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Đặc điểm về giới và dân tộc tại các điểm nghiên cứu 25
Bảng 3.2. Số tháng định cư trung bình của dân di cư tự do tại các
điểm nghiên cứu 26
Bảng 3.3. Nơi ở của dân di cư tự do trước khi đến định cư tại đây 26
Bảng 3.4. Tỷ lệ mắc bệnh, KSTSR và giao bào tại 2 cộng đồng
dân di cư tự do 28
Bảng 3.5. Phân bố nhiễm ký sinh trùng sốt rét theo giới tại
2 điểm nghiên cứu 29
Bảng 3.6. Phân bố nhiễm ký sinh trùng theo lứa tuổi tại
2 điểm nghiên cứ 30
Bảng 3.7. Trung bình mật độ KSTSR/µl máu tại các điểm
nghiên cứu 30
Bảng 3.8. Cơ cấu các loài ký sinh trùng sốt rét tại các điểm
nghiên cứu 31
Bảng 3.9: Đặc điểm về kinh tế xã hội tại các hộ gia đình điều tra. 32
Bảng 3.10: Tỷ lệ màn và thói quen ngủ màn của dân di cư tự do 33
Bảng 3.11: Kiến thức thái độ và hành vi của dân DCTD 33-34
Bảng 3.12. Phân tích các yếu tố nguy cơ mắc sốt rét 35
Bảng 3.13. Các hoạt động giáo dục truyền thông về sốt rét ở
điểm can thiệp 35
Bảng 3.14. Chỉ số lam xét nghiệm và KSTSR (5/2008-5/2009). 36
Bảng 3.15 : Hoạt động phát hiện bệnh chủ động tại thôn bản
của y tế cụm dân cư 36
Bảng 3.16: Tỷ lệ BNSR và KSTSR qua các đợt điều tra cắt ngang 37
Bảng 3.17 : Cơ cấu KSTSR qua các đợt điều tra cắt ngang 38
Bảng 3.18. So sánh tỷ lệ giao bào ở các điểm theo dõi 39
Bảng 3.19. So sánh phát hiện bệnh chủ động và thụ động tại 2
điểm nghiên cứu 39
Bảng 3.20: So sánh tỷ lệ người/màn và thói quen ngủ màn 40
Bảng 3.21: Kiến thức người dân về bệnh SR tại hai điểm
qua điều tra hộ gia đình 41-42
Bảng 3.22: Số người khám chữa bệnh ở điểm có nhân viên
y tế cụm và cơ sở y tế 43
Bảng 3.23: Kiến thức người dân về bệnh SR tại hai điểm qua điều tra
hộ gia đình 44
Bảng 3.24: Số người khám chữa bệnh ở điểm có nhân viên y tế cụm và cơ sở
y tế 45
vii
9
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh sốt rét là một bệnh xã hội phổ biến trên thế giới, ảnh hưởng rất
lớn đến sức khỏe con người, đặc biệt ở các nước vùng nhiệt đới. Mặc dù các
hoạt động phòng bệnh sốt rét đã có từ những năm 1955 nhưng cho đến nay
bệnh vẫn lưu hành ở nhiều nơi trên thế giới [24],[34].
Nhờ các nỗ lực phòng chống bệnh, cho đến nay tình hình sốt rét nhiều
vùng trên thế giới giảm đáng kể, nhưng nguy cơ mắc sốt rét ở một số khu vực
(như Châu Phi), nhất là tại các vùng có dân di cư tự do là rất đáng quan tâm [13],
[8].
Theo một số báo cáo, sốt rét đang gia tăng ở nhiều nước và ở một số
vùng mặc dù bệnh sốt rét đã hết lưu hành. Một trong những yếu tố góp phần
vào sự gia tăng trở lại này là do sự di dân đến định cư ở những vùng đất khác
vì nhiều lý do như: kinh tế, xung đột, thiên tai.... Ở các nước đang phát triển
di dân liên quan đến nông nghiệp, đào vàng...và nguy cơ mắc , tử vong sốt rét
là rất cao. Cũng theo các phân tích này cho thấy, sốt rét là một trong những
nguyên nhân tử vong cao ở đối tượng di dân ở một số vùng của Thailand,
Sudan, Somalia, Burundi, Rwanda, và Congo. Vụ dịch mới đây nhất xảy ra ở
cộng đồng dân Burundi di cư đến ở Tây Bắc Tanzania, chết do sốt rét và thiếu
máu ở trẻ em dưới 5 tuổi tăng gấp 10 lần so với trước khi có dịch; phản ảnh
sự thiếu miễn dịch của nhóm tuổi này [25], [28], [29]
Tại Việt Nam tình hình dân di cư tự do (DCTD) rất phức tạp kéo theo
nguy cơ gia tăng mắc và tử vong do sốt rét.
Năm 2002, ước tính có 2 triệu dân DCTD đến các khu vực rải rác khắp
cả nước. Phần lớn dân DCTD này đều có nguy cơ cao nhiễm bệnh sốt rét
(SR), điều kiện kinh tế khó khăn, phương tiện không đầy đủ để bảo vệ cá
nhân.
Mặc dù chính quyền đã mở rộng, phát triển các dịch vụ y tế địa phương
nhưng khi mắc bệnh những đối tượng này không được cung cấp các dịch vụ
chăm sóc/ bảo vệ vì họ được xem là dân di cư bất hợp pháp. Tình trạng này
10
một phần là do họ di chuyển đến vùng mới mà không có sự xác nhận của
chính quyền. Kết quả là, họ không được hưởng sự chăm sóc y tế như dân sở
tại và chịu thiệt thòi về chăm sóc y tế cũng như phòng chống sốt rét (PCSR).
Dù sự di cư ngày một gia tăng nhanh do tình hình phát triển kinh tế và
sự đô thị hoá, nhưng chúng ta còn hiểu rất ít về họ và những quan điểm của
họ liên quan đến y tế đặc biệt là đối với bệnh sốt rét. Hiện nay Dak Lak là tỉnh
có số DCTD lớn nhất, ước tính hiện có khoảng 100.000 hộ, 463.000 người
dân DCTD đang sống trong rừng sâu, tránh sự kiểm soát của chính quyền địa
phương, lẩn tránh trong rừng sâu nơi có sốt rét lưu hành nặng, không thể tiếp
cận với hệ thống y tế [5],[6],[7].
Để đánh giá nguy cơ mắc sốt rét và hiệu quả một số biện pháp phòng
chống sốt rét cho cộng đồng dân di biến động này, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài : “Đặc điểm dịch tễ học sốt rét và hiệu quả biện pháp quản lý bệnh
chủ động cho nhóm dân di cư tự do tại huyện Krông Bông, tỉnh Dak Lak năm
2008”
Nhằm các mục tiêu sau:
1. Xác định một số đặc điểm dịch tễ học sốt rét của cộng đồng dân di cư
tự do tại huyện Krông Bông.
2. Đánh giá hiệu quả biện pháp quản lý bệnh chủ động của y tế cụm dân
cư áp dụng cho nhóm dân di cư tự do tại huyện Krông Bông
11
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu và phòng chống bệnh SR:
Sự kiện quan trọng trong quá trình nghiên cứu nguyên nhân bệnh SR
đầu tiên vào 1880, khi Laveran, một bác sĩ giải phẫu người Pháp khám phá
và mô tả KSTSR ở máu người. Tuy nhiên trước đó đã có một số nghiên cứu
liên quan bệnh SR [21], [22]
- 1847 Dampster ở Ấn Độ đã mô tả dấu hiệu lách sưng ở trẻ em như là
một chỉ số để đánh giá mức độ lưu hành của bệnh.
- 1848 Wirchow và Freichs ở Đức đã ghi nhận sự hiện diện của các
sắc tố trong các cơ quan nội tạng có thể liên quan đến tử vong do SR.
- Laveran phát hiện và mô tả KSTSR ở máu người, ông đặt tên là
Oscillaria malaria vào 1881, và là người đầu tiên mô tả giao bào hình lưỡi
liềm.
- Mặc dù 1882, Richards đã xác nhận sự quan sát của Laveran, nhưng
đóng góp của ông cũng không được công nhận cho đến 1885 bởi vì người ta
tin rằng bệnh nguyên của SR do vi khuẩn Bacillus malaria (Klebs và Crudeli,
1874)
KSTSR được mô tả chi tiết và đầy đủ bởi các nhà khoa học từ 1885 – 1890.
- 1886 Golgi ở Ý mô tả 2 loại KST ở người: P.falciparum và P.vivax.
- 1889 - 1890 Celli và Marchiafava mô tả P.falciparum.
- 1890 Romanowsky tìm ra phương pháp nhuộm KST SR, đã chứng
minh sự hiện diện của KST SR trên lam máu lấy từ người bệnh là phát minh
rất quan trọng giúp nghiên cứu bệnh SR.
- 1895 Ross quan sát hiện tượng thoát roi ở thành dạ dày muỗi
- 1898 Grassi, Biguami và Bastianelli ở Ý mô tả chu kỳ KSTSR người
ở muỗi Anophenles.
- 1922 Stephens xác định và mô tả P.ovale.
- 1937 Jame mô tả sự phát triển vô tính của P.gallinaceum.
12
- 1947 Garnham mô tả thể ngoài hồng cầu của P.kochi ở nhu mô gan
của khỉ Đông Phi.
- 1948 Shortt, Garnham và Malanos ở Anh mô tả thể tiền hồng cầu
(Pre-erythrocyte) của P.cynomolgy.
- 1976 Trager và Jensen ở Mỹ đã phát triển thành công nuôi cấy liên
tục của invitro của P.falciparum
Về lĩnh vực nghiên cứu phòng chống SR:
- 1899 Ross giới thiệu các biện pháp diệt bọ gậy.
- 1901-1903 chương trình PCSR bằng diệt bọ gậy ở Malaya được đề
nghị bởi Malcolm. Chiến dịch PCSR bằng chống muỗi được thực hiện bởi
Ross ở Ismailia, Ai Cập.
- 1904 - 1914 Chiến dịch PCSR được thực hiện ở vùng kinh đào
Panama.
- 1935 – 1939 PCSR trên diện lớn bằng phương pháp phun pyrethrum
ở Nam Phi, Hà Lan và Ấn Độ.
- 1936- 1939 : Phát hiện tác động của DDT (Được tổng hợp bởi
Zeidler năm 1874) có tác dụng diệt côn trùng.
- 1955 : Đại hội đồng y tế thế giới lần thứ VIII chấp nhận nguyên lý
tiêu diệt sốt rét (TDSR)
- 1957 : WHO đưa ra khái niệm và thực hành TDSR
- 1979 : Các chuyên gia WHO chuyển chiến lược TDSR sang PCSR.
- 1985 Đại hội đồng y tế thế giới lần thứ 38 đề xướng chiến lược
PCSR lồng ghép trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu.
- 1992 Hội nghị bộ trưởng các nước về SR tại Amsterdam (Hà Lan)
[4].
1.2 Tình hình SR thế giới và chiến lược PCSR:
1.2.1 Tình hình SR thế giới và chiến lược PCSR những năm gần đây:
Tình hình SR trong những năm gần đây đang trở nên nghiêm trọng.
Theo thông báo của WHO (Hội nghị bộ trưởng 1992) mỗi năm toàn cầu có
13
khoảng 300 - 500 triệu người mắc bệnh, trên 1 triệu người chết. SR đe dọa
khoảng 2.200 triệu người chiếm 40% dân số thế giới đặc biệt nguy hiểm ở trẻ
em và vùng dân cư nghèo đói [4].
Những nước có chương trình tiêu diệt SR với nỗ lực trong vòng 25 – 30
năm qua chủ yếu ở Châu Á và Châu Mỹ. Tổng số ca mắc bệnh trong những
khu vực này là khoảng 5 triệu mỗi năm. Tuy nhiên, theo ước tính số ca mắc
bệnh trên thực tế có thể cao hơn 4 lần. Khoảng 80% số ca này là ở Châu Á
(ngoại trừ Trung Quốc), tình hình SR đang xấu đặc biệt ở bán đảo Đông
Dương là khu vực chịu ảnh hưởng trầm trọng của hiện tượng kháng thuốc.
Các chuyên gia y tế của WHO cũng đánh giá rằng, tại Ấn Độ CTPCSR không
có tiến bộ trong những năm gần qua. Dù cho phần lớn dân cư Châu Á – Mỹ
đang sống trong những vùng nguy cơ SR tương đối thấp, nhưng tình hình SR
ở khu vực biên giới với sự phát triển của kinh tế – xã hội là những vấn đề cho
PCSR. Ở những vùng này, biến động môi trường, di biến động dân số, không
có cơ sở y tế làm cho tình hình SR xấu đi [25], [26]
Trong những năm của thập kỷ 30 của thế kỷ XX, ngoài các nghiên cứu
phát hiện những giai đoạn phát triển của KSTSR trong cơ thể người còn có
những phát minh quan trọng về thuốc SR. Nhiều thuốc đã được tổng hợp:
pamaquine, primaquine, proguanil, nhưng quan trọng hơn cả là
chloroquine, một loại thuốc thuộc nhóm 4 - amino quinoleine ít độc, có thể sử
dụng thay thế quinine một cách rộng rãi trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, DDT
được tìm thấy có giá trị diệt muỗi với tính chất tồn lưu kéo dài trên tường
vách và có thể sử dụng rộng rãi để diệt muỗi SR. Các loại thuốc SR cùng với
DDT khi được áp dụng rộng rãi đã làm giảm nhanh chóng bệnh SR ở nhiều
nước. Vì vậy tại Đại hội đồng WHO lần thứ VIII (1955) đã chấp nhận chiến
lược TDSR trên quy mô rộng lớn với mục tiêu là thanh toán SR toàn cầu đến
mức có thể kiểm soát từng trường hợp bệnh. [11], [21]
Nội dung cơ bản của chiến lược tiêu diệt SR toàn cầu này là:
14
- Đối với vector truyền bệnh: Sử dụng hóa chất diệt muỗi truyền bệnh
SR là DDT phun liên tục rộng khắp cho đến khi cắt đứt sự lan truyền, giảm
mật độ muỗi xuống đến mức không còn đủ khả năng để duy trì sự lan truyền
bệnh.
- Đối với mầm bệnh KSTSR: Sử dụng chloroquine điều trị toàn dân
nhằm hạ thấp chỉ số nhiễm KSTSR trong cộng đồng xuống 1/10000 so với
lam được xét nghiệm
- Xây dựng mạng lưới y tế cơ sở rộng khắp có khả năng giám sát, quản
lý chặt chẽ số người bệnh còn lại, điều trị triệt căn, chống tái phát, chống lây
lan và bảo vệ người lành.
Chương trình TDSR toàn cầu được WHO đề ra và từng quốc gia đã cụ
thể hoá với những kế hoạch, hành động riêng cho mình. Về mặt thời gian,
chương trình này được hoạch định trong vòng 8 - 10 năm. [21]
Chương trình TDSR nhấn mạnh phát triển theo chiều dọc và chia ra
làm 4 giai đoạn:
1. Chuẩn bị: thời gian chuẩn bị trong vòng 1-2 năm
2. Tấn công: các biện pháp tấn công tiêu diệt SR từ 3-5 năm
3. Củng cố: củng cố các thành quả 2-3 năm
4. Bảo vệ: bảo vệ các thành quả đã đạt được
Từ 1955, hầu hết các quốc gia có SR đã thực hiện chương trình tiêu diệt
SR (trừ Châu Phi). Trong 10 năm đầu (1956 - 1965) chương trình tiến hành
thuận lợi, nhiều quốc gia đạt kết quả đáng khích lệ, các nước vùng ôn đới đã
thực hiện thành công chương trình TDSR như: Châu Âu, Liên Xô (cũ), Bắc
Mỹ. Nhưng sau đó, chương trình TDSR toàn cầu bị hạn chế không đạt được
kết quả mong muốn. Các biện pháp diệt vector và điều trị mầm bệnh bị thất
bại ở một số nước (nhất là Châu Phi). Một số nước bệnh SR quay trở lại sau
khi công bố hoàn thành chương trình tiêu diệt SR như Ấn Độ, Srilanca. Số ca
mắc bệnh SR 1977 tăng gấp đôi 1974. Nguyên nhân của tình hình này là do
giảm các hoạt động chống SR ở nhiều nước do giảm nguồn kinh phí, gia tăng
15
chi phí mua hoá chất, KSTSR kháng thuốc điều trị, muỗi kháng hoá chất và
làm thay đổi sinh lý sinh tháiTình trạng kháng thuốc nghiêm trọng là
nguyên nhân của sự gia tăng SR trở lại tại vùng Đông Nam Á và Nam Mỹ
[21].
Do tình hình SR gia tăng và quay trở lại WHO đã phải xác định lại
chiến lược chống SR. Sau tuyên ngôn Alma-Ata (1978) chiến lược PCSR
toàn cầu dựa trên nội dung chăm sóc sức khoẻ ban đầu được đề ra với các nội
dung khác so với Chương trình TDSR [25]
1.2.2 Chiến lược PCSR toàn cầu hiện nay:
Do diễn biến phức tạp cũng như những khó khăn ngày càng nhiều, tình
hình SR thay đổi khắp nơi trên thế giới, WHO đã triệu tập Hội nghị Bộ trưởng y
tế các nước thành viên vào tháng 10/1992 tại Amsterdam (Hà Lan). Mục đích
của Hội nghị là thông báo tình hình SR thế giới, chấp nhận một chiến lược toàn
cầu mới với sự cam kết chống SR giữa các nước thành viên và tổ chức quốc tế.
[4]
Mục tiêu của CTPCSR là giảm chết, giảm mắc, giảm thiệt hại về kinh tế-xã hội
thông qua việc cải thiện và củng cố các khả năng của địa phương và quốc gia [25].
Bốn yếu tố kỹ thuật của chiến lược này là:
1. Cung cấp chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời.
2. Lập kế hoạch, thực hiện các biện pháp phòng bệnh chọn lọc và có thể
duy trì được.
3. Phát hiện sớm, khống chế hoặc ngăn chặn dịch Sốt rét
4. Củng cố khả năng của địa phương dựa trên các nghiên cứu cơ bản và
ứng dụng cho phép đánh giá đều đặn tình hình SR của đất nước, đặc biệt là
yếu tố sinh thái, xã hội và kinh tế có tính quyết định với bệnh SR.
Để thực hiện chiến lược này một cách có hiệu quả, chiến lược PCSR
toàn cầu đòi hỏi phải có:
- Sự ủng hộ chính trị của tất cả các ngành, các cấp chính quyền.
16
- PCSR là một bộ phận của hệ thống y tế và phải kết hợp với các
chương trình phát triển ngoài lĩnh vực y tế.
- Cộng đồng phải tham gia đầy đủ vào các hoạt động PCSR
- Phải huy động đầy đủ nguồn nhân lực và tài chính đầy đủ.
- Trên cơ sở đó từng quốc gia, từng khu vực xây dựng một chương trình
phù hợp với tình hình thực tế của đất nước và khu vực. Nhằm thực hiện chiến
lược PCSR toàn cầu có kết quả, WHO đề ra các hoạt động cơ bản sau:
- Quản lý bệnh SR: chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời là nền tảng của
PCSR, cần thiết phải cung cấp các phương tiện chẩn đoán, đào tạo xét nghiệm
viên, đồng thời cung cấp các loại thuốc chống kháng cho những vùng có
kháng thuốc
- Dự phòng bệnh SR : Bảo vệ chống sự nhiễm bệnh SR bao gồm các
biện pháp dự phòng cá nhân (quần áo, màn tẩm), hoá liệu pháp không được
khuyến cáo sử dụng rộng rãi ngoại trừ áp dụng cho phụ nữ có thai có nguy cơ
mắc SR
- Phòng chống vector: Cần xác định tình hình, nguồn tài chính để lựa
chọn biện pháp bao gồm sử dụng hoá chất phun tồn lưu, diệt bọ gậy
- Phòng chống dịch một cách chủ động, hạn chế thiệt hại do dịch SR gây
ra.
1.3. Những khó khăn và nổ lực khắc phục trong PCSR hiện nay:
Mặc dù chương trình TDSR trong những năm đầu có những thành công
đáng kể, nhưng công cuộc chống bệnh SR đã gặp những thách thức và những
khó khăn mới cản trở chương trình này. Các khó khăn trong PCSR hiện nay
là:
- Khó khăn về chuyên môn kỹ thuật: P.falciparum kháng chloroquine
và đa kháng với hoá liệu pháp chống SR. Muỗi Anopheles kháng hoá chất
diệt, thay đổi sinh lý sinh thái, trú ẩn ngoài nhà nhưng đốt máu trong nhà. Kể
từ 1960 khi P.falciparum kháng chloroquine được công bố tại Nam Mỹ
17
(Brasil), Đông Dương (Thái Lan, Việt Nam) thì hiện tượng kháng lan rộng
ngày càng nhanh.
- Về kháng hoá chất của muỗi Anopheles kháng DDT nhưng 1991 có
55 loài kháng hoá chất. Trong số 55 loài kháng có 53 loài kháng với DDT, 27
loài kháng với phospho hữu cơ, 17 loài kháng carbamate và 10 loài kháng
pyrethroides, 16 loài cho thấy kháng với 3 hoặc 4 loại hoá chất. Hiện tượng
kháng của Anopheles xuất hiện ở cả Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ.
- Khó khăn về kinh tế, xã hội, tài chính: Sản xuất và thu nhập thấp,
thiếu kinh phí cho PCSR, di biến động nhân dân cao nhất là ở vùng biên giới,
di dân đi xây dựng kinh tế mới trong các vùng SR lưu hành nặng.
- Tổ chức y tế, đặc biệt y tế cơ sở còn yếu, cán bộ PCSR địa phương
không đủ về số lượng và chưa đạt về chất lượng. Đối với bệnh SR cán bộ y tế
cơ sở dựa chủ yếu vào triệu chứng lâm sàng để chẩn đoán, không có xét
nghiệm để phát hiện KSTSR trong máu của bệnh nhân, đặc biệt khó chẩn
đoán khi gặp những trường hợp triệu chứng lâm sàng không điển hình.
- Tình hình kinh tế, xã hội bất ổn, thay đổi môi trường sinh thái với
những phương án phát triển kinh tế phổ biến khắp mọi nơi nhất là ở các nước
đang phát triển. Thuỷ lợi, nông nghiệp trồng rừng làm thay đổi môi trường, vi
khí hậu biến những vùng trước đây không có SR hoặc ít nay lại quay trở lại.
Sự di biến động dân cư, chiến tranh, di dân đi khai hoang, kinh tế mới, lấn
chiếm rừng, du canh du cư của đồng bào các dân tộc, khách du lịch, tìm trầm,
đãi vàngkhi không được bảo vệ làm cho tình hình SR càng thêm nghiêm
trọng. Nhiều nước phải chịu chấp nhận SR quay trở lại