Chương trình “Ba giảm ba tăng” được BộNông nghiệp&PTNT phát động vào
năm 2002 đểgiảm bớt tình trạng nông dân sửdụng quá nhiều giống, phân, thuốc hóa
học trong canh tác lúa, dễgây ra dịch hại trên đồng ruộng. Đây là một chương trình
khuyến nông với các hoạt động chủyếu là tập huấn ngắn hạn và xây dựng mô hình
điểm đểnhân rộng trên địa bàn. Tỉnh An Giang đã triển khai Chương trình “Ba giảm
ba tăng” sớm từnăm 2002 và đã đạt nhiều thành quả đáng kể. Mục tiêu là đến năm
2010, có 94% diện tích trồng lúa trong Tỉnh áp dụng kỹthuật “Ba giảm ba tăng”
Tập huấn “Ba giảm ba tăng” thuộc loại dịch vụcông, chủyếu do cơquan nhà
nước thực hiện. Các lớp tập huấn được tổchức theo dạng ngắn hạn có kết hợp thực
hành tại chỗvà tham gia của nông dân, mỗi lớp có từ20-30 học viên. Học viên là nông
dân thuộc nhiều lứa tuổi, trình độhọc vấn, gia cảnh khác nhau. Hiệu quảthật sựcủa
lớp học là nông dân tâm đắc, hài lòng vềchất lượng tập huấn đểmạnh dạn áp dụng trên
ruộng lúa của mình và làm nòng cốt mởrộng diện tích áp dụng “Ba giảm ba tăng” trên
địa bàn. Do đó, nghiên cứu sựhài lòng của nông dân vềchất lượng tập huấn “Ba giảm
ba tăng” rất cần thiết cho việc tiếp tục đẩy mạnh Chương trình nầy ởAn Giang trong
thời gian tới.
68 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3055 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá sự hài lòng của nông dân đối với chất lượng tập huấn Ba giảm ba tăng ở An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1 - Đặt vấn đề
Chương trình “Ba giảm ba tăng” được Bộ Nông nghiệp&PTNT phát động vào
năm 2002 để giảm bớt tình trạng nông dân sử dụng quá nhiều giống, phân, thuốc hóa
học trong canh tác lúa, dễ gây ra dịch hại trên đồng ruộng. Đây là một chương trình
khuyến nông với các hoạt động chủ yếu là tập huấn ngắn hạn và xây dựng mô hình
điểm để nhân rộng trên địa bàn. Tỉnh An Giang đã triển khai Chương trình “Ba giảm
ba tăng” sớm từ năm 2002 và đã đạt nhiều thành quả đáng kể. Mục tiêu là đến năm
2010, có 94% diện tích trồng lúa trong Tỉnh áp dụng kỹ thuật “Ba giảm ba tăng”
Tập huấn “Ba giảm ba tăng” thuộc loại dịch vụ công, chủ yếu do cơ quan nhà
nước thực hiện. Các lớp tập huấn được tổ chức theo dạng ngắn hạn có kết hợp thực
hành tại chỗ và tham gia của nông dân, mỗi lớp có từ 20-30 học viên. Học viên là nông
dân thuộc nhiều lứa tuổi, trình độ học vấn, gia cảnh khác nhau. Hiệu quả thật sự của
lớp học là nông dân tâm đắc, hài lòng về chất lượng tập huấn để mạnh dạn áp dụng trên
ruộng lúa của mình và làm nòng cốt mở rộng diện tích áp dụng “Ba giảm ba tăng” trên
địa bàn. Do đó, nghiên cứu sự hài lòng của nông dân về chất lượng tập huấn “Ba giảm
ba tăng” rất cần thiết cho việc tiếp tục đẩy mạnh Chương trình nầy ở An Giang trong
thời gian tới.
1.2 -Mục tiêu nghiên cứu
• Đánh giá sự hài lòng của nông dân đối với chất lượng tập huấn “Ba giảm
ba tăng” ở An Giang.
• Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của nông dân về chất
lượng tập huấn “Ba giảm ba tăng”.
• Đề xuất giải pháp nâng cao sự hài lòng của nông dân về chất lượng tập
huấn “Ba giảm ba tăng” trong thời gian tới.
2
1.3 - Phương pháp nghiên cứu
1.3.1-Phương pháp nghiên cứu
- Xây dựng thang đo đơn hướng để đánh giá sự hài lòng, kiểm tra độ tin cậy
bằng hệ số Cronbach Alpha, kiểm tra tính đơn hướng của thang đo bằng phân tích nhân
tố (Principal Component Factor Analysis).
- Áp dụng Thang đo chất lượng dịch vụ SERVPERF, là thang đo đa hướng với 5
thành phần cơ bản để đánh giá chất lượng tập huấn “Ba giảm ba tăng”; kiểm tra độ tin
cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach Alpha , xác định lại các thành phần trong thang
đo bằng phân tích nhân tố .
- Phân tích phương sai để xem xét khác biệt về hài lòng theo các biến nhân khẩu
học của học viên.
- Phân tích hồi qui sự hài lòng theo các thành phần chất lượng dịch vụ để xác
định các nhân tố có ảnh hưởng quan trọng đến sự hài lòng.
- Từ kết quả phân tích hồi qui và phân tích phương sai, đề xuất giải pháp nâng
cao sự hài lòng của nông dân về chất lượng tập huấn “Ba giảm ba tăng”.
1.3.2- Cơ sở dữ liệu
1.3.2.1- Dữ liệu thứ cấp. Các báo cáo về tập huấn “Ba giảm ba tăng” của Chi
cục Bảo vệ thực vật và các tài liệu thống kê có liên quan.
1.3.2.2- Dữ liệu sơ cấp.
Thiết kế thu thập dữ liệu. Thảo luận với nhóm chuyên gia để đặt câu hỏi phỏng
vấn, phỏng vấn thử, điều chỉnh bảng câu hỏi và tiến hành phỏng vấn. Trong bảng câu
hỏi chính thức; Thang đo hài lòng có 3 mục hỏi, Thang đo chất lượng dịch vụ có 22
mục hỏi; cho điểm theo thang điểm Likert từ 1 đến 5 (Phụ lục 1).
Lấy mẫu.Chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng, số mẫu lấy ở từng huyện tỉ lệ với số
lớp tập huấn “Ba giảm ba tăng” đã tổ chức từ năm 2002-2006 ở tất cả 11 huyện trong
tỉnh An Giang (Bảng 1.1).
3
Bảng 1.1 Phân bổ mẫu
STT Huyện, thị xã, thành phố Số lớp Số mẫu
1 Long Xuyên 45 11
2 Thoại Sơn 91 23
3 Tri Tôn 49 12
4 Tịnh Biên 65 16
5 Châu Đốc 40 10
6 Châu Phú 97 24
7 Châu Thành 128 32
8 Chợ Mới 132 33
9 Phú Tân 152 38
10 Tân Châu 70 18
11 An Phú 70 18
Cộng 939 235
(Nguồn: Báo cáo sơ kết Chương trình “Ba giảm ba tăng” từ năm 2002-2006,
Chi cục Bảo vệ thực vật An Giang)
Thông thường thì số quan sát ít nhất phải bằng 4 hay 5 lần số biến trong phân
tích nhân tố (Hòang Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc-2005). Thang đo chất lượng
tập huấn có 22 mục hỏi được đưa vào phân tích nhân tố nên yêu cầu cỡ mẫu nhỏ nhất
là 110. Vậy cỡ mẫu 235 là đạt yêu cầu nghiên cứu.
Do học viên là nông dân, cách phỏng vấn là mời nông dân họp nhóm để phổ
biến mục đích nghiên cứu, phát bảng câu hỏi, hướng dẫn cách cho điểm trả lời và thu
bảng trả lời tại chỗ, mỗi nhóm từ 10-20 người. Để khách quan, do giảng viên là cán bộ
trạm bảo vệ thực vật huyện nên người phỏng vấn là 3 cán bộ Chi cục Bảo vệ thực vật
tỉnh. Các cán bộ nầy được cung cấp đề cương nghiên cứu và hướng dẫn kỷ lưỡng về
cách lấy mẫu. Số mẫu thu thập đạt yêu cầu là 235.
4
1.3.3- Phân tích dữ liệu
Dữ liệu được xử lý bằng phần mền SPSS13.0. Sau khi được mã hóa và làm
sạch, số liệu sẽ qua các phân tích sau: thống kê mô tả, đánh giá độ tin cậy của các thang
đo, phân tích nhân tố, phân tích phương sai và phân tích hồi qui.
1.4- Cấu trúc của luận văn
Luận văn được sắp xếp thành 5 chương.
Chương 1 giới thiệu cách đặt vấn đề, mục tiêu nghiên cứu, phương pháp nghiên
cứu. Phần đặt vấn đề nêu lên sự cần thiết phải nghiên cứu sự hài lòng của nông dân về
chất lượng tập huấn “Ba giảm ba tăng”. Từ đó, đề ra mục tiêu nghiên cứu chủ yếu là :
Đánh giá sự hài lòng của nông dân, các nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến sự hài lòng
và đề xuất giải pháp. Để đạt mục tiêu đề ra, phương pháp nghiên cứu là xây dựng thang
đo sự hài lòng, thang đo chất lượng dịch vụ; phân tích phương sai, phân tích hồi qui.
Lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng, cỡ mẫu đạt yêu cầu nghiên cứu.
Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu. Cơ sở lý thuyết gồm
các mô hình nghiên cứu về sự hài lòng, về thang đo chất lượng dịch vụ SERVQUAL
và biến thể của nó là SRVPERF, quan hệ của chất lượng dịch vụ và sự hài lòng. Trên
cơ sở đó, xây dựng mô hình nghiên cứu của đề tài là quan hệ của các thành phần chất
lượng dịch vụ và sự hài lòng.
Chương 3 trình bày tổng quan về nông nghiệp An Giang và chương trình “Ba
giảm ba tăng”, bao gồm các nội dung: vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế địa
phương, các chương trình nông nghiệp trọng điểm ở An Giang và chương trình “Ba
giảm ba tăng”
Chương 4 trình bày kết quả nghiên cứu về sự hài lòng của nông dân về chất
lượng tập huấn “Ba giảm ba tăng” đã thực hiện ở An Giang từ năm 2002-2006, bao
gồm các nội dung đặc điểm mẫu điều tra, phân tích thông kê thang đo hài lòng và thang
đo chất lượng dịch vụ, phân tích phương sai, phân tích hồi qui hài lòng theo các thành
phần chất lượng dịch vụ và các giải pháp đề xuất.
Cuối cùng là Chương 5 trình bày kết luận về kết quả nghiên cứu và kiến nghị
cho hướng nghiên cứu tiếp theo.
5
Chương 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1- Sự hài lòng.
Sự hài lòng là cảm giác vui thích hoặc thất vọng của một người bắt nguồn từ sự
so sánh cảm nhận với mong đợi về một sản phẩm (Kotler, 2000, dẫn theo Lin, 2003).
Sự hài lòng của khách hàng được định nghĩa như là kết qủa của sự đánh giá cảm
tính và nhận thức, ở đó vài tiêu chuẩn được so sánh với sự thực hiện cảm nhận được.
Nếu cảm nhận về sự thực hiện một dịch vụ thấp hơn mong đợi, khách hàng không hài
lòng. Ngược lại, nếu cảm nhận vượt quá mong đợi, khách hàng sẽ hài lòng. Sự phán
đóan hài lòng có liên quan đến tất cả kinh nghiệm về sản phẩm, quá trình bán hàng và
dịch vụ hậu mãi của doanh nghiệp (Lin, 2003). Hài lòng là hàm số của mong đợi, cảm
nhận cùng với khoảng cách giữa cảm nhận và mong đợi (Oliver, 1980, dẫn theo King,
2000).
Hình 2.1 Mô hình hài lòng
Hài lòng là hàm số của mong đợi, cảm nhận, cùng với khỏang cách giữa cảm nhận
và mong đợi ( Oliver 1980, dẫn theo King, 2000).
Mong đợi
Chất lượng
cảm nhận
khỏang cách Hài lòng
6
2.2- Chất lượng dịch vụ và cách đánh giá
2.2.1- Chất lượng dịch vụ.
Chất lương dịch vụ khó định nghĩa, mô tả và đo lường so với sản phẩm hữu hình
là do các đặc tính sau (Ghobadian, Speller&Jones, 1993; Groth&Dye, 1999; Zeithaml
et al., 1999; dẫn theo Thongmasak 2001):
(1) Vô hình (intangibility). Khác với sản phẫm chế tạo là hữu hình, dịch vụ là
vô hình. Sản phẩm dịch vụ thuần túy là sự thực hiện. Khách hàng không thể nhìn thấy,
nếm, ngửi, nghe, cảm nhận hoặc tiếp xúc trước khi mua nó.
(2) Không đồng nhất (heterogeneity). Dịch vụ rất khó thực hiện một cách
đồng nhất và chính xác theo theo thời gian mà thường hay thay đổi tùy theo nhà cung
cấp, tùy theo khách hàng, tùy theo thời gian thực hiện …Đặc tính nầy của dịch vụ làm
cho khó tiêu chuẩn hóa chất lượng dịch vụ giống như là đối với sản phẩm chế tạo.
(3) Không thể tách rời (inseparability). Trong ngành dịch vụ, cung ứng
thường được thực hiện cùng lúc với tiêu thụ . Do đó, nhà cung cấp khó che dấu lỗi hay
những khiếm khuyết của dịch vụ vì nó không có khỏang cách thời gian từ sản xuất tới
tiêu thụ như sản phẩm hữu hình.
(4) Dễ hỏng (perishability). Khác với sản phẩm chế tạo, dịch vụ không thể
tồn trữ để tiêu thụ sau đó . Điều nầy làm cho khó kiểm tra chất lượng trước khi cung
cấp cho người tiêu dùng. Do vậy, nhà cung cấp dịch vụ chỉ có một cách duy nhất là
cung cấp đúng ngay từ lần đầu và mọi lúc.
(5) Không thể hòan trả (non-returnable). Dịch vụ không thể hòan trả lại.
Trong nhiều ngành dịch vụ, khách hàng có thể được trả lại tiền nếu không hài lòng với
dịch vụ cung ứng.
(6) Không chắc chắn trong đáp ứng nhu cầu (Needs-match uncertainty). Các
thuộc tính của dịch vụ kém chắc chắn hơn là sản phẩm hữu hình. Điều nầy dẫn tới dịch
vụ khó đáp ứng nhu cầu hơn là sản phẩm hữu hình.
(7) Quan hệ cá nhân (interpersonal). Dịch vụ có khuynh hướng bị ảnh hưởng
bởi quan hệ qua lại giữa con người hơn sản phẩm hữu hình vì dịch vụ do con người
7
thực hiện. Thí dụ: Trong khi khách hàng đánh giá chất lượng máy hút bụi bằng cách
xem tấm thảm sạch thế nào thì họ đánh giá chất lượng dịch vụ làm sạch thảm qua cả
dáng vẻ của tấm thảm và thái độ của người thực hiện.
(8) Tính cá nhân (personal). Khách hàng thường đánh giá dịch vụ dựa vào
cảm nhận cá nhân của mình.
(9) Tâm lý (Psychic). Khi một chuyến bay bị trễ, khách hàng thường bực bội.
Tuy nhiên, nếu nhân viên sân bay rất thân thiện và giúp ích, họ có khuynh hướng vẫn
vui lòng với dịch vụ nầy.
2.2.2- Mô hình các khoảng cách trong khái niệm chất lượng dịch vụ.
Chất lượng dịch vụ là khái niệm khuấy động sự chú ý và tranh cãi trong các
nghiên cứu vì sự khó khăn trong cả định nghĩa và đo lường nó với nhiều bất đồng nổi
lên. Có nhiều định nghĩa về chất lượng dịch vụ. Một định nghĩa về chất lượng dịch vụ
thông dụng coi đó như là mức độ đáp ứng của dịch vụ với nhu cầu của khách hàng
hoặc mong đợi của khách hàng (Lewis & Mitchell,1990; Dotchin & Oakland, 1994;
Asuboteng et al., 1996; Wisniewski & Donnelly, 1996 dẫn theo Arash Shahin ). Như
vậy, chất lượng dịch vụ có thể định nghĩa như là sự khác biệt giữa mong đợi của khách
hàng và dịch vụ nhận biết được. Nếu mong đợi của khách hàng lớn hơn sự thực hiện,
thì chất lượng nhận biết được kém thỏa mãn, khách hàng không hài lòng.
Parasuraman, Zeithaml và Berry (1985) đưa ra mô hình 5 khỏang cách trong
khái niệm chất lượng dịch vụ. Sau đó Curry (1999, dẫn theo Arash Shahin), Luk và
Layton (2002, dẫn theo Arash Shahin) bổ sung thêm khỏang cách 6 và khỏang cách 7
(Hình 2.2). Có 3 khoảng cách quan trọng là : khoảng cách 1, khoảng cách 5 và khoảng
cách 6 vì chúng có quan hệ trực tiếp với khách hàng.
Khoảng cách 1: Khác biệt giữa mong đợi của khách hàng và nhận thức của nhà
quản lý: Đó là do thiếu định hướng nghiên cứu marketing, thông tin không đầy đủ
và quá nhiều tầng nấc quản lý.
Khoảng cách 2: Khác biệt giữa nhận thức của nhà quản lý và các tiêu chí của dịch
vụ: đó là do thực hiện không đầy đủ về chất lượng dịch vụ, tiêu chuẩn hoá các công
việc và không xác định rõ các mục tiêu .
8
Khoảng cách 3: Khác biệt giữa tiêu chí dịch vụ và phân phối dịch vụ: Đó là do phân
công nhiệm vụ không rõ ràng và mâu thuẩn hoặc thiếu phù hợp giữa công việc và
công nhân, công việc và công nghệ; hệ thống kiểm tra giám sát không thích hợp;
thiếu hoạt động phối hợp nhóm.
Khoảng cách 4: Khác biệt giữa phân phối dịch vụ và thông tin đến với khách hàng:
Đó là do thông tin theo chiều ngang không đầy đủ và khuynh hướng hứa hẹn quá
đáng của nhà cung cấp.
Khoảng cách 5: Khác biệt giữa mong đợi của khách hàng và cảm nhận về dịch vụ
nhận được. Đó là do những ảnh hưởng được tạo ra từ phía khách hàng và khoảng
cách trong đáp ứng của nhà cung cấp dịch vụ. Trong trường hợp nầy, mong đợi của
khách hàng bị ảnh hưởng bởi nhu cầu cá nhân, các khuyến cáo truyền miệng và
kinh nghiệm quá khứ.
Khoảng cách 6: Sự khác biệt giữa mong đợi của khách hàng và nhận thức của nhân
viên cung cấp dịch vụ: Đó là do nhận thức về mong đợi của khách hàng của người
trực tiếp cung cấp dịch vụ khác nhau.
Khoảng cách 7: Khác biệt giữa nhận thức của nhân viên cung cấp dịch vụ và nhận
thức của nhà quả lý: Đó là do nhận thức của nhân viên cung cấp dịch vụ và nhà
quản lý về mong đợi của khách hàng khác nhau.
Mô hình các khoảng cách trong khái niệm chất lượng dịch vụ là một trong
những đóng góp được tiếp nhận nhiều nhất và có gía trị tốt nhất vào các tài liệu nghiên
cứu về dịch vụ (Brown và Bond, 1995; dẫn theo Arsah Shahin). Mô hình nầy nhận
dạng 7 khoảng cách liên quan đến nhận thức về phía quản lý về chất lượng dịch vụ, và
các nhiệm vụ kết hợp với khâu phân phối dịch vụ cho khác hàng. Sáu khoảng cách 1, 2,
3, 4, 6 và 7 được nhìn nhận như là chức năng của phân phối dịch vụ, trong khi khoảng
cách 5 liên quan tới khách hàng và nên nó được coi là thước đo thật sự về chất lượng
dịch vụ. Từ đó, hình thành phương pháp luận của thang đo SERVQUAL.
9
Hình 2.2 Mô hình các khoảng cách trong chất lượng dịch vụ
KC 5
KC 6
Khách hàng
Nhà cung ứng KC 4
KC 1
KC 3
KC 7 KC 2
Mô hình 5 khỏang cách của Parasuraman và các cộng sự viên được Curry và Luk và
Layton bổ sung khỏang cách 6 và khỏang cách 7. Ba khỏang cách quan trọng là: khỏang cách
1, khỏang cách 5 và khỏang cách 6 vì chúng có quan hệ trực tiếp với khách hàng.
(Parasuraman et al., 1985; Curry, 1999; Luk và Layton, 2002, dẫn theo Arash Shahin)
2.2.3- Thang đo SEVQUAL và SERVPERF
Từ mô hình nói trên, Parasuraman, Zeithhaml và Berry (gọi tắt là PZB) vào năm
1988 đã đưa ra thang đo chất lượng dịch vụ SERVQUAL đo lường chất lượng dịch vụ
Thông tin miệng Nhu cầu cá nhân
Dịch vụ mong đợi
Dịch vụ cảm nhận
Chuyển đổi nhận thức
thành tiêu chí
chất lượng
Nhận thức của nhà
quản lý về mong đợi
của khách hàng
Nhận thức của
nhân viên về mong
đợi của khách hàng
Kinh nghiệm
quá khứ
Thông tin đến
khách hàng
Cung ứng dịch vụ
(bao gồm trước và sau
tiếp xúc )
Deleted:
Deleted:
10
bằng cách tính toán khác biệt giữa mong đợi và cảm nhận của khách hàng. Công cụ
nầy được phát triển từ 4 ngành dịch vụ khác nhau: cho vay lẽ, thẻ tín dụng, môi giới
chứng khoán và bảo trì sản phẩm (Thongmasak, 2001).
SERVQUAL bao gồm 3 phần. Hai phần đầu tiên gồm 2 bộ với 22 mục hỏi thể
hiện 5 thành phần hình thành chất lượng: bộ câu hỏi thứ nhất dùng để xác định mong
đợi của khách hàng đối với dịch vụ, bộ câu hỏi thứ hai dùng để xác định cảm nhận của
khách hàng đối với dịch vụ được nhà cung ứng thực hiện. Khách hàng được yêu cầu
cho điểm mong đợi và cảm nhận của họ theo thang điểm Likert từ 1 (hoàn toàn không
đồng ý) đến 7 (hoàn toàn đồng ý). Khoảng cách giữa mong đợi và cảm nhận được tính
bằng hiệu số giữa cảm nhận và mong đợi. Điểm dương chỉ ra dịch vụ được thực hiện
tốt hơn những gì khách hàng mong đợi, điểm âm chỉ ra dịch vụ có chất lượng kém.
Phần thứ ba đo lường mức độ quan trọng của 5 yếu tố hình thành chất lượng đối với
khách hàng. Mô hình SERVQUAL được gọi là mô hình phi khẳng định
(disconfirmation model).
Năm thành phần của thang đo SERVQUAL là:
(1) Phương tiện hữu hình (Tangibles). Sự thể hiện bên ngoài của cơ
sở vật chất, thiết bị, nhân sự và công cụ truyền thông.
(2) Tin cậy ( Reliability ). Khả năng thực hiện dịch vụ một cách đáng
tin cậy và chính xác.
(3) Đáp ứng (Responsiveness). Sẳn lòng giúp đỡ khách hàng và cung
cấp dịch vụ kịp thời.
(4) Đảm bảo (Assurance). Kiến thức chuyên môn và sự lịch lãm của
nhân viên, khả năng làm cho khách hàng tin tưởng.
(5) Cảm thông (Empathy). Thể hiện sự ân cần, quan tâm đến từng cá
nhân khách hàng.
Độ tin cậy của các thành phần đo lường bằng hệ số Cronbach Alpha trong
nghiên cứu của PZB ở các ngành điện thọai, bảo hiểm, ngân hàng ở Mỹ đạt rất cao, từ
11
0.83 – 0.93. Sự kết hợp giữa 5 thành phần nầy với đánh giá chất lượng tổng quát khá
chặt chẽ và có ý nghĩa thống kê (PZB, 1991).
Khi áp dụng vào nghiên cứu thực tế các ngành dịch vụ, số lượng các nhân tố cấu
thành chất lượng dịch vụ rút ra được có thể ít họăc nhiều hơn 5 thành phần kể trên. Sự
khác nhau đó có thể là do sự tương đương giữa các thành phần hoặc sự khác nhau trong
đánh giá của khách hàng qua các mục hỏi trong một thành phần đối với một công ty
cung cấp dịch vụ (PZB, 1991). Những nhân tố của chất lượng dịch vụ có thể thay đổi
tùy thuộc vào ngành hay lãnh vực nghiên cứu (Bakabus và Boller, 1992 ; Cronin và
Taylor,1992; dẫn theo Bùi Nguyên Hùng và Võ Khánh Tòan, 2005).
Từ khi được đưa ra, SERVQUAL chứng tỏ rất hữu ích cho việc đánh giá chất
lượng dịch vụ. PZB (1991) cho rằng, ở mức độ tổng quát, cấu trúc 5 thành phần của
SERVQUAL có thể phục vụ như là khung khái niệm có ý nghĩa để tóm tắt những tiêu
chuẩn mà khách hàng dùng để đánh giá chất lượng dịch vụ; đồng thời, các ông cũng
đưa chỉ dẫn là (1) SERVQUAL nên được dùng một cách toàn bộ, (2) có thể bổ sung
vào SERVQUAL những mục hỏi chuyên biệt cho ngành dịch vụ nhưng phải tương tự
với các mục hỏi của SERVQUAL và sắp xếp vào một trong những thành phần của
SERVQUAL, (3) SERVQUAL có thể bổ sung một cách hiệu quả bằng những nghiên
cứu định tính hoặc định lượng để vạch ra nguyên nhân các khoảng cách được nhận ra
bởi SERVQUAL.
Có nhiều phê bình, câu hỏi về khái niệm, giá trị và khả năng tiếp cận của thang
đo SERVQUAL. Từ việc đánh giá SERVQUAL, Cronin và Taylor đưa ra thang đo
SERVPERF vào năm 1992 (Thongmasak, 2001). SERVPERF xác định chất lượng dịch
vụ bằng cách chỉ đo lường chất lượng dịch vụ cảm nhận (thay vì cả mong đợi và cảm
nhận như SERVQUAL). Các nhà nghiên cứu sau đó đã nghiên cứu 4 mô hình chất
lượng dịch vụ để đánh giá tính hiệu quả của SERVQUAL và SERVPERF, đó là:
(1) SERVQUAL: Chất lượng dịch vụ = Cảm nhận - mong đợi
(2) SERVQUAL có trọng số: Chất lượng dịch vụ = trọng số *(cảm nhận-
mong đợi)
(3) SERVPEF : chất lượng dịch vụ = cảm nhận
12
(4) SERVPERF có trọng số: chất lượng = trọng số * cảm nhận
Kết luận từ nghiên cứu nầy là SERVPERF không có trọng số đo lường cảm
nhận dịch vụ được thực hiện tốt hơn các thang đo khác về chất lượng dịch vụ
(Robinson, 1999; Franceschini, 1998; Lee et al., 2000; dẫn theo Thongmasak).
Do xuất xứ từ thang đo SERVQUAL, các thành phần và biến quan sát của thang
đo SERVPERF cũng giống như SERVQUAL. Mô hình SERVPERF được gọi là mô
hình cảm nhận (perception model). Cả hai mô hình phi khẳng định và mô hình cảm
nhận đều được những nghiên cứu sau đó ủng hộ và phát triển thêm cho phù hợp với các
loại hình dịch vụ. Tuy nhiên, mô hình SERVPERF đơn giản và dễ thực hiện hơn.
2.3- Quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng.
Sự hài lòng của khách hàng và chất lượng dịch vụ là hai khái niệm phân biệt
nhưng có quan hệ gần gủi với nhau. Chất lượng dịch vụ là khái niệm mang tính khách
quan, nhận thức, đánh giá trong khi hài lòng là sự kết hợp của các thành phần mang
tính chủ quan, dựa vào cảm giác, xúc cảm (Shemwell et al., 1998, dẫn theo
Thongmasak).
Quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và hài lòng của khách hàng vẫn còn có nhiều ý
kiến khác nhau, sự hài lòng là tiền tố (antecedent) của chất lượng dịch vụ hay ngược
lại. Những nhà nghiên cứu Parasuraman, Zeithaml, Bitner, Bolton và Drew ủng hộ
quan điểm sự hài lòng dẫn tới chất lượng dịch vụ, coi chất lượng dịch vụ như là sự
lượng giá tổng quát dài hạn, trong khi sự hài lòng là sự đánh giá chuyên biệt qua giao
dịch. Các nhà nghiên