Lịch sử thế giới đã ghi nhận được những trận sóng thần có sức tàn phá
khủng khiếp. Gần đây nhất, vào ngày 11 tháng 03 năm 2011, một trận động
xảy ra với Mw
9.0 xảy ra ngoài khơi Tohoku, Japan. Trận động đất đã gây
ra sóng thần lan dọc bờ biển Thái Bình Dương của Nhật Bản và ít nhất 20
quốc gia, bao gồm cả bờ biển phía Tây của Bắc và Nam Mỹ. Sóng thần cao
đến 38,9 m đã đánh vào Nhật Bản chỉ vài phút sau động đất, tại một vài nơi
sóng thần tiến vào đất liền 10 km. Trận động đất và sóng thần đã gây ra nhiều
thiệt hại nghiêm trọng với 15.840 người thiệt mạng, 5.950 người bị thương và
3.642 người mất tích. Trước đó là trận sóng thần xảy ra vào ngày 26 tháng 12
năm 2004, một trận động đất lớn thứ tư kể từ năm 1900 đã xảy ra ngoài khơi
đảo Sumatra, Indonesia. Trận động đất được đánh giá là có cường độ hơn 9,0
độ Rích te đã gây ra một dải đứt gẫy dài tới 1200km. Nó tạo ra sóng thần có
độ cao hơn 12m tại nhiều khu vực. Sóng thần đã giết hại hơn 283.000 người ở
các vùng bờ Đại Tây Dương và làm cho hơn 1.100.000 người mất nhà cửa.
Những thiệt hại do trận sóng thần này gây ra phải mất nhiều năm mới có thể
khắc phục được.
Do khả năng tàn phá rất nghiêm trọng của sóng thần, từ lâu đã có rất
nhiều nghiên cứu trên thế giới về sự hình thành và lan truyền của sóng thần.
Các nghiên cứu đều tập trung vào mục đích xây dựng một hệ thống dự báo và
cảnh báo sóng thần có thể cho phép tính toán dự báo và đưa ra bản tin cảnh
báo sóng thần với thời gian ngày càng rút ngắn.
68 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2260 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá độ rủi ro sóng thần khu vực đô thị thành phố Nha Trang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
oo
PHẠM THẾ TRUYỀN
ĐÁNH GIÁ ĐỘ RỦI RO SÓNG THẦN
KHU VỰC ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ NHA TRANG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
PHẠM THẾ TRUYỀN
ĐÁNH GIÁ ĐỘ RỦI RO SÓNG THẦN
KHU VỰC ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ NHA TRANG
Chuyên ngành: Hải dương học
Mã số: 60.44.97
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN HỒNG PHƯƠNG
Hà Nội - 2012
i
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC.................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................... ii
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT ĐỘ NGUY HIỂM SÓNG THẦN TRONG KHU
VỰC BIỂN ĐÔNG ..................................................................................... 3
1.1. Một số khái niệm cơ bản về sóng thần ................................................ 3
1.2. Tình hình nghiên cứu sóng thần ở Việt Nam ...................................... 7
1.3. Độ nguy hiểm sóng thần trong khu vực biển Đông .......................... 10
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ QUY TRÌNH THỰC HIỆN ........... 20
2.1. Mức độ tổn thương, độ nguy hiểm và độ rủi ro sóng thần .............. 20
2.2. Quy trình đánh giá độ rủi ro do sóng thần......................................... 21
2.3. Cơ sở phương pháp luận đánh giá mức độ rủi ro do sóng thần ....... 23
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ ĐỘ RỦI RO DO SÓNG THẦN GÂY RA ĐỐI
VỚI KHU VỰC ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ NHA TRANG ........................ 32
3.1 Khu vực nghiên cứu ........................................................................... 32
3.2 Xây dựng cơ sở dữ liệu tổng hợp phục vụ đánh giá rủi ro sóng thần.33
3.3 Xây dựng các công cụ tính toán trên môi trường GIS. ...................... 36
3.4 Đánh giá độ rủi ro sóng thần khu vực đô thị thành phố Nha Trang 37
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 61
ii
Lêi c¶m ¬n
§Ó hoμn thμnh kho¸ luËn nμy, t«i xin göi lêi c¶m ¬n ch©n thμnh vμ
s©u s¾c nhÊt tíi PGS.TS. NguyÔn Hång Ph•¬ng –ViÖn VËt lý §Þa CÇu –
ng•êi ®· ®Þnh h•íng, trùc tiÕp h•íng dÉn vμ tËn t×nh gióp ®ì tôi vÒ nhiÒu
mÆt. T«i còng xin göi lêi c¶m ¬n tíi GS. TS Alexis Drogoul ng•êi ®· t¹o
®iÒu kiÖn cho t«i thùc hiÖn chuyÕn kh¶o thùc ®Þa vÒ nhµ cöa t¹i khu vùc
thµnh phè Nha Trang, cïng c¸c thÇy c« trong Bé m«n H¶i Dư¬ng häc -
Khoa KTTVHDH ®· cã nh÷ng chØ dÉn vμ gi¶i ®¸p quý b¸u ®Ó t«i cã thÓ
hoμn thμnh kho¸ luËn.
Trong qu¸ tr×nh thùc hiÖn, luËn v¨n ch¾c ch¾n kh«ng khái cã nhiÒu
thiÕu sãt, v× vËy t«i rÊt mong nhËn ®îc sù gãp ý cña thÇy c« vμ c¸c b¹n ®ång
nghiÖp ®Ó luËn v¨n cã thÓ hoμn thiÖn h¬n.
T«i xin ch©n thμnh c¶m ¬n !
Hμ Néi, ngμy th¸ng n¨m 2012
Häc viªn
Ph¹m ThÕ TruyÒn
1
MỞ ĐẦU
Lịch sử thế giới đã ghi nhận được những trận sóng thần có sức tàn phá
khủng khiếp. Gần đây nhất, vào ngày 11 tháng 03 năm 2011, một trận động
xảy ra với Mw 9.0 xảy ra ngoài khơi Tohoku, Japan. Trận động đất đã gây
ra sóng thần lan dọc bờ biển Thái Bình Dương của Nhật Bản và ít nhất 20
quốc gia, bao gồm cả bờ biển phía Tây của Bắc và Nam Mỹ. Sóng thần cao
đến 38,9 m đã đánh vào Nhật Bản chỉ vài phút sau động đất, tại một vài nơi
sóng thần tiến vào đất liền 10 km. Trận động đất và sóng thần đã gây ra nhiều
thiệt hại nghiêm trọng với 15.840 người thiệt mạng, 5.950 người bị thương và
3.642 người mất tích. Trước đó là trận sóng thần xảy ra vào ngày 26 tháng 12
năm 2004, một trận động đất lớn thứ tư kể từ năm 1900 đã xảy ra ngoài khơi
đảo Sumatra, Indonesia. Trận động đất được đánh giá là có cường độ hơn 9,0
độ Rích te đã gây ra một dải đứt gẫy dài tới 1200km. Nó tạo ra sóng thần có
độ cao hơn 12m tại nhiều khu vực. Sóng thần đã giết hại hơn 283.000 người ở
các vùng bờ Đại Tây Dương và làm cho hơn 1.100.000 người mất nhà cửa.
Những thiệt hại do trận sóng thần này gây ra phải mất nhiều năm mới có thể
khắc phục được.
Do khả năng tàn phá rất nghiêm trọng của sóng thần, từ lâu đã có rất
nhiều nghiên cứu trên thế giới về sự hình thành và lan truyền của sóng thần.
Các nghiên cứu đều tập trung vào mục đích xây dựng một hệ thống dự báo và
cảnh báo sóng thần có thể cho phép tính toán dự báo và đưa ra bản tin cảnh
báo sóng thần với thời gian ngày càng rút ngắn.
Bên cạnh công tác cảnh báo sóng thần, việc nghiên cứu đánh giá độ rủi
ro sóng thần để từ đó có chiến lược quy hoạch, xây dựng các phương án ứng
phó kịp thời với thiên tai sóng thần, nhằm bảo vệ các thành phố ven biển là
nhiệm vụ cấp thiết.Trong bối cảnh đó luận văn khoa học “Đánh giá độ rủi ro
sóng thần khu vực đô thị thành phố Nha Trang” được thực hiện với mục đích
2
đánh giá thiệt hại về người và nhà cửa cho khu vực thành phố Nha Trang,
nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quan về nguy cơ tổn thương, mức độ rủi ro do
sóng thần gây ra đối với khu vực đô thị thành phố Nha Trang.
Việc đánh giá rủi ro sóng thần đối với một khu vực đô thị là một quy
trình phức tạp bao gồm nhiều bước tiến hành, từ việc thu thập số liệu, xây
dựng các công cụ tính toán đến việc áp dụng một phương pháp luận chuẩn
hóa cho khu vực nghiên cứu. Trong luận văn này, những đóng góp đáng kể
nhất của học viên là việc tham gia vào công tác thực địa, xây dựng cơ sở dữ
liệu và các công cụ tính toán. Các kết quả nghiên cứu của học viên tại thời
điểm này chủ yếu tập trung vào việc đánh giá mức độ tổn thương do sóng
thần gây ra đối với khu vực đô thị thành phố Nha Trang.
Cấu trúc của luận văn bao gồm:
Mở Đầu
Chương 1: Khái Quát độ nguy hiểm sóng thần trong khu vực Biển Đông
Chương 2: Phương pháp luận và quy trình thực hiện
Chương 3: Đánh giá độ rủi ro sóng thần gây ra đối với khu vực đô thị
thành phố Nha Trang
Kết Luận
Tài liệu tham khảo
3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT ĐỘ NGUY HIỂM SÓNG THẦN TRONG
KHU VỰC BIỂN ĐÔNG
Trong chương này, một số khái niệm cơ bản liên quan tới sóng thần sẽ
được giới thiệu trong phần đầu. Trong phần tiếp theo sẽ điểm qua tình hình
nghiên cứu sóng thần ở Việt Nam từ trước đến nay, trên cơ sở đó đưa ra một
bức tranh khái quát về mức độ nguy hiểm sóng thần trên khu vực Biển Đông
và các vùng biển lân cận.
1.1 Một số khái niêm cơ bản về sóng thần
Sóng thần là gì
Tên gọi quốc tế của sóng thần là Tsunami. Từ “Tsunami” có xuất xứ từ
tiếng Nhật, trong đó “tsu” nghĩa là “cảng” và “nami” nghĩa là “sóng”. Sóng
thần là một chuỗi các đợt sóng lớn có bước sóng dài được sinh ra do các biến
động địa chất mạnh mẽ xảy ra ở đáy biển và đại dương tại gần bờ hoặc ngoài
khơi. Khi sự di chuyển đột ngột của các cột nước lớn xảy ra, hoặc đáy biển
đột ngột nâng lên hay hạ xuống do tác động của động đất, sóng thần được
hình thành dưới tác động của trọng lực. Các đợt sóng nhanh chóng lan truyền
trong môi trường nước và trở nên vô cùng nguy hiểm với khả năng tàn phá
lớn khi chúng tiến vào bờ biển nông.
Hình 1.1. Vận tốc lan truyền của sóng thần.
4
Sóng thần có đặc điểm vật lý rất khác biệt so với sóng triều. Sóng triều
là những dao động mang tính chu kỳ, liên quan đến sự lên, xuống của thủy
triều sinh ra bởi lực hấp dẫn giữa Mặt Trời, Mặt Trăng và Trái Đất. Sóng mà
chúng ta nhìn thấy ở biển được hình thành do gió thổi trên mặt biển. Độ mạnh
của sóng tùy thuộc vào độ mạnh của gió và khoảng cách mà gió thổi. Thông
thường bước sóng khoảng từ vài chục xăngtimét và có thể đến một vài chục
mét. Tốc độ dịch chuyển qua đại dương từ vài km/giờ đến 100 km/giờ.
Nguyên nhân gây ra sóng thần
Hầu hết các đợt sóng thần có sức phá hủy lớn đều được hình thành từ
các trận động đất lớn và nông (chấn tâm gần mặt đất). Các trận động đất này
được sinh ra từ các đứt gãy hoạt động ngay trên bề mặt đáy biển, tại các vùng
có hoạt động kiến tạo dọc theo ranh giới các mảng kiến tạo. Khi các mảng
kiến tạo va chạm vào nhau thì chúng có thể làm nghiêng, gây sụp hay dịch
chuyển cả một diện tích lớn của thềm đại dương từ một vài kilômét đến hàng
nghìn kilômét hoặc nhiều hơn nữa. Sự di chuyển đột ngột theo phương thẳng
đứng của một khối đất đá trên diện tích lớn khiến bề mặt đáy biển bị thay đổi,
kéo theo sự di chuyển của khối nước nằm trên đó và tạo nên sóng thần. Các
đợt sóng này có thể di chuyển rất xa từ vị trí chúng được hình thành, đồng
thời reo rắc sự phá hủy trên quãng đường mà chúng đi qua.
Mặc dù hiếm khi xảy ra, nhưng các đợt phun trào núi lửa mạnh cũng
có thể gây ra sự xáo trộn các khối nước trong lòng đại dương và tạo ra các đợt
sóng thần trong khu vực đó. Trong quá trình này, sóng thần có thể được tạo ra
do sự di chuyển đột ngột của nước khi núi lửa phun nổ, hoặc do trượt lở sườn
núi, hoặc magma núi lửa đột ngột phun lên chiếm thể tích của nước biển và
hoặc là do bể magma bị sụt lún.
Dấu hiệu xuất hiện sóng thần
5
Động đất là một dấu hiệu cảnh báo sóng thần của tự nhiên. Nếu bạn
đang ở vùng bãi biển và cảm thấy nền đất rung lắc mạnh đến mức bạn không
còn đứng vững được, thì có khả năng đã xảy ra một trận động đất gây sóng
thần. Trước khi sóng thần ập đến thường có dấu hiệu là nước biển rút đi rất
nhanh để lộ cả những tảng đá và cá nằm trơ trên đáy biển. Khi sóng thần ập
vào bờ, bạn sẽ nghe thấy một tiếng gầm rú giống như có một chuyến tàu hỏa
đang đến gần.
Thiệt hại do sóng thần
Năm 1960, tại Chilê, trận động đất lớn với cường độ 9,5 độ Richter làm
cho một vùng rộng trên 1000 km bị biến dạng, từ đó sinh ra một đợt sóng thần
rất lớn. Các ngọn sóng của chúng đã phá hủy các vùng đất không những ở
Chilê mà cả những nơi khác rất xa như Hawaii, Nhật Bản và các khu vực
khác trên Thái Bình Dương. Cần lưu ý rằng, không phải tất cả các trận động
đất đều dẫn đến sóng thần. Thông thường, chỉ có các trận động đất lớn hơn
6,5 độ Richter mới có khả năng tạo ra sóng thần.
Tại Ấn độ dương, vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, một trận động đất
lớn thứ tư tính từ năm 1900 đã xảy ra ngoài khơi đảo Sumatra, Indonesia.
Trận động đất được đánh giá là có cường độ 9,0 độ Rích te đã gây ra một dải
đứt gẫy dài tới 1200 km. Nó tạo ra sóng thần có độ cao hơn 12m. Sóng thần
đã giết hại hơn 283.000 người ở các vùng bờ Ấn độ Dương và làm cho hơn
1.100.000 người mất nhà cửa. Những thiệt hại do trận sóng thần này gây ra
phải mất nhiều năm mới có thể khắc phục được.
Gần đây nhất, vào ngày 11 tháng 3 năm 2011, tại vùng biển phía đông
của Nhật bản lại xảy ra một trận động đất mạnh 9,0 độ làm phát sinh sóng
thần lan dọc bờ biển Thái Bình Dương của Nhật Bản và ít nhất 20 quốc gia,
bao gồm cả bờ biển phía Tây của Bắc và Nam Mỹ. Sóng thần cao đến 37,9 m
đã đánh vào Nhật Bản chỉ vài phút sau động đất, tại một vài nơi sóng thần tiến
6
vào đất liền 10 km. Cho đến nay, số liệu được chính thức xác nhận cho thấy
có 14.133 người chết, 5.304 người bị thương và 13.346 người mất tích tại 18
tỉnh của Nhật Bản và hơn 125.000 công trình nhà ở bị hư hại hoặc phá hủy
hoàn toàn do sóng thần. Trận động đất và sóng thần đã gây ra nhiều thiệt hại
nghiêm trọng tại quốc gia này, bao gồm những hư hỏng nặng nề về đường bộ
và đường sắt cũng như gây cháy nổ tại nhiều khu vực, kèm theo một con đập
bị vỡ. Khoảng 4,4 triệu hộ gia đình rơi vào tình trạng mất điện và 1,5 triệu hộ
bị mất nước. Nhiều nhà máy phát điện đã ngừng hoạt động, và ít nhất 3 vụ nổ
lò phản ứng do rò rỉ khí hydro đã xảy ra tại các lò phản ứng khi hệ thống làm
mát bị hỏng hoàn toàn.
Một trong những trận sóng thần lớn nhất được ghi lại là vào ngày
26/8/1883 sau vụ nổ lớn và sụt lún của núi lửa Krakatau ở Indonesia. Vụ nổ
đã tạo ra cơn sóng thần có độ cao đến hơn 40 m, phá hủy nhiều thị trấn và
ngôi làng ven biển dọc theo eo biển Sunda của cả hòn đảo Java và Sumatra,
khiến số người thiệt mạng lên tới 36.417 người. Ngoài ra, còn có các dẫn
chứng cho rằng núi lửa ở Santorin trong vùng biển Aegean phun nổ vào năm
1490 trước Công Nguyên là nguyên nhân của sóng thần đã nhấn chìm toàn bộ
nền văn minh Minoan, Hy Lạp.
7
Hình 1.2- Sóng thần hình thành do động đất ở các đới hút chìm
Hình 1.3- Sóng thần hình thành do trượt lở đất
8
Hình 1.4. Thiệt hại do trận động đất gây sóng thần 9,0 độ gây ra tại Nhật
Bản ngày 11 tháng 3 năm 2011.
1.2. Tình hình nghiên cứu sóng thần ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong khi việc nghiên cứu động đất đã được bắt đầu từ nửa
thế kỷ trước và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng nghiên cứu về
sóng thần vẫn còn ở một mức độ rất hạn chế. Trên thực tế, sóng thần trong
một thời gian dài không được coi là thiên tai nguy hiểm nhất ở Việt nam so
với những thiên tai khác như bão, lụt, lũ quét, v.v… Cho đến nay, chưa có tài
liệu chính thức nào được công bố về thiệt hại do sóng thần tại Việt Nam, và
mặc dù có nhiều dấu hiệu cho thấy sóng thần đã từng gây thiệt hại cho cộng
đồng cư dân ven biển miền Trung Việt Nam trong quá khứ, song tất cả những
bằng chứng này chưa bao giờ được nghiên cứu đầy đủ nên chúng vẫn chỉ
được coi như là những giả thuyết cần chứng minh.
9
Sau thảm họa động đất - sóng thần Ấn Độ Dương ngày 26 tháng 12 năm
2004, chính phủ Việt nam đã có những bước đột phá trong việc triển khai các
kế hoạch ứng phó với hiểm hoạ thiên nhiên này, trong đó có việc ban hành
Quy chế của Thủ tướng Chính phủ về báo tin động đất, cảnh báo sóng thần
(06/11/2006) và Quy chế của Thủ tướng Chính phủ về phòng chống động đất
– sóng thần (29/05/2007). Trung tâm Báo tin động đất và Cảnh báo sóng thần
thuộc Viện Vật lý Địa cầu, Viện Khoa học và Công nghệ Việt nam được
thành lập ngày 4 tháng 9 năm 2007 là cơ quan duy nhất được chính phủ giao
trách nhiệm về việc báo tin động đất và cảnh báo sóng thần tại Việt Nam.
Chính trong thời gian này, hàng loạt đề tài, dự án nghiên cứu về sóng thần
trên khu vực Biển Đông đã được triển khai thực hiện ở Việt Nam. Điển hình
nhất có thể kể đến các đề tài, dự án sau:
1) “Nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm động đất và sóng thần vùng ven
biển Việt Nam, đề xuất các biện pháp cảnh báo và phòng tránh”. Chủ
nhiệm: GS.TS. Nguyễn Đình Xuyên, chủ trì: Viện Vật lý Địa cầu. Đề
tài cấp Viện KH&CN Việt Nam (2005-2006).
2) “Đánh giá độ nguy hiểm sóng thần và khả năng ứng phó của Việt
Nam”. Đề tài Hợp tác quốc tế giữa GNS (New Zealand) và Viện Vật lý
địa cầu (Việt Nam), 2007 -2008.
3) “Quy trình công nghệ đánh giá độ nguy hiểm sóng thần và cảnh báo
nguy cơ sóng thần vùng ven biển Việt Nam (phù hợp yêu cầu hệ thống
cảnh báo khu vực)”. Chủ nhiệm: TS. Trần Thị Mỹ Thành, chủ trì: Viện
Vật lý Địa cầu. Đề tài cấp Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam,
2007-2008.
4) “Xây dựng tập bản đồ cảnh báo nguy cơ sóng thần cho các vùng bờ
biển Việt Nam”. Chủ nhiệm: PGS.TS. Vũ Thanh Ca, chủ trì: Viện
10
nghiên cứu khí tượng thủy văn và môi trường. Dự án cấp Bộ Tài
nguyên Môi trường (2006-2008).
5) Dự án hợp tác Việt- Pháp “Hệ thống hỗ trợ ra quyết định không gian
tổng hợp phục vụ cảnh báo đô thị” (ISSUE), đồng chủ nhiệm PGS.TS
Nguyễn Hồng Phương – GS. TS Alexis Drogoul, 2009.
6) “Nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm động đất và sóng thần ở vùng biển
và hải đảo Việt Nam và đề xuất các giải pháp giảm nhẹ hậu quả”. Chủ
nhiệm: GS.TS. Bùi Công Quế, chủ trì: Viện Vật lý Địa cầu. Đề tài độc
lập cấp Nhà nước (2008-2010).
7) “Nghiªn cøu ®¸nh gi¸ ®é nguy hiÓm ®éng ®Êt vµ sãng thÇn tại khu vực
Ninh thuận và lân cận phục vụ công tác lựa chọn vị trí xây dựng nhà
máy điện hạt nhân”. Chủ nhiệm: PGS.TS. Nguyễn Hồng Phương, chủ
trì: Viện Vật lý Địa cầu. Đề tài độc lập cấp Nhà nước (2012-2013)
8) “Ứng dụng lưới và đám mây điện toán để tính sẵn các kịch bản lan
truyền sóng thần có thể xảy ra tại khu vực Biển Đông nhằm phục vụ
công tác cảnh báo”. Chủ nhiệm: TS. Phạm Thanh Giang, chủ trì: Viện
Công nghệ Thông tin. Đề tài cấp Viện Khoa học và công nghệ Việt
Nam, 2012-2013.
Kết quả của các công trình nghiên cứu về sóng thần ở Việt Nam về cơ
bản đã dựng lên một bức tranh toàn cảnh về độ nguy hiểm sóng thần trên khu
vực Biển Đông và các vùng biển lân cận, vạch ra ranh giới của một số vùng
nguồn động đất có thể gây ra sóng thần có ảnh hưởng trực tiếp tới vùng bờ
biển Việt Nam. Đặc biệt, tác động của sóng thần được định lượng bằng kết
quả của 25 kịch bản sóng thần tính sẵn, trong đó đa số các kịch bản được tính
cho vùng nguồn máng biển sâu Manila. Dưới đây sẽ tổng hợp chi tiết một số
kết quả nghiên cứu từ các đề tài nêu trên để khái quát về độ nguy hiểm sóng
thần trên khu vực Biển Đông.
11
1.3. Độ nguy hiểm sóng thần trong khu vực biển Đông
Trªn c¬ së b¶n ®å kiÕn t¹o §«ng Nam ¸ (H×nh 1.5), có thể nhận thấy
vị trí khá đặc biệt của bờ biển Việt Nam. Do Biển Đông Việt Nam bị bao bọc
bởi lục địa Trung quốc về phía bắc, hệ thống cung đảo dày đặc của Thái lan
và Malayxia về phía tây nam, của Inđônêxia và Malayxia về phía nam và
quần đảo Philíppin về phía đông, bờ biển Việt Nam sẽ chỉ phải chịu ảnh
hưởng đáng kể nhất của những trận sóng thần được phát sinh bên trong khu
vực Biển Đông.
Như đã nói ở trên, tuyệt đại đa số các trận sóng thần được hình thành ro
động đất mạnh xảy ra trên biển. Trên hình 1.6 minh họa bản đồ địa chấn kiến
tạo khu vực biển đông và lân cận. Từ bản đồ này có thể thấy rất rõ vùng bờ
biển Việt Nam có thể bị đe dọa từ các trận sóng thần được phát sinh từ hai
nguồn nguy hiểm nhất, bao gồm nguồn gần (tiêu biểu nhất là hệ thống đứt gãy
nằm trên thềm lục địa Việt Nam) và nguồn xa (tiêu biểu nhất là vùng siêu hút
chìm Manila).
12
Hình 1.5. Bản đồ kiến tạo khu vực biển Đông Nam Á [10]
13
Hình 1.6. Bản đồ địa chấn kiến tạo lãnh thổ Việt Nam
và khu vực Biển Đông [3].
Các kết quả nghiên cứu gần đây nhất cũng cho thấy, trong khu vực Biển
Đông, các yếu tố kiến tạo địa động lực có khả năng lớn nhất gây ra sóng thần
tác động tới bờ biển Việt nam bao gồm: 1) đới hút chìm Manila, 2) đới đứt
gẫy Tây Biển Đông, 3) đới đứt gẫy thềm lục địa Bắc Biển Đông và 4) đới đứt
gẫy Tây bắc Borneo-Palaoan.
Đới hút chìm Manila
Đới hút chìm Manila có tổng chiều dài từ bắc xuống nam trên 1150 km.
Đới này gồm một vài đoạn máng biển chạy gấp khúc dọc theo bờ tây quần
đảo Philíppin từ vĩ độ 20 độ Bắc xuống vĩ độ 12 độ Bắc. Máng biển Manila
14
tạo nên ranh giới mảng hội tụ giữa địa mảng Biển Philíppin và mảng Sunđa
chạy từ nam Luzon tới tây nam Đài Loan. Dọc theo đới hút chìm Manila đã
ghi nhận được nhiều trận động đất mạnh có magnitude lên đến 8,2 độ Rích
ter. Trong khoảng thời gian từ năm 1589 đến năm 2005, trên đới hút chìm
máng biển Manila đã xẩy ra ít nhất 6 trận động đất làm phát sinh sóng thần,
gây nên những thiệt hại về người và của đáng kể [5]. Các trận động đất gây
sóng thần quan trọng nhất trong đới đứt gãy này được liệt kê dưới đây:
Trận ngoài khơi Tây Luzon 1677 với Ms=7.3 gây sóng thần cao khoảng
1 mét;
Trận động đất xẩy ra ngày 6/5/1924 với Ms=7.0, gây sóng thần có độ
cao hơn 2 mét tại bờ tây Philíppin;
Trận động đất xẩy ra ngày 14/2/1934 với Ms =7.6, gây sóng thần có độ
cao từ 2 đến 4 mét tại bờ tây Philíppin;
Trận động đất xẩy ra ngày 12/12/1999 với Ms=6.8, gây sóng thần có độ
cao từ 1 đến 4 mét tại bờ tây Philíppin;
Trận động đất xẩy ra ngày 9/9/1828 với Ms=6.6 gây sóng thần có độ
cao từ 1 đến 2 mét tại bờ tây Philíppin;
Trận động đất xẩy ra ngày 3/6/1863 với Ms=6.5, gây sóng thần có độ
cao từ 1 đến 2 mét tại thủ đô Manila.
Đới đứt gẫy Tây Biển Đông
Đới đứt gẫy này (Hình 1.5) bắt đầu từ chạc ba đứt gẫy phía nam đảo
Hải Nam, kéo xuống phía nam dọc theo sườn lục địa phía đông Miền Trung
Việt Nam. Chiều dài đới đứt gẫy khoảng 550 km tính đến đới trượt Tuy Hòa.
Tuy nhiên các biểu hiện đứt gẫy này còn tiếp tục ở phía nam theo phương á
kinh tuyến với chiều dài có thể đạt tới 700km. Đây là đứt gẫy sâu đóng va