Trong dòng văn học hiện đại Việt Nam, Tô Hoài được đánh giá là một cây đại thụ. Ông nhận giải thưởng Hồ Chí Minh vào năm 1996. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn đã nhận xét : “So với các cây bút đương thời, Tô Hoài có lẽ là nhà văn giàu chất chuyên nghiệp bậc nhất. Sống đến đâu viết đến đấy. Việc viết lách đối với ông là một thứ lao động hàng ngày”. Giáo sư Hà Minh Đức cho rằng “Tô Hoài là một cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng”. Quả thật, Tô Hoài đã miệt mài sáng tác 70 năm nay và đã cho ra đời 160 đầu sách. Ông thành công ở nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện dài, truyện đồng thoại, tiểu thuyết, kịch, hồi kí, chân dung văn học. Nghiên cứu nghệ thuật văn chương Tô Hoài sẽ giúp chúng ta đánh giá được đầy đủ hơn những đóng góp của ông với nền văn học nước nhà.
Tô Hoài nổi tiếng với những tác phẩm như truyện dài Dế Mèn phiêu lưu kí, Quê người, Quê nhà, Đêm mưa, Xóm giếng, tiểu thuyết Nhớ Mai Châu, Kẻ cướp bến Bỏi, hồi kí Cát bụi chân ai, Tự truyện, tập truyện ngắn Tây Bắc.
Không chỉ thành công ở truyện dài, tiểu thuyết, hồi kí, ở thể loại truyện ngắn ngay từ ngày đầu cầm bút, Tô Hoài đã tạo được cho mình một phong cách riêng. Truyện ngắn của ông hấp dẫn người đọc ở mọi lứa tuổi với lời kể chuyện hóm hỉnh, tài quan sát và miêu tả, cách thể hiện nhân vật sinh động. Chuyện về một làng quê làm nghề dệt cửi với biết bao lo toan, xuôi ngược mà cuộc sống vẫn vất vả bộn bề đã để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.
Ngày nay, truyện ngắn vẫn là một thể loại chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn học. Nó có sức phát triển bền bỉ qua năm tháng. Vì cuộc sống công nghiệp bận rộn, gấp gáp, nhiều người yêu văn đã tìm đọc truyện ngắn. Họ vẫn thấy ở truyện ngắn những bài học cuộc sống, những tâm tình về số phận con người, cả định hướng tương lai. Các nhà văn tâm huyết với nghề cũng đang lao động không ngừng để tìm hướng phát triển mới của truyện ngắn.
95 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 15895 | Lượt tải: 8
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài trước cách mạng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Trong dòng văn học hiện đại Việt Nam, Tô Hoài được đánh giá là một cây đại thụ. Ông nhận giải thưởng Hồ Chí Minh vào năm 1996. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn đã nhận xét : “So với các cây bút đương thời, Tô Hoài có lẽ là nhà văn giàu chất chuyên nghiệp bậc nhất. Sống đến đâu viết đến đấy. Việc viết lách đối với ông là một thứ lao động hàng ngày”. Giáo sư Hà Minh Đức cho rằng “Tô Hoài là một cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng”. Quả thật, Tô Hoài đã miệt mài sáng tác 70 năm nay và đã cho ra đời 160 đầu sách. Ông thành công ở nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện dài, truyện đồng thoại, tiểu thuyết, kịch, hồi kí, chân dung văn học. Nghiên cứu nghệ thuật văn chương Tô Hoài sẽ giúp chúng ta đánh giá được đầy đủ hơn những đóng góp của ông với nền văn học nước nhà.
Tô Hoài nổi tiếng với những tác phẩm như truyện dài Dế Mèn phiêu lưu kí, Quê người, Quê nhà, Đêm mưa, Xóm giếng, tiểu thuyết Nhớ Mai Châu, Kẻ cướp bến Bỏi, hồi kí Cát bụi chân ai, Tự truyện, tập truyện ngắn Tây Bắc...
Không chỉ thành công ở truyện dài, tiểu thuyết, hồi kí, ở thể loại truyện ngắn ngay từ ngày đầu cầm bút, Tô Hoài đã tạo được cho mình một phong cách riêng. Truyện ngắn của ông hấp dẫn người đọc ở mọi lứa tuổi với lời kể chuyện hóm hỉnh, tài quan sát và miêu tả, cách thể hiện nhân vật sinh động. Chuyện về một làng quê làm nghề dệt cửi với biết bao lo toan, xuôi ngược mà cuộc sống vẫn vất vả bộn bề đã để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.
Ngày nay, truyện ngắn vẫn là một thể loại chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn học. Nó có sức phát triển bền bỉ qua năm tháng. Vì cuộc sống công nghiệp bận rộn, gấp gáp, nhiều người yêu văn đã tìm đọc truyện ngắn. Họ vẫn thấy ở truyện ngắn những bài học cuộc sống, những tâm tình về số phận con người, cả định hướng tương lai. Các nhà văn tâm huyết với nghề cũng đang lao động không ngừng để tìm hướng phát triển mới của truyện ngắn.
Với đề tài “Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng”, chúng tôi muốn có cái nhìn đầy đủ, trọn vẹn về những đóng góp của Tô Hoài trong quá trình vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam hiện đại.
II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tô Hoài bước vào con đường văn học khá sớm. Ông cầm bút và nổi danh từ trước năm 1945. Đến nay, Tô Hoài vẫn là nhà văn viết nhiều, dẻo dai, sung sức ở các thể loại. Truyện ngắn Tô Hoài đã được giới phê bình văn học chú ý ngay từ những ngày đầu cầm bút.
Các truyện ngắn của Tô Hoài trước năm 1945 được nhà xuất bản Hoa Tiên Sài Gòn in lai với tựa đề “Chuột thành phố”, năm 1967 đã khẳng định “Các truyện ngắn O chuột, Gã chuột bạch, Con dế mèn, Đực, Cu Lặc, Tuổi trẻ, Một cuộc bể dâu… Đó là những tập truỵên ngắn xuất sắc, tiêu biểu cho lối văn dí dỏm, tinh nghịch của nhà văn Tô Hoài. Hầu hết những tập truyện ngắn này, tuy cái vỏ bên ngoài nó mang nhãn hiệu là truỵên loài vật, nhưng thực chất bên trong nó là sự phản ánh trung thực của truyện loài người, sống giữa giữa cuộc đảo điên của xã hội ngày nay…”[28, tr 1]
Những ý kiến đánh giá phê bình về truyện ngắn của Tô Hoài còn được tập trung trong cuốn Tô Hoài về tác gia và tác phẩm, nhà xuất bản Giáo dục, năm 2007 được tái bản nhiều lần, do Phong Lê (giới thiệu) và Vân Thanh (tuyển chọn).
Phong Lê cho rằng: “Đặc sắc của Tô Hoài trước năm 1945 là truyện ngắn, gồm truyện ngắn về loài vật và truyện ngắn về cảnh và người một vùng quê ven đô- quê ngoại và cũng là quê sinh - nơi tác giả đã sinh sống suối đời cho đến hôm nay.” [31, tr 30]. Ngòi bút của Tô Hoài đã miêu tả sự thay đổi của cuộc sống xung quanh mình những năm trước năm 1945.
Vũ Ngọc Phan nhận ra ngay cả những truyện ngắn viết về loài vật của Tô Hoài người đọc cũng thấy thấp thoáng cuộc sống của người dân quê: “Dưới con mắt của Tô Hoài, những nhách chó nhỏ nằm vật lên nhau, rên ư ử mà ngủ kia. Chính là “những đứa trẻ nằm mơ, những đứa trẻ khoai củ ở nhà quê”... chị gà mái “là một người đàn bà giỏi giang, đa tình thì nhất mực đa tình, mà khi vướng vào cái bổn phận dạy dỗ nuôi nấng con trẻ lại đáng nên một bậc mẹ hiền gương mẫu.” [31, tr 64-65]
Khi nghiên cứu về Tô Hoài, Phan Cự Đệ nhận xét: “Tô Hoài có một khả năng quan sát đặc biệt, rất thông minh, hóm hỉnh và tinh tế. Khả năng này giúp anh thành công khi miêu tả những hiện tượng bên ngoài, dễ trực tiếp quan sát và cảm thụ; cảnh vật thiên nhiên, sinh hoạt hằng ngày, phong tục lễ nghi, thế giới loài vật, vv... nhưng khả năng này rõ ràng là không đủ khi nói về đời sống tâm lí bên trong, biện chứng tâm hồn, những quy lật bản chất xã hội. Mặt khác, giống như một số nhà văn hiện thực phê phán chuyển mình sang phương pháp hiện thực chủ nghĩa, Tô Hoài miêu tả khá thành công các quan hệ gia đình, làng xóm, bạn bè, trai gái...”[31, tr 101]
Năm 2006, Mai Thị Nhung cho ra đời cuốn sách Phong cách nghệ thuật Tô Hoài và bài viết Đặc điểm thế giới nhân vật Tô Hoài trên tạp chí văn học. Trong đó, tác giả cũng đã thu thập rất nhiều ý kiến về nghệ thuật viết văn Tô Hoài [38, tr 8, 9,10].
Phan Cự Đệ nhận thấy “Tô Hoài có khả năng quan sát đặc biệt, rất thông minh, hóm hỉnh và tinh tế”. Nguyễn Đăng Mạnh cũng đồng quan điểm “Nhà văn có khiếu quan sát hết sức phong phú và sắc sảo, tài hoa”. Hà Minh Đức trong Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài khẳng định: “Tô Hoài có một năng lực phát hiện và nắm bắt nhanh chóng thế giới khách quan”. Trần Hữu Tá chỉ rõ năng lực đặc biệt của Tô Hoài chính là “nhãn quan phong tục đặc biệt nhạy bén sắc sảo”. Nguyễn Văn Long nhấn mạnh: “Ở Tô Hoài, cảm quan hiện thực nghiêng về phía sinh hoạt và phong tục”. Vương Trí Nhàn quả quyết: “Tô Hoài lõi đời, sành sỏi, con ruồi bay qua không lọt khỏi mắt”. Nguyễn Đăng Điệp khái quát: “Cái nhìn không nghiêm trọng hóa là nét trội trong cảm quan nghệ thuật của Tô Hoài”. Bên cạnh đó, Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết Tô Hoài với quan niệm “con người là con người”, tác giả khẳng định: “Tô Hoài quan niệm con người là con người, chỉ là con người, thế thôi”. Về ngôn ngữ giọng điệu, Vân Thanh nhận định: “Ngôn ngữ Tô Hoài thường ngắn gọn và rất gần với khẩu ngữ của nhân dân lao động”. Phan Cự Đệ cũng có trùng một quan điểm như vậy: “Tô Hoài đã chú ý học tập ngôn ngữ nghề nghiệp và ngôn ngữ địa phương”, “Trong tác phẩm của Tô Hoài, nhìn chung ngôn ngữ của quần chúng đã được nâng cao, nghệ thuật hoá”. Cùng với Phan Cự Đệ, Bùi Hiển thấy rằng: “Văn phong Tô Hoài chủ yếu bằng những nét nhẹ, mảnh, nhuần nhị, tinh tế, đôi khi hơi mờ ảo nữa”. Nguyễn Đăng Điệp cũng nhận thấy những nét tiêu biểu về lối kể chuyện của Tô Hoài: “Viết về cái của mình, quanh mình là định hướng nghệ thuật và cũng là kênh thẩm mỹ của Tô Hoài. Đúng hơn, đây là yếu tố cốt lõi làm nên quan điểm nghệ thuật của ông. Nó khiến ông cho văn Tô Hoài có được phong cách, giọng điệu riêng. Đó là một giọng kể nhẩn nha, hóm hỉnh và tinh quái”.
Năm 2007, cuốn Truyện ngắn Việt Nam lịch sử-thi pháp- chân dung” do tác giả Phan Cự Đệ chủ biên đã viết về quá trình ra đời, phát triển của truyện ngắn Việt Nam cùng với những gương mặt nhà văn tiêu biểu. Trong đó, Tô Hoài đựơc nhắc đến cùng với các tác giả tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao... Người viết đã nhấn mạnh một số đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài như “lối viết thông mình, hóm hỉnh, thậm chí tinh quái, một đôi nét tâm lí và triết lí đượm sắc thái buồn pha chút mùi vị chua chát kiểu Nam Cao”; “Những con vật trong tác phẩm Tô Hoài có nét gì đó giống người, quen thuộc với người. Tô Hoài bắt rất nhanh những nét đặc trưng trong tính cách của chúng.”; “Truyện ngắn Tô Hoài chịu nhiều ảnh hưởng của văn học dân gian. Nhưng lối dẫn truyện, kết cấu truyện, giọng điệu trần thuật cũng như các thủ pháp khắc hoạ tính cách nhân vật đã thuộc về truyện ngắn hiện đại”; “Trong số truyện, cũng giống như Nam Cao trong Chí Phèo, Tô Hòai đã sử dụng ngôn ngữ văn xuôi đa thanh, giọng điệu của người kể chuyện hoà lẫn với giọng điệu nhân vật”[5, tr 309, 310]...
Như vậy, những đặc điểm truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng đã được đề cập trong một số bài viết và các công trình nghiên cứu. Tuy nhiên chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu và có tính hệ thống. Chính vì thế, chúng tôi đã lựa chọn đề tài cho luận văn của mình là “Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng”.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng
Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám
2. Phạm vi
Tuyển tập Tô Hoài, nhà xuất bản Văn học năm 1987, do giáo sư Hà Minh Đức sưu tầm, tuyển chọn gồm 26 truyện ngắn.
1. Nhà nghèo
14. Ông dỗi
2. Lụa
15. Vàng phai
3. Một đêm gác rừng
16. Buổi chiều trong nhà
4. Chớp bể mưa nguồn
17. Khách nợ
5. Lá thư tình đầu tiên
18. Ông giăng không biết nói
6. Đi tắm đêm
19. Vợ chồng trẻ con
7. Hết một buổi chiều
20. Người đàn bà có mang
8. Một chuyến định đi xa
21. Dấy binh lấy lau làm cờ
9. Một người đi xa về
22. Con gà trống ri
10. Bóng đè
23. Đôi ri đá
11. Nhà có ma
24. Một cuộc bể dâu
12. Mùa ăn chơi
25. O chuột
13. Giữa thành phố
26. Gã chuột bạch
IV. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
1. Nhiệm vụ
Với đề tài nghiên cứu như trên, chúng tôi mong muốn:
+ Tìm ra những đặc điểm nổi bật về truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng.
+ Đánh giá được những đóng góp của ông trong sự nghiệp văn chương của dân tộc và đặc biệt là mảng truyện ngắn trước Cách mạng.
2. Phương pháp
+ Phương pháp phân tích tác phẩm.
+ Phương pháp so sánh
+ Phương pháp tổng hợp, thống kê
+ Phương pháp nghiên cứu liên ngành như ngôn ngữ, văn hóa...
V. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo luận văn gồm có bốn chương
Chương I. Vài nét về diện mạo truyện ngắn Việt Nam 1930-1945 và sự nghiệp văn chương Tô Hoài.
Chương II. Đặc điểm nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng.
Chương III. Đặc điểm kết cấu và tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng.
Chương IV. Đặc điểm ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng.
CHƯƠNG I
VÀI NÉT VỀ DIỆN MẠO TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM 1930-1945
VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG TÔ HOÀI
1.1. Diện mạo truyện ngắn Việt Nam 1930-1945
Truyện ngắn Việt Nam ra đời từ thời kì văn học trung đại. Theo dòng thời gian, thể loại này ngày càng phong phú, đa dạng, hoàn thiện, chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn học nước nhà. Có thể nói, giai đoạn 1930-1945, truyện ngắn Việt Nam đã có bước tiến nhảy vọt, với nhiều phong cách đa dạng, độc đáo.
Nhìn lại thời kì trước đó, ta mới thấy sự phát triển của truyện ngắn Việt Nam 1930-1945.
Truyện ngắn Việt Nam thời trung đại mang nội dung và ảnh hưởng của lối kể chuyện dân gian. Giai đoạn này còn chịu ảnh hưởng của lối văn tự sự trong các bộ sử, lối văn ghi chép sử ít có tính văn học. Truyện có lối kể chính xác, khách quan, lời văn ngắn gọn đơn giản, ít miêu tả tâm lí của nhân vật, mang tính ước lệ tượng trưng. Truỵên ngắn trung đại là bước mở đầu, đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển của truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Nhà văn Vũ Tú Nam cho rằng: “Truyện ngắn ở nước ta đã có từ lâu. Đó là các ký cổ, truyện cổ tích…Học trong các truyện ngắn cổ như Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông… Những truyện này đáng được học tập với thái độ trân trọng vì nó rất sinh động, súc tích và sáng tạo. Truyện ngắn của ta nặng nề về kể và thường rất ngắn gọn, độc đáo” [ 50, tr 63]
Bước sang thế kỉ XX, chữ quốc ngữ bắt đầu thể hiện ưu thế trong việc mở rộng công chúng văn học. Với kĩ thuật in ấn, báo chí ngày càng phát triển đã giúp cho các tác phẩm đến với công chúng dễ dàng và rộng lớn hơn, chứ không bị bó hẹp như trước. Thể loại truyện ngắn đã có nhiều thay đổi đáng kể. Bước đầu, truyện ngắn Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng của văn học dân gian, văn học trung đại Việt Nam và Trung Quốc nhưng với sự xâm nhập mạnh mẽ của văn hoá phương Tây, truyện ngắn thời kì này đã có màu sắc mới. Truyện ngắn dân tộc đã dần dần chuyển mình hoà vào xu thế chung của thời đại, vào quá trình hiện đại hoá nền văn học nước nhà, vượt qua những ảnh hưởng và hạn chế của các thế kỉ trước đó.
Sự ra đời của truyện ngắn hiện đại Việt Nam được đánh dấu bằng tác phẩm Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1887). Đây là truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ Quốc ngữ, khởi đầu cho hàng loạt truyện ngắn bằng chữ quốc ngữ ở giai đoạn tiếp theo. Truyện đã đưa đến nhiều cái mới mẻ cho công chúng. Truyện được kể ngắn gọn, sáng rõ, cốt truyện, tình tiết, chi tiết không quá phức tạp về một chuyện tình tay ba (thầy Phiền, vợ và bạn thân). Tác phẩm được viết theo lối kể chuyện ở ngôi thứ nhất, kết cấu theo quy luật tâm lí chứ không theo trình tự thời gian, kết thúc bằng bi kịch của nhân vật chứ không phải kết thúc có hậu như những câu chuyện dân gian.
Vào những năm 20 của thế kỉ XX, truyện ngắn Việt Nam đã có nhiều bước đi táo bạo với sự phát triển của nhiều khuynh hướng văn học.
Truyện ngắn viết theo khuynh hướng đạo lí gắn liền với các tên tuổi như Nguyễn Bá Học, Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Chánh Sắt…Bản thân họ xuất thân là nhà Nho. Trước lối sống thực dụng của xã hội thị thành đang bị Âu hoá, nền đạo đức Nho phong trong các gia đình phong kiến đã dần bị phá vỡ. Những tác giả nhà Nho cảm thấy đau lòng. Họ lên tiếng bênh vực đạo đức truyền thống. Quan niệm văn dĩ tải đạo vẫn chưa thoát khỏi các phẩm của họ. Các tác giả chưa chú trọng xây dựng nhân vật có cá tính được thể hiện ở chiều sâu tâm lí, ngôn ngữ, hành động. Nhân vật thực chất là một mẫu hình để nhà văn thuyết giảng về đạo đức, vì vậy trở nên khô cứng, gò bó, không có sức sống.
Khuynh hướng yêu nước và cách mạng gắn liền với tên tuổi Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc. Tác phẩm của Phan Bội Châu có thể xem là những đoản thiên tiểu thuyết bổ sung cho chính sử, cho lịch sử cách mạng Việt Nam. Phan Bội Châu sáng tác để đề cao anh hùng, liệt nữ, để cổ vũ cho phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc. Ông nổi tiếng với những tác phẩm Sùng bái giai nhân (1907), Chân tướng quân (1917), Tước Thái thiền sư (1917), Tái sinh sinh (1918), Truyện Phạm Hồng Thái (1925). Phan Bội Châu còn chịu ảnh hưởng của bút pháp viết sử, sử bình của truyện kể trung đại. Tuy nhiên, truyện của ông đã có những đổi mới, có những dấu hiệu của truyện ngắn hiện đại. Tác giả đóng vai là người kể chuyện, đứng ra dẫn dắt câu chuyện. Kết cấu truyện theo trình tự thời gian nhưng cũng có kết cấu phá vỡ thời gian tuyến tính như Tái sinh sinh. Truyện kí của Nguyễn Ái Quốc được đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Cộng Sản Pháp và báo Người cùng khổ của Liên hiệp các dân tộc thuộc địa từ năm 1922 đến năm 1925. Các tác phẩm nổi tiếng của Người vào thời kì này được độc giả luôn ghi nhớ như Con rùa, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Con người biết mùi hun khói…Phương pháp sáng tác của Nguyễn Ái Quốc được các nhà nghiên cứu như Nguyễn Đức Nam, Hà Minh Đức… khẳng định đó là phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đánh giá về truyện ngắn Nguyễn Ái Quốc nửa đầu những năm hai mươi, Phan Cự Đệ viết: “Đó là những truyện ngắn cô đọng, vừa mang ý nghĩa tượng trưng, có sức khái quát lớn. Đó là những truyện được kể theo ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba sử dụng ngôn ngữ trần thuật của người kể chuyện, có khi sử dụng ngôn ngữ đa thanh nhiều nhân vật (bình phẩm về Va-ren). Đó là những truyện ngắn tính cách, những truyện có cốt truyện căng thẳng giàu kịch tính và những truyện có màu sắc luận đề”[6, tr 281].
Khuynh hướng hiện thực có Phạm Duy Tốn và Nguyễn Công Hoan. Sống chết mặc bay (1918) của Phạm Duy Tốn kể về nỗi khổ của những người dân và cảnh ăn chơi sa đoạ của tên quan hộ đê. Phạm Duy Tốn cũng sử dụng nghệ thuật đối lập, tăng cấp kiểu như Ván bài bi-a của nhà văn Pháp Alphonse Daudet để tố cáo sự vô trách nhiệm của quan lại thời bấy giờ, đồng thời bộc lộ sự cảm thông trước nỗi thống khổ của nhân dân.
So với thời kì trước đó, truyện ngắn những năm 1930-1945 phát triển rực rỡ, phong phú hơn. Tư duy hệ tư sản dần dần thắng thế tư tưởng phong kiến. Cái tôi được giải phóng, nhà văn phát huy sức sáng tạo của mình. Vì vậy, thời kì này xuất hiện nhiều cây bút độc đáo. Hàng loạt các gương mặt tiêu biểu như Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài, Bùi Hiển, Thạch Lam, Khái Hưng, Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn… Các khuynh hướng văn học ngày càng phân hoá rõ rệt và đấu tranh, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh, Đỗ Tốn, Nguyễn Tuân tiêu biểu cho phong cách lãng mạn trữ tình.
Thạch Lam viết truyện với nghệ thuật tinh tế nhất là việc sử dụng tương phản và hài hoà giữa các âm thanh và các vùng ánh sáng. Câu chuyện để lại trong tâm hồn người đọc những dư vị đằm thắm của quê hương và sự cảm thương những cuộc đời thầm lặng như những chấm sáng lù mù nhoè đi trong bóng tối của một vùng quê tù đọng. Thạch Lam ít sử dụng cốt truyện giàu kịch tính. Ông nghiêng về những cốt truyện tâm lí, hướng dến thế giới bên trong con người, đặc biệt là thế giới ấn tượng và cảm giác như Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Sợi tóc.
Cũng giống như Thạch Lam, Thanh Tịnh thiên về miêu tả thế giới nội tâm, cảm giác. Truyện ngắn của ông thường chỉ có một tình huống. Cái kết bao giờ cũng là một kỉ niệm buồn man mác: kỉ niệm ngày đầu tiên đi học [Tôi đi học], kỉ niệm những ngày ở làng Mĩ Lí [Quê mẹ]. Lời văn giàu chất thơ, nhẹ nhàng, tha thiết bày tỏ một niềm cảm thông với con người nghèo khổ. Bên cạnh đó, những sáng tác của ông còn đậm chất truyền kì, những truyện kinh dị, kì bí [Ngậm ngải tình trầm].
Văn học lãng mạn còn xuất hiện một cái Tôi độc đáo- Nguyễn Tuân. Suốt đời đi tìm và tôn thờ cái Đẹp, Nguyễn Tuân đến với các nhân vật tài hoa, tài tử, những thú chơi tao nhã trong văn hoá ứng xử, trong văn hoá ẩm thực. Vang bóng một thời, ông đề cao những thú chơi cổ xưa. Uống trà, chơi hoa là một thứ nghệ thuật trang trọng, cầu kì [Chén trà trong sương sớm, Thạch Lan Hương]. Lối chơi chữ thể hiện khí phách của người quân tử, những con nguời có tài, có tâm [Chữ người tử tù]. Nhân vật của Nguyễn Tuân có cái ngông, lập dị không phải là những con người bình thường. Dù đứng ở phía nào thiện hay ác, nhân vật đều có tài đặc biệt hơn người, được lí tưởng hoá, được phóng đại theo thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn. Truyện của Nguyễn Tuân vẫn được kể theo trật tự thời gian tuyến tính, ở ngôi thứ ba. Cái tài của ông là xây dựng nhân vật. Ông nắm bắt những nét đặc trưng nhất trong tính cánh của nhân vật, miêu tả những hành động theo cách riêng hết sức độc đáo..
Trong dòng văn học hiện thực phê phán, có những tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Bùi Hiển, Kim Lân…
Nguyễn Công Hoan là người đi đầu trong phương pháp hiện thực phê phán. Ông được coi là lá cờ đầu của văn học hiện thực phê phá những năm 1930-1945. Nguyễn Công Hoan viết về những câu chuyện về con người và xã hội Việt Nam thời bấy giờ, với một lối kể chuyện hóm hỉnh hài hước có tính chất châm biếm. Ông đả kích bọn quan lại và chế độ thực dân. Những mảng đề tài xã hội trước đây, Nguyễn Công Hoan nhanh chóng chuyển sang đề tài phản ánh các sự kiện chính trị thời cuộc. Những truyện ngắn của ông tiểu biểu cho một thứ văn vui, thứ văn mà có lẽ từ khi nước Việt Nam có tiểu thuyết viết theo lối mới, người ta chỉ thấy ở ngòi bút của ông mà thôi. Những tác phẩm đầu tay của ông lấy từ đề tài những điều mắt thấy tai nghe như Kiếp hồng nhan, Sóng vũ môn, Cụ đồ Ba, Cô hàng nước. Trần ai tri kỷ… Thái độ căm ghét bọn quan tân học, luyến tiếc những nhà Nho cũ được thể hiện qua Sóng vũ môn, cảm tình với những người ăn ở chung thuỷ nhân hậu được thể hiện qua Cô hàng nước, Trần ai tri kỉ. Có truyện giàu yếu tố hiên thực, tiến bộ [Sóng vũ môn], có truyện còn yếu tố lãng mạn, bảo thủ [Kiếp hồng nhan]. Nguyễn Công Hoan khai thác đề tài từ tin tức thời sự hàng ngày, hoặc mô tả những việt thật mà ông mắt thấy tai nghe như Oằn tà roằn, Thật là phúc, Lập Gioòng, Răng chó của nhà tư sản, Hai thằng khốn nạn… Chất hiện thực thấm đẫm trong tác phẩm của ông. Chủ đề tập trung công kích bọn quan lại, địa chủ, tư sản những xấu xa của xã