Về thành ngữ, từ trước đến nay đã có rất nhiều bài viết, công trình
nghiên cứu. Xuất phát từ các góc độ, khuynh hướng và phương pháp tiếp cận
khác nhau, những bài viết, những công trình đó cung cấp cái nhìn mới mẻ, đa
diện hơn về thành ngữ tiếng Việt. Có thể nói, thành ngữ là mảnh đất đã được
cày xới nhiều và cũng đã thu được nhiều thành tựu. Thế nhưng theo chúng tôi,
việc tìm hiểu đặc trưng văn hóa- ngôn ngữ trong thành ngữ vẫn có thể bàn
luận thêm, nghiên cứu sâu hơn và toàn diện hơn.
0.1.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá ngày càng được các nhà
ngôn ngữ học quan tâm. Người ta nhận thấy rằng việc nghiên cứu ngôn ngữ
thường xuyên đòi hỏi phải thuyết minh những ý nghĩa do văn hoá xã hội
quyết định, và ngược lại, việc nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của
văn hoá đòi hỏi sự hiểu biết những khía cạnh ngôn ngữ của nền văn hoá đó.
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá được thể hiện ở nhiều cấp độ như ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp. Từ vựng thể hiện rõ nhất mối quan hệ này. Nghiên
cứu hàm nghĩa văn hóa trong từ vựng là một lĩnh vực chưa được đào sâu
nghiên cứu ở Việt Nam. Song với nhu cầu tìm về bản sắc văn hóa dân tộc,
nhu cầu giao lưu văn hóa- ngôn ngữ và nhu cầu hội nhập trong thời đại hội
nhập toàn cầu hóa hiện nay, nghiên cứu hàm nghĩa văn hóa trở thành một
trong những nhiệm vụ quan trọng.
147 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 4180 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc trưng ngôn ngữ - Văn hoá của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Phương
ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ - VĂN HOÁ
CỦA CÁC TỪ NGỮ
CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
(SO SÁNH VỚI TIẾNG ANH)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh- 2009
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời tri ân sâu sắc đến PGS.TS Trịnh Sâm-
người đã động viên và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận
văn.
Nhân đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô-
những người đã chỉ bảo và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu; xin
cảm ơn phòng Khoa học công nghệ và Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá trình thực hiện luận văn.
Người viết đã nỗ lực hết mình để hoàn thành luận văn.Tuy nhiên, luận
văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Người viết rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn. Xin trân trọng cảm ơn.
MỞ ĐẦU
0.1.Lý do chọn đề tài
0.1.1. Về thành ngữ, từ trước đến nay đã có rất nhiều bài viết, công trình
nghiên cứu. Xuất phát từ các góc độ, khuynh hướng và phương pháp tiếp cận
khác nhau, những bài viết, những công trình đó cung cấp cái nhìn mới mẻ, đa
diện hơn về thành ngữ tiếng Việt. Có thể nói, thành ngữ là mảnh đất đã được
cày xới nhiều và cũng đã thu được nhiều thành tựu. Thế nhưng theo chúng tôi,
việc tìm hiểu đặc trưng văn hóa- ngôn ngữ trong thành ngữ vẫn có thể bàn
luận thêm, nghiên cứu sâu hơn và toàn diện hơn.
0.1.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá ngày càng được các nhà
ngôn ngữ học quan tâm. Người ta nhận thấy rằng việc nghiên cứu ngôn ngữ
thường xuyên đòi hỏi phải thuyết minh những ý nghĩa do văn hoá xã hội
quyết định, và ngược lại, việc nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của
văn hoá đòi hỏi sự hiểu biết những khía cạnh ngôn ngữ của nền văn hoá đó.
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá được thể hiện ở nhiều cấp độ như ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp. Từ vựng thể hiện rõ nhất mối quan hệ này. Nghiên
cứu hàm nghĩa văn hóa trong từ vựng là một lĩnh vực chưa được đào sâu
nghiên cứu ở Việt Nam. Song với nhu cầu tìm về bản sắc văn hóa dân tộc,
nhu cầu giao lưu văn hóa- ngôn ngữ và nhu cầu hội nhập trong thời đại hội
nhập toàn cầu hóa hiện nay, nghiên cứu hàm nghĩa văn hóa trở thành một
trong những nhiệm vụ quan trọng.
Ở đây chúng tôi sẽ xem xét các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người (BPCT)
trong thành ngữ bởi vì trong nhận thức của chúng tôi, thành ngữ là một đơn vị
ngôn ngữ đồng thời là một thành tố văn hoá nên nó mang trong mình những
đặc trưng dân tộc, những biểu tượng dân tộc. Tìm hiểu, khảo sát, giải mã các
từ ngữ chỉ BPCT trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh, chúng ta sẽ thấy
được những đặc trưng ngôn ngữ- văn hoá của hai dân tộc Việt và Anh với hai
loại hình ngôn ngữ và văn hoá khác biệt nhau, thấy được sự giống và khác
nhau trong quan niệm, liên tưởng ngôn ngữ giữa người Anh và người Việt.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn “Đặc trưng ngôn ngữ-văn hóa của từ
ngữ chỉ bộ phận cơ thể trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)”
làm đề tài nghiên cứu của mình.
0.2. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài: “Đặc trưng ngôn ngữ-văn hóa của từ ngữ chỉ BPCT
trong thành ngữ tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh), người viết hướng đến
những mục đích sau:
- Tìm ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá trên cứ liệu từ ngữ chỉ
BPCT trong thành ngữ. Góp phần làm rõ thêm nguyên lý ngôn ngữ phản ánh
văn hoá.
- Tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ- văn hoá của người Việt và người Anh
qua các từ ngữ chỉ BPCT trong thành ngữ.
0.3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong những năm gần đây, nhiều nhà ngôn ngữ học đã quan tâm nghiên
cứu hàm nghĩa văn hóa thể hiện qua ngôn ngữ . Nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ
đã tập trung nghiên cứu vấn đề này.
Trước hết có thể kể đến luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Bảo với đề
tài “Ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt (so
sánh với tiếng Anh )”. Trong công trình này, Nguyễn Thị Bảo đã nghiên cứu
khá kĩ về ngữ nghĩa văn hóa của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng
Việt, có sự so sánh với các từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Anh.
Tiếp theo là luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thanh Tùng với đề tài “ Tìm
hiểu đặc trưng ngôn ngữ- văn hoá của nhóm từ chỉ động thực vật trong
tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh)”. Trong công trình này, Nguyễn Thanh
Tùng có một tầm nhìn khá bao quát về từ chỉ động-thực vật trong tiếng Việt.
Ông tiến hành so sánh chúng với tiếng Anh trong từ điển giải thích và trong
thành ngữ, tục ngữ, tìm ra những nét tương đồng và dị biệt để từ đó thấy được
đặc trưng ngôn ngữ-văn hóa của hai loại hình ngôn ngữ và văn hóa khác biệt
nhau.
Các nhà ngôn ngữ học có tên tuổi cũng đã quan tâm nghiên cứu vấn đề
văn hóa-ngôn ngữ và để lại các công trình có giá trị. Đặc biệt đáng kể nhất là
hai công trình: “Tìm hiểu đặc trưng văn hoá- dân tộc của ngôn ngữ và tư
duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác)” của Nguyễn
Đức Tồn và “Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt” của Nguyễn Văn
Chiến.
Trong công trình của mình, Nguyễn Đức Tồn đã trình bày khá cặn kẽ về
đặc trưng văn hoá dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt trong sự đối
chiếu, so sánh với tiếng Nga về các đặc điểm định danh, ngữ nghĩa của tên
gọi động vật, thực vật, BPCT. Ở công trình này, Nguyễn Đức Tồn cũng đã
dành một số trang để nói về biểu trưng của một số tên gọi BPCT trong tiếng
Việt v.v
Trong “Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt”, Nguyễn Văn Chiến
đã trình bày khá chi tiết về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, xác lập
vốn từ vựng thể hiện văn hoá của người Việt như “nước”, các từ biểu thị mô
hình kinh tế- xã hội lúa nước cổ truyền Việt Nam, các từ chỉ quan hệ thân tộc
và các từ xưng hô trong tiếng Việt, nhóm từ chỉ BPCT,Về các từ chỉ BPCT,
tác giả đã xuất phát từ góc nhìn văn hóa học để đi tìm những “mật mã”, ngôn
ngữ trong tổ chức cấu trúc hệ thống các đơn vị từ vựng tiếng Việt biểu thị
BPCT.
Ngoài các công trình trên, còn có một số bài viết có liên quan đến đặc
trưng ngôn ngữ-văn hóa thể hiện ở các từ ngữ này đăng trên các tạp chí
chuyên ngành như:
- “Bình diện văn hoá- ngôn ngữ của nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt”
(Như Ý, Văn hoá dân gian 1992, 39(3), tr.80-82.)
- “Tản mạn về từ “bụng” của người Việt” ( Hoàng Dĩ Đình, Ngôn ngữ
và đời sống năm 2000, số1, tr.24-25.)
- “Vài nét về hình ảnh trái tim trong tiếng Việt” (Phan Thị Hồng
Xuân, Ngôn ngữ và đời sống 2000, số 4, tr.20-21).
- “ Một số nhận xét về thành ngữ có từ chỉ BPCT trong tiếng Nhật”
(Đỗ Hoàng Ngân, Ngôn ngữ năm 2002, số 8, tr.68-74)
- “Cấu trúc hai bậc trong ngữ nghĩa của thành ngữ có từ chỉ BPCT”
(Trịnh Đức Hiển- Lâm Thu Hương, Văn hóa dân gian 2003, số 5 (89),
tr.62-65).
- “Một số thành ngữ có từ “bụng” (Tạ Đức Tú, Ngôn ngữ và đời sống
2005, số 3, tr.11-12).
- “ Thành ngữ chỉ “tay”, “chân” với đặc trưng văn hoá dân tộc”
(Nguyễn Thị Thu, Ngôn ngữ và đời sống 2006, số 3, tr.22-26 ).
- Về thành ngữ có chứa yếu tố “ruột” trong tiếng Việt (Nguyễn Thanh
Thuỷ, Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm Tp.HCM, số 17, tr 70-78).
-
Như vậy có thể thấy, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống về việc tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ-văn hóa của các từ ngữ chỉ BPCT
trong thành ngữ tiếng Việt. Nguyễn Đức Tồn chỉ mới tập trung nghiên cứu về
đặc điểm định danh, đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ này và dành một số
trang để nói về việc biểu trưng tâm lí- tình cảm của các từ chỉ BPCT trong
tiếng Việt. Nguyễn Văn Chiến chỉ mới trình bày một cách bao quát các nội
dung có liên quan đến các nhóm từ này, xuất phát từ góc nhìn văn hóa học.
Luận văn này, trên cơ sở kế thừa thành quả của các công trình đi trước,
tiến hành thống kê, miêu tả và phân loại trước hết là thành ngữ có từ chỉ
BPCT người trong tiếng Việt và dựa vào kết quả có được, bước đầu so sánh
với thành ngữ tiếng Anh cùng loại để tìm ra sự tương đồng và dị biệt
0.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với bất kì công trình khoa học nào, tên gọi đã tự giới hạn phạm vi khảo
sát. Cũng qua tên đề tài, người viết tự đặt ra cái đích cần phải đạt tới, vấn đề
cần phải đào sâu, góc độ cần phải tiếp cận và cả phương pháp giải quyết. Việc
nghiên cứu hàm nghĩa văn hóa trong ngôn ngữ là một việc làm đòi hỏi nhiều
thời gian và công sức của nhiều người. Ở đây, trong khuôn khổ của luận văn,
chúng tôi chỉ giới hạn tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ- văn hóa trong các thành
ngữ mà cụ thể là các thành ngữ có từ chỉ BPCT của tiếng Việt , có sự so sánh
với các từ chỉ BPCT trong thành ngữ trong tiếng Anh .
Trong luận văn, chúng tôi sẽ:
- Loại bỏ một số đơn vị một số tác giả xếp vào thành ngữ nhưng nó
mang những đặc điểm của tục ngữ rõ ràng. Ví dụ như: Bàn tay có ngón dài
ngón ngắn; Dạ sâu hơn biển, bụng kín hơn buồng; Có chí làm quan, có gan
làm giàu; Có đi có lại mới toại lòng nhau, v.v.
- Không xét đến những từ ngữ chỉ BPCT đã chuyển nghĩa theo kiểu ẩn
dụ từ vựng như : mặt trong cánh bèo mặt nước, căng như mặt trống,.., chân
trong góc bể chân trời, eye (mắt) trong the eye of the storm (mắt bão), face
(mặt) trong the face of earth (bề mặt trái đất), v.v.
-Xét cả những thành ngữ có từ chỉ BPCT đi liền với tên động vật, mang
hàm ý ẩn dụ cho tính cách, dáng vẻ của con người, ví dụ như: lòng lang dạ
sói, lòng chim dạ cá, mắt phượng mày ngài, v.v.
- Không xét đến những từ ngữ chỉ BPCT động vật được dùng để nói tới
con người ví dụ như: móc mắt lôi mề, to gan lớn mề, giơ nanh múa vuốt, v.v.
0.5. Phương pháp nghiên cứu
Do tính chất của đề tài và do nhiệm vụ khoa học mà đề tài đặt ra, chúng
tôi sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp thống kê: mục đích của việc sử dụng phương pháp này là
nhằm thống kê tất cả các thành ngữ có từ chỉ BPCT trong thành ngữ tiếng
Việt và thành ngữ tiếng Anh, làm tư liệu cho quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích: chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp này để phân
tích đặc trưng ngữ nghĩa- văn hoá của các từ ngữ chỉ BPCT trong thành ngữ
tiếng Việt và thành ngữ tiếng Anh.
- Phương pháp so sánh- đối chiếu: Đây là một phương pháp không thể
thiếu để tìm ra những tương đồng và dị biệt trong văn hoá, tư duy của người
Anh và người Việt, như Nguyễn Đức Tồn (2008) đã nói: “ Chỉ có sự tiếp xúc
với các nền văn hóa khác, so sánh cái của mình với cái của người khác mới
cho phép coi những yếu tố nào đó của một nền văn hóa có địa vị đặc trưng
khu biệt” [tr.20].
Các phương pháp này có tầm quan trọng như nhau và được vận dụng
xuyên suốt luận văn. Tất cả nhằm mục đích duy nhất: giải quyết vấn đề luận
văn đã đặt ra.
0.6. Tư liệu nghiên cứu
Để thống kê các thành ngữ có từ ngữ chỉ BPCT trong tiếng Việt, chúng
tôi sử dụng các từ điển của các tác giả có uy tín như Từ điển thành ngữ tiếng
Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên; Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt của
Viện ngôn ngữ học; từ điển Thành ngữ Việt Nam của Nguyễn Lực, Lương
Văn Đang; Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân. Để thống
kê các thành ngữ có nhóm từ chỉ BPCT trong tiếng Anh, chúng tôi sử dụng
cuốn “Oxford dictionary of English Idioms” của Cowie A.P, Mackin R., Mc
Caig I.R; cuốn “English Idioms” của Seidl J., McMordie W. Dựa trên các tư
liệu này, chúng tôi đã thống kê được 1100 thành ngữ BPCT tiếng Việt và 867
thành ngữ BPCT tiếng Anh.
0.7. Đóng góp của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài có những ý nghĩa lí luận và thực tiễn sau:
- Góp phần vào xây dựng bộ môn thành ngữ học.
- Đóng góp vào việc tìm hiểu những khác biệt về ngôn ngữ do đặc trưng
văn hoá, tư duy quy định.
- Hiểu biết thêm về cái chung và cái riêng của hai nền văn hoá Việt và
Anh, cung cấp tư liệu nghiên cứu bản sắc văn hoá, làm cơ sở cho việc hiểu
sâu ngôn ngữ, trực tiếp góp phần vào việc giảng dạy và học tập tiếng Việt cho
người Anh cũng như trong việc dạy tiếng Anh cho người Việt ngày càng tốt
hơn.
- Tập hợp một khối tư liệu lớn bao quát hơn về các thành ngữ có chứa từ
ngữ chỉ BPCT, phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và sử dụng thành ngữ.
0.8. Bố cục của luận văn
Ngoài 8 trang mở đầu, 3 trang kết luận và 39 trang phụ lục, luận văn của
chúng tôi gồm nội dung chính như sau:
Chương một là chương tổng quan về thành ngữ và thành ngữ tiếng Việt.
Ở đây chúng tôi sẽ trình bày về các vấn đề như nhận diện thành ngữ và thành
ngữ tiếng Việt, đặc điểm ngữ nghĩa văn hoá trong thành ngữ trong đó sẽ khái
quát về mối quan hệ ngôn ngữ và văn hoá, ngữ nghĩa văn hóa của từ, ngữ
nghĩa văn hóa trong thành ngữ và cuối cùng là vấn đề biểu trưng trong thành
ngữ.
Chương hai, chúng tôi sẽ khảo sát các thành ngữ có thành tố BPCT
trong tiếng Việt và tiếng Anh, liệt kê các thành tố chỉ BPCT trong thành ngữ
tiếng Việt và tiếng Anh, nhận xét về số lượng thành ngữ và tên các BPCT
xuất hiện trong thành ngữ, về số lượng BPCT trong một thành ngữ của hai
ngôn ngữ.
Chương ba, chúng tôi sẽ đi vào miêu tả đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá
của thành ngữ có từ ngữ chỉ BPCT trong tiếng Việt và tiếng Anh. Ở đây,
chúng tôi tập trung vào một số phạm vi phản ánh chủ yếu của thành ngữ
BPCT- nói lên được sự khác nhau về cách tri nhận của người Việt và người
Anh đó là phạm vi phản ánh về hình dáng, bề ngoài của con người, phạm vi
phản ánh trí tuệ và phạm vi phản ánh tâm lí- tình cảm của con người.
Chương 1:
Thành ngữ và thành ngữ tiếng Việt
1.1. Nhận diện thành ngữ
Thành ngữ là một đơn vị phổ biến trong các ngôn ngữ. Dường như
không một ngôn ngữ nào không tồn tại thành ngữ. Vậy quan niệm về thành
ngữ trong tiếng Việt và tiếng Anh như thế nào? Một đơn vị có những đặc
điểm nào thì được coi là thành ngữ?
1.1.1. Thành ngữ tiếng Anh
Các tác giả J.Seidl và W. McMordie trong công trình “ English idioms”
quan niệm: “ thành ngữ có thể định nghĩa là một số các từ, khi đi với nhau, có
nghĩa khác với nghĩa của mỗi từ riêng lẻ” (An idioms can be defined as a
number of words which, when taken together, have a different meaning from
the individual meanings of each word) [74, tr.13].
Các tác giả của công trình “ English idioms in use’ cũng có quan niệm
tương tự: “ Thành ngữ là những cụm từ cố định mà nghĩa của chúng không
được trực tiếp nhận ra từ nghĩa của các từ riêng lẻ trong thành ngữ” (Idioms
are fixed of expressions whose meaning is not immediately obvious from
looking at the individual words in the idiom ) [46, tr.4].
Trong tiếng Anh, thành ngữ có nhiều dạng và nhiều cấu trúc khác nhau.
Một thành ngữ có thể có cấu trúc mang tính có quy tắc hoặc không có quy tắc,
thậm chí là không đúng cấu trúc ngữ pháp. Sự rõ ràng của nghĩa thành ngữ
không phụ thuộc vào “tính đúng ngữ pháp”. Chẳng hạn:
- Hình thức bất quy tắc, nghĩa rõ ràng như trong give someone to
understand, do some proud, do the dirty on someone,
- Hình thức có quy tắc, nghĩa mơ hồ như trong have a bee in one’s
bonnet, cut no ice, bring the house down.
- Hình thức bất quy tắc, nghĩa mơ hồ như trong be at large, go great
guns, be at daggers drawn,v.v.
Theo các tác giả của “English idioms”, hầu hết thành ngữ tiếng Anh
thuộc nhóm thứ hai, hình thức là có quy tắc nhưng nghĩa lại không rõ ràng.
Tuy nhiên, ngay trong nhóm này cũng có những thành ngữ có nghĩa khá hiển
nhiên. Chẳng hạn thành ngữ “ to give some one the green light” có thể đoán
được nghĩa là “cho phép ai đó bắt đầu”. Những thành ngữ khác quá khó để
đoán được nghĩa bởi vì ở đây không có sự liên hợp với nghĩa gốc của các từ
riêng lẻ. Chẳng hạn như “ to tell someone where to get off, to carry the can, to
drop a brick, to call a shots, v.v.”.
Jennifer Seidl và W. McMordie cũng cho rằng không thể thay đổi bất kì
thành phần nào trong thành ngữ, chỉ trừ trường hợp một vài thành ngữ có biến
thể. Chẳng hạn thành ngữ “eat one’s word” (rút lại lời đã nói) thì không thể
nói “eat one's sentences” hoặc “ swallow one's words”.
1.1.2. Thành ngữ tiếng Việt
Việc nghiên cứu thành ngữ từ trước đến nay đã được rất nhiều nhà Việt
ngữ học quan tâm, từ các nhà nghiên cứu văn học dân gian cho đến các nhà
ngôn ngữ học.
Dưới góc nhìn ngôn ngữ học, thành ngữ là một đơn vị của ngôn ngữ.
Theo cách phân bậc các đơn vị ngôn ngữ từ thấp đến cao thì thành ngữ nằm ở
bậc cụm từ cố định, trên từ và dưới câu.
Vậy thành ngữ là gì?
Theo “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (1996)”: “ thành ngữ là
cụm từ hay ngữ cố định có tính nguyên khối về nghĩa, tạo thành một chỉnh thể
định danh có ý nghĩa chung khác với tổng số ý nghĩa của các thành tố cấu
thành nó tức là không có nghĩa đen và hoạt động như một từ riêng biệt ở trong
câu” [71, tr.271].
Khi bàn về thành ngữ, các nhà Việt ngữ học thường đem phân biệt thành
ngữ với từ ghép, cụm từ tự do, quán ngữ, tục ngữ,Theo chúng tôi, ngoại trừ
những trường hợp biệt lệ như : mát tay, xấu bụng, non dạ, sự khác biệt giữa
thành ngữ và từ ghép, cụm từ tự do, quán ngữ là khá rõ ràng. Điều quan trọng
là cần phải phân biệt thành ngữ và tục ngữ. Đây cũng là một trong những mũi
nhọn được các nhà nghiên cứu tập trung cao độ khi bàn về khái niệm thành
ngữ bởi vì thành ngữ và tục ngữ đều là những cụm từ cố định, chặt chẽ về cấu
trúc hình thái, có tính bóng bẩy và gợi tả. Và trên thực tế có những ráp ranh
khó có thể phân định rõ ràng. Về hai loại đơn vị này, có nhiều ý kiến khác
nhau.
Trong bài “ Góp ý kiến phân biệt thành ngữ và tục ngữ”, Cù Đình Tú sử
dụng tiêu chí chức năng để phân biệt thành ngữ và tục ngữ. Ông quan niệm:
“Thành ngữ là những đơn vị có sẵn, mang chức năng định danh, nói khác đi
dùng để gọi tên sự vật, tính chất, hành động” và “ Tục ngữ đứng về mặt
ngôn ngữ học có chức năng khác hẳn so với thành ngữ. Tục ngữ cũng như các
sáng tạo khác của văn học dân gian như ca dao, truyện cổ tích đều là các
thông báo. Nó thông báo một nhận định, một kết luận về một phương diện
nào đó của thế giới khách quan. Do vậy, mỗi tục ngữ đọc lên là một câu hoàn
chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý tưởng. Đó cũng là lí do giải thích vì sao tục
ngữ có cấu tạo là các kết cấu hai trung tâm.”
Nguyễn Văn Mệnh thì quan niệm: “ thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ
có sẵn. Chúng là những ngữ có kết cấu chặt chẽ và ổn định, mang một ý nghĩa
nhất định, có chức năng định danh và được tái hiện trong giao tế.” [37, tr.12].
Tác giả phân biệt thành ngữ và tục ngữ như sau: Xét về nội dung “ thành ngữ
giới thiệu một hình ảnh, một hiện tượng, một trạng thái, một tính cách, một
thái độTục ngữ thì khác hẳn, nó không dừng lại ở mức độ giới thiệu hình
ảnh, hiện tượngnhư thành ngữ mà đi đến một nhận định cụ thể, một kết
luận chắc chắn, một kinh nghiệm sâu sắc, một lời khuyên răn, một bài học về
tư tưởng, đạo đức. Và từ đó ông nhận xét chính sự khác nhau về nội dung
như trên đã dẫn đến sự khác nhau về hình thức ngữ pháp, về năng lực hoạt
động trong chuỗi lời nói và cả sự khác nhau về số lượng tuyệt đối nữa.
Nguyễn Thiện Giáp lại căn cứ vào ba đối lập để phân biệt từ, ngữ, thành
ngữ, quán ngữ, tục ngữ và kết cấu tự do. Ba đối lập đó là: (1) Tính bền vững
hay không bền vững của kết cấu. (2) Tính thống nhất hay tách rời về nghĩa.
(3) Tính vũ đoán hay tính lí do của nghĩa. Ông lập bảng phân biệt. Theo đó,
thành ngữ mang tính bền vững về kết cấu, có thể có sự thống nhất hoặc không
thống nhất về nghĩa, mang tính vũ đoán về nghĩa; còn tục ngữ chỉ có điểm
khác so với thành ngữ là nó không có sự thống nhất về nghĩa. Nhìn vào bảng
phân biệt của Nguyễn Thiện Giáp ta thấy khó mà phân biệt thành ngữ và tục
ngữ. Nhưng sau đó, ông có nói rõ hơn về sự khác biệt giữa thành ngữ và tục
ngữ. “ Tục ngữ là những kết cấu cố định, diễn đạt rất hoàn hảo toàn bộ kinh
nghiệm đời sống, kinh nghiệm lịch sử- xã hội của nhân dân lao độngNội
dung của tục ngữ là những kinh nghiệm được rút ra trong quá trình đấu tranh
thiên nhiên và đấu tranh xã hội, được thể hiện nhiều lần trong thực tiễn và
dường như đã trở nên những chân lí có tính chất phổ bi