Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai, đã nổi lên
nhiều cao trào cách mạng nhưng hầu hết đều thất bại do nhiều ngyên nhân khách
quan và chủ quan. Chỉ có cuộc cách mạng tháng tám (1945) là mang lại chiến thắng
lịch sử cho dân tộc ta nó đánh dấu một bước ngoặt lịch sử cho cách mạng Việt
Nam. chấm dứt một thời kỳ đen tối và mở ra một trang sử mới cho cách mạng Việt
Nam.
Thắng lợi của cách mạng tháng tám có một phần không nhỏ công lao của bè
bạn quốc tế và sự lãnh đạo tài tình của đảng biết tận dụng đúng thời cơ đặc biệt là
công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc. Thắng lợi này là do sự kết hợp giữa
chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào yêu nước của nhân dân ta. nó đã khẳng định
được cách mạng Việt Nam trên vị thế thế giới.
30 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2494 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đảng phát Động và lãnh đạo các cao trào cách mạng (1939 - 1945), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Đảng phát Động và lãnh đạo
các cao trào cách mạng (1939-1945)
Lời nói đầu
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai, đã nổi lên
nhiều cao trào cách mạng nhưng hầu hết đều thất bại do nhiều ngyên nhân khách
quan và chủ quan. Chỉ có cuộc cách mạng tháng tám (1945) là mang lại chiến thắng
lịch sử cho dân tộc ta nó đánh dấu một bước ngoặt lịch sử cho cách mạng Việt
Nam. chấm dứt một thời kỳ đen tối và mở ra một trang sử mới cho cách mạng Việt
Nam.
Thắng lợi của cách mạng tháng tám có một phần không nhỏ công lao của bè
bạn quốc tế và sự lãnh đạo tài tình của đảng biết tận dụng đúng thời cơ đặc biệt là
công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc. Thắng lợi này là do sự kết hợp giữa
chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào yêu nước của nhân dân ta. nó đã khẳng định
được cách mạng Việt Nam trên vị thế thế giới.
Mục Lục
Trang
Lời nói đầu 1
Chương I:
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
các cao trào cách mạng 2
ChươngII:
Đảng phát Động và lãnh đạo
các cao trào cách mạng (1939-1945) 5
ChươngIII:
Cách mạng tháng tám nổ ra và thắng lợi 12
Chương I: đảng cộng sản việt nam ra đời
các cao trào cách mạng
I. Đảng cộng sản việt nam ra đời và các cao trào cách mạng.
1.Đảng cộng sản việt nam ra đời.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất,mặc dù là nước thắng trận nhưng nền kinh
tế Pháp đã bị tổn thất nặng nề.Để bù đắp những thiệt hại do chiến
tranh gây ra, thực dân Pháp ra sức khai thác và bóc lột các nước thuộc địa trong đó
có Việt Nam,điều này gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến xã hội nước ta.Làm xã hội nước
ta càng trở nên phân hoá sâu sắc hơn, mâu thuẫn trong xã hội càng trở nên gay gắt
Ngày 1-9-1858 thực đân Pháp nổ súng xâm lược nước ta.Từ khi thực đân Pháp
xâm lược, chúng tăng cường khai thác tài nguyên và bóc lột nhân dân ta: Nhiều
ngành sản xuất trì trệ, hàng vạn công nhân bị sa thải, sản xuất nông nghiệp bị đình
đốn, hàng vạn ha ruộng đất bị bỏ hoang, tiểu thương, tiểu thủ buôn bán bị thua lỗ,
công chức bị mất việc, học sinh, sinh viên ra trường không có việc làm. Đời sống
của mọi tầng lớp nhân dân bị đe doạ nghiêm trọng. Sự tăng cường bóc lột thuộc địa,
khủng hoảng kinh tế và chính sách khủng bố của bọn thực dân, phong kiến tràn
lan.Nhân dân ta đã liên tiếp nổi dậy cầm vũ khí chống bọn cướp nước. Nhưng tất cả
những cuộc đấu tranh đó đều không giành được thắng lợi. Năm 1911, Nguyên ái
Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước. Đến tháng 7-1920, Người đọc được bản sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin,
người đã rất xúc động và nhận ra rằng : ” ... đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng cho chúng ta “.
Ngày 3-2-1930, đảng cộng sản Việt Nam ra đời, mở ra một thời kỳ mới cho cách
mạng việt nam,thời kỳ đứng lên dành chính quyền giải phóng dân tộc làm chủ đất
nước.
Sự ra đời của đảng cộng sản việt nam là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân
tộc và giai cấp ở nước ta trong thời đại mới,là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác –Lênin và phong trào yêu nước và phong trào công nhân ở Việt Nam
trong những năm 20 của thế kỷ này.
Sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam “chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã
trưởng thành,đủ sức lãnh đạo cách mạng”.Đó là cái mốc đánh dấu sự chuyển biến
của giai cấp công nhân Việt Nam từ trình độ tự phát sang trình độ tự giác.Đó còn là
cái mốc đánh dấu bước ngoặt trong đại lịch sử cách mạng nước ta.Cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước ởnước ta kéo dài trong mấy thập kỷ đã được giải
quyết .Từ đây, cách mạng Việt Nam được sự lãnh đạo duy nhất của đảng cộng sản
Việt Nam một đảng Mác xít Lênin nít kiên cường,có đường lối cách mạng khoa học
và sáng tạo,đã phát triển với bước đi vững trắc,đủ sức đương đầu với mọi kẻ thù và
liên tiếp dành những thắng lợi vĩ đại , mang tầm vóc lịch sử.
Sự ra đời của đảng cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Hồ Chí Minh,
người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện đảng.
2.các cao trào cách mạng.
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa phát triển
mạnh mẽ, nhất là ở các nước Châu á. Phong trào bãi công, biểu tình ở các nước tư
bản Anh Pháp, Mỹ Đức lan rộng.
Sau khi được thành lập, thực hiện cương lĩnh của đảng trong hoàn cảnh lịch sử cụ
thể, đảng chủ trương phát động quần chúng đấu tranh đòi tự do dân chủ, cải thiện
đời sống cho nhân dân, chống địch khủng bố trắng, đòi trả tự do cho những người
yêu nước bị bắt, đòi bồi thường cho những gia đình nạn nhân và làng mạc bị tàn
phá.
Trong lời kêu gọi nhân ngày thành lập đảng, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã
nêu rõ: “Hỡi công nhân, nông dân binh lính thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp
bức bóc lột , ủng hộ đảng , đi theo đảng, gia nhập đảng, gia nhập đảng và thực hiện
10 khẩu hiệu do chính cương của đảng nêu ra, nhằm đánh đổ đế quốc pháp, bọn
phong kiến và giai cấp tư sản phản cách mạng” .
a.cao trào cách mạng 1930-1931 và xô viết nghệ tĩnh.
Tháng 9-1930, cao trào cách mạng tiếp tục phát triển lên đỉnh cao.Những khẩu
hiệu đấu tranh chính trị được kết hợp chặt chẽ với các yêu sách về kinh tế trong
hàng loạt cuộc đấu tranh khắp cả nước. ở Nghệ An, Hà Tĩnh từ cuối tháng 8 đến
đầu tháng 9-1930 là thời kì đấu tranh kịch liệt, diễn ra nhiều cuộc đấu tranh quy mô
huyện và liên huyệnvới hàng nghìn hàng vạn dân chúng tham gia. Những cuộc đấu
tranh tiêu biểu như cuộc biểu tình với quy mô lớn và quyết liệt của 3.000 nông dân
huyện nam đàn ngày 30-8-1930, của 20.000 nông dân Thanh Chương ngày 1-9-
1930, của 3.000 nông dân huyện Can Lộc ngày 7-9-1930. Phần lớn những cuộc
biểu tình này là những cuộc đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ, quần chúng phá
huyện đường, đốt giấy tờ, phá nhà giam, bẻ gông, xiềng xích, giải phóng những
người bị bắt.Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, bọn thực dân phong
kiến hoảng sợ, nhiều tên tri huyện, lý tưởng phải nộp ấn tín hoặc chạy trốn, nhiều
nơi chính quyền địch tan rã.
Ngày 18 –11 – 1930, giữa lúc cao trào cách mạng của quần chúng đã đến
đỉnh cao nhất , Xô Viết Nghệ Tĩnh ra đời, cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản
cách mạng trở nên quyết liệt,
Cùng với những điều kiện chung của cao trào cách mạng 1930-1931, Nghệ
Tĩnh còn có những đặc điểm riêng tạo nên đỉnh cao của cao trào cách mạng. Nhân
dân Nghệ Tĩnh có truyền thống cách mạng lâu đời.
Trong cao trào cách mạng 1930-1931, nhiều chi bộ của đông dương cộng
sản đảng và các tổ chức quần chúng như: nông hội, công hội,....đã phát triển, cơ sở
đảng khá mạnh, lực lượng đảng viên tương đối đông. Tổng số đảng viên của Đảng
bộ Nghệ An, Hà Tĩnh, Vinh-Bến Thuỷ những năm 1930-1931 là 2.010 người, có
399 hội viên hội phụ nữ giải phóng và 2.356 đoàn viên đoàn thanh niên cộng sản.
Dưới sự lãnh đạo của đảng các xã bộ nông thôn, bộ nông ra đời và làm
nhiệm vụ chính quyền cách mạng. Đó là hình thức chính quyền cách mạng đầu tiên
ở nước ta, được gọi là các Xô Viết.
Để đối phó với cao trào cách mạng 1930-1931,đặc biệt là đối phó vỡi Xô
Viết Nghệ Tĩnh , bọn thực dân pháp và quan lại Nam Triều đã tập trung tòan
lực.Chúng giết sạch ,đốt sạch .. nhưng nhân dân ta không chùn bước, những người
cộng sản chôn cất những đồng chí đã ngã xuống, lau sạch vết máu trên thân mình,
tiếp tục đi vào quần chúng vận động họ để xây dựng lại cơ sở. Nhiều chiến sĩ cộng
sản phải vào tù , nhưng họ đã biến nhà tù thành trường học giữ vững ý chí, hun đúc
tinh thần để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Đảng ta rút ra bài học kinh nghiệm
phải trả thù bằng xương máu để tổ chức cao trào cách mạng tiếp theo.
b. Lãnh đạo nhân dân đấu tranh khôi phục hệ thống tổ chức đảng và phong trào
cách mạng 1932-1935 .
Cuộc đấu tranh gian khổ và quyết liệt của đảng và quần chúng để giữ vững
cơ sở cách mạng trong những năm 1932-1935 đã diễn ra bằng các tổ chức và khẩu
hiệu thích hợp. Cuộc đấu tranh đó đã thể hiện một ý chí chiến đấu bất khuất. Lòng
trung thành của những chiến sĩ cộng sản trước tình hình cách mạng gặp khó khăn
tưởng chừng như không thể vượt qua nổi. Thắng lợi cơ bản có ý nghĩa quyết định là
đảng đã khôi phục được tổ chức của mình gắn bó với quần chúng nhân dân, được
nhân dân che chở. Đại hội lần thứ nhất của đảng 3-1935 đánh dấu thắng lợi cuộc
đấu tranh khôi phục lại hệ thống tổ chức Đảng từ cơ sở đến Trung Ương.
Qua cao trào này đảng ta được công nhận là một chi bộ độc lập của quốc tế
cộng sản để từ đây tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta vào các cao trào cách mạng tới.
c.Cao trào dân chủ Đông Dương 1936-1939.
Những năm đầu thập kỉ 30, trong khi nền kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa
còn ở thời kì tiêu điều. Mùa thu 1937, cuộc khủng hoảng kinh tế mới lại nổ ra. Giai
cấp tư sản thống trị ở nhiều nước không thể tiếp tục cai trị bằng chế độ đại nghị và
nền dân chủ tư sản, do đó chúng chuyển sang nền chuyên phát xít.
Chuyên phát xít là chính quyền chuyên chính độc tài, tàn bạo, dã man nhất,
hiếu chiến nhất của bọn tư bản tài chính phản động, nó xoá bỏ mọi quyền tự do của
nhân dân, chủ tư sản là đơn sơ nhất, thực hành khủng bố trắng đối với bất cứ người
nào, lực lượng chống lại nó. Bóc lột thậm tệ giai cấp công nhân và nhân dân lao
động ,đồng thời chúng điên cuồng chuẩn bị chiến tranh thế giới chia lại thị trường
và hòng tiêu diệt Liên Xô.
Cao trào đấu tranh dân chủ 1936-1939 là cao trào đấu tranh thực hiện các
nhiệm vụ trước mắt: Hoà bình, dân chủ, sinh dân. Cao trào đó đã có tính chất quần
chúng rộng rãi, tập hợp được nhiều tầng lớp, giai cấp trong nhân dân ở mọi miền tổ
quốc. Nội dung và hình thức đấu tranh của quần chúng phong phú đấu tranh ngoai
đường phố, trong nghị trường, trên báo chí, trên mặt trân tư tưởng... Cao trào mặt
trận dân chủ 1936-1939 là vận động quần chúng rộng lớn và sôi nổi của đảng chưa
từng thấy dưới thời Pháp thống trị. Đảng đã động viên và giáo dục chính trị cho
hàng triệu quần chúng, mà đông đảo là công nông trong cuộc đấu tranh chính trị
rộng khắp thành thị và nông thôn, từ nhà máy, hầm mỏ đồn điền đến các làng mạc
xa xôi ở nông thôn và miền núi. Đây là cuộc tổng diễn tập lần thứ hai cho cuộc cách
mạng tháng tám 1945 lực lượng cách mạng đẫ phát triển nhanh chóng đội ngũ cán
bộ của đảng thêm đông đảo, tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm mới: Kinh nghiẹm về
sử dụng, kết hợp các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai và bí mật, đấu tranh
kinh tế với chính trị, văn hoá tư tưởng kết hợp tuyên truyền và tổ chức đấu tranh
giành thắng lợi trong từng cuộc chiến đấu, từng trận tuyến cách mạng, tích luỹ lực
lượng để tiến lên. Cao trào đã xây dựng được đội quân chính trị to lớn cho cách
mạng, bao gồm hàng triệu quần chúng công nông và gới trí thức. Thắng lợi đã tạo
ra lực lượng mới và mặt trận mới cho cao trào cứu nước ,giải phóng dân tộc . Đảng
coi trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh cách mạng, rút ra vấn đề chiến
lược, sách lược về xây dựng đảng, về công tác vận động quần chúng, xây dựng mặt
trận thống nhất, phê bình những quan điểm chủ trương không đúng với đường lối,
chính sách của đảng, kiên quyết chống lại đướng lối chính trị của bọn tơrốtkít . Giữ
vững vai trò lãnh đạo của đảng, đội ngũ cán bộ đảng viên phát triển mạnh , đào tào
rèn luyện qua thực tiễn đấu tranh cách mạng . uy tín và ảnh hưởng của đảng đối với
quần chúng được nâng cao, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân theo đảng theo
cách mạng.
Chương II:
Đảng phát động và lãnh đạo cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945)
I.Tình hình thế giới , trong nước và khu vực.
1.tình hình thếgiới.
Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ với qui mô và cường độ rất
lớn. Nổ ra cả ở ba châu lục:Âu, Phi, á. 61 quốc gia tham gia cuộc chiến tranh với
80% số dân thế giới.
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Balan . Ngày 3-9-1939 Anh Pháp tuyên
chiến với Đức.
Cuộc chiến tranh thế giới đã gây ra thảm hoạ vô cùng to lớn cho loài người: Số
người chết là 50 triệu. Số tiền chi tiêu là 4200 tỉ USD. Tuy nhiên nó lại làm cho
tình thế cách mạng ở các nước thuộc địa mau xuất hiện , việc dành chính quyền sẽ
thuận lợi hơn, chiến tranh làm cho chủ nghĩa đế quốc suy yếu đi, là dịp cách mạng
hoá quần chúng nhân dân thế giới.
ở nước Pháp các thế lực phát xít lên nắm quyền, chúng đưa nước Pháp và
các thuộc địa của Pháp lao vào cuộc chiến tranh. Sau khi nhảy vào vòng chiến,
chính phủ Pháp thi hành hàng loạt biện pháp đàn áp lực lượng tiến bộ trong nước và
phong trào cách mạng ở các thuộc địa, như cấm tuyên truyền cộng sản, đóng cửa
các tờ báo cách mạng và tiến bộ, bắt giam hàng ngàn người cộng sản yêu nước ở
Bắc Mê, Bá Vân, Đắc Tô, Ba Tơ, Côn Đảo...
Tháng 6-1940, Pháp đầu hàng Đức. ở Đông Dương, đô đốc Đơcu được cử
làm toàn quyền thay cho Catơru. Viên toàn quyền mới thực hiện một loạt chính
sách nhằm phát xít hoá bộ máy thống trị của thực dân Pháp, vơ vét sức người sức
của Việt Nam dốc vào cuộc chiến tranh đế quốc và đối phó với phong trào cách
mạng của các dân tộc ở Đông Dương.
Trong khi đó, phát xít Nhật tăng cường sức ép với chính quyền thực dân
Pháp ở Đông Dương. Chúng đòi đóng cửa biên giới Việt Trung, đình chỉ tiếp tế cho
Tưởng Giới Thạch, được sử dụng sân bay, hải cảng ở Bắc Đông Dương...Mặc dù
thực dân Pháp chấp nhận mọi yêu sách của Nhật, cuối tháng 9-1940, quân đội Nhật
vẫn vượt biên giới vào Bắc Việt Nam. Chúng biến Việt Nam thành căn cứ quân sự
để tiến công Nam Trung Quốc và làm bàn đạp mở rộng xâm lược khu vực Đông
Nam á. Phát xít Nhật giữ nguyên bộ máy thống trị của thực dân Pháp, sử dụng nó
để vơ vét kinh tế, phục vụ nhu cầu chiến tranh và đàn áp phong trào cách mạng
Đông Dương, ổn định tình hình trong vùng cho chúng.
Trên thực tế, Việt Nam đã bị đặt dưới hai ách thống trị của Pháp.
2. tình hình trong nước và khu vực.
Khi ở pháp, các thế lực phat xít lên nắm chính quyền , chúng đưa pháp và
các thuộc địa vào cuộc chiến tranh và Việt Nam cũng bị lôi cuốn vào cuộc chiến
tranh này. Chúng thực hiện các chính sách về kinh tế , chính trị và quân sự để vơ
vét bóc lột tài nguyên nhân lực của nước ta , chúng định tiêu diệt đảng cộng sản
Đông Dương, chúng bắt thanh niên Đông Dương đi lính cho chúng. Trong thời kỳ
đó xúât hiện mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với đế quốc Pháp và tay sai,
đây là cơ sở lý luận của đảng ta quyết định điều chỉnh chiến lược cách mạng.
II.Chủ trương điều chỉnh chiến lược cách mạng của Đảng cộng sản Đông Dương.
1.Thông cáo TW của toàn đảng ra ngày 29-9-1939.
- TW chỉ thị cho các cán bộ đảng viên của đảng cộng sản đang hoạt động
hợp pháp phải mau chóng rút vào bí mật.
- Quyết định chuyển trọng tâm hoạt động của đảng đến nông thôn nhưng
vẫn phải chú trọng xây dựng, phát triển lực lượng ở thành phố.
- Khẳng định đây là thời kì giải phóng dân tộc, thời kì giành lấy chính
quyền.
2.Hội nghị TW lần thứ VI (11.1939).
Chỉ hai tháng sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ngày 6-11-1939, hội
nghị BCHTW đảng được triệu tập tại Bà Điểm ( Hóc Môn, Gia Định) do đồng chí
Nguyễn Văn Cừ- tổng bí thư của đảng chủ trì.
Đảng chủ trương phải đặt nhiêm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc lên
hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến và các nhiệm vụ dân chủ khác phải rải ra
thực hiện từng bước, phục tùng và phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc.
Đảng nhận định: Đông Dương đã bị lôi cuốn vào guồng máy chiến tranh do đế
quốc gây ra. Đặc điểm cơ bản của tình hình Đông Dương lúc này là chiến tranh đã
thúc đẩy các mâu thuẫn vốn có của xã hội thuộc địa nửa phong kiến đến mức quyết
liệt, đòi hỏi phải được giải quyết. Mâu thuẫn gay gắt nhất lúc ấy là mâu thuẫn giữa
đế quốc và các dân tộc Đông Dương. Đảng khẳng định rằng, vấn đề sống còn của
các dân tộc Đông Dương được đặt ra trước mắt thành một vấn đề khẩn cấp và hết
sức quan trọng, ”bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con
đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại
xâm vô luận da trắng hoặc da vàng để tranh lấy giải phóng dân tộc”. Và Đảng cho
rằng: “cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị gây nên bởi đế quốc đấu tranh lần này
sẽ nung nấu cách mạng Đông Dương nổ bùng và tiền đồ cách mạng Đông Dương
sẽ vinh quang rực rỡ”. Tuy “cách mạng phản đế và cách mạng giải phóng dân tộc “
cao hơn, thiệt dung hơn, song nếu không làm được cách mạng thổ địa thì cách
mạng phản đế khó thành công. Tính chất cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền
Đông Dương không thay đổi.
Đảng xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là
đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông
Dương hoàn toàn độc lập. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Đông Dương vẫn
phải bao gồm hai nội dung là chống đế quốc và chống phong kiến. Đó là hai nhiệm
vụ cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ( lúc đó gọi là cách mạng tư
sản dân quyền ) do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Cách mạng phản đế và cách mạng điền địa là hai bộ phận khăng khít, là hai cái
mấu chốt của cách mạng tư sản dân quyền, không giải quyết được cách mạng điền
địa thì không giải quyết được cách mạng phản đế. Trái lại, không giải quyết được
cách mạng phản đế thì không giải quyết được cách mạng điền địa – cái nguyên tắc
chính ấy không bao giờ thay đổi được nhưng nó phải ứng dụng một cách khéo léo
thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mạng là đánh đổ đé quốc.
Đảng nhấn mạnh : “Tất cả mọi vấn đề của cách mạng, kể cả vấn đề điền địa cũng
phải nhằm vào cái đích ấy mà giải quyết”. Đây là chuyển hướng quan trọng nhất về
chỉ đạo chiến lược.
Để tập trung lực lượng đánh đổ đế quốc, đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu
cách mạng ruộng đất mà thay bằng khẩu hiệu tịch ký ruộng đất của đế quốc Pháp và
của những địa chủ phản bội quyền lợi đân tộc, chưa đánh vào toàn bộ giai cấp địa
chủ phong kiến. Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu lập chính quyền Xô Viết công-
nông-binh thay khẩu hiệu lập chính phủ cộng hoà dân chủ. Đảng chỉ ra rằng, Mặt
trận dân chủ thích hợp với hoàn cảnh trước kia nay không còn thích hợp nữa, do đó
chủ trương lập mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay Mặt trận
dân chủ Đông Dương.
Hội nghị TW Đảng tháng 11-1939 đánh dấu sự chuyển hướng cơ bản về chỉ
đạo chiến lược và phương pháp cách mạng của Đảng. Điều đó thể hiện sự nhạy bén
về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng. Được hướng dẫn bởi tư tưởng đó,
phong trào cách mạng Việt Nam có những bước tiến mới.
3. Hội nghị TW lần thứ VII (11.1940)
Hội nghị TW lần thứ VII 11-1940, diễn ra ở Đìng Bảng, Bắc Ninh do đồng chí
Trường Chinh lúc đó là bí thư Đảng uỷ Bắc Kì đứng ra tổ chức.
- Hội nghị chỉ ra kẻ thù của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân
Pháp và phát xít Nhật (22-9-1940, Nhật Bản đã vào nước ta).
- Hội nghị đã đặt hẳn vấn đề khởi nghĩa vũ trang vào chương trình nghị sự
của cách mạng Đông Dương.
- Hội nghị quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa Nam Kì vì cả nước chưa có
thời cơ ( cuộc khởi nghia Nam Kì nổ ra ngày 23-11-1940).
- Hội nghị đã cử đồng chí Trường Chinh làm tổng bí thư lâm thời của
Đảng.
4. Hội nghị TW Đảng lần thứ VIII (5.1941).
Tháng 2-1941, đồng chí Nguyễn ái Quốc từ Trung Quốc về nước trực tiếp lãnh
đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Sau một thời gian nắm tình hình và chuẩn bị,
ngày 10-5-1941, Người triệu tập và chủ trì hội nghị Trung ương đảng tại Pắc Bó,
Cao Bằng. Sau khi phân tích tình hình thế giới và trong nước, hội nghị đã quyết
nghị những vấn đề quan trọng sau đây:
- Phải đặt quyền lợi của đân tộc lên trên quyền lợi của giai cấp, bộ phận. Lợi
ích của dân tộc và lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động là thống nhất,
nhưng lợi ích của giai cấp, các bộ phận chỉ có thể giải quyết được một khi lợi ích
của dân tộc được bảo đảm.
Đảng chỉ rõ: ”Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn đân tộc thì chẳng những toàn thể
quốc gia đân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp
đến vạn năm cũng không đòi lại đư