Luận văn Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: Thực trạng và giải pháp

Trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay, đặc biệt là khi Việt Nam đã ra nhập WTO thì việc phát triển cơ sở hạ tầng nói chung và cơ sở hạ tầng đô thị nói riêng một cách đồng bộ, đạt trình độ tiên tiến, tiêu chuẩn hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, vừa là điều kiện vừa là một nội dung cơ bản của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và tạo cơ sở quan trọng cho sự nghiệp đổi mới và phát triển bền vững nền kinh tế đất nước. Nó là động lực để phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế và rút ngắn khoảng cách với bên ngoài. Hệ thống cơ sở hạ tầng tiên tiến và đồng bộ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, làm giảm sự chênh lệch về mức sống và dân trí giữa các khu vực dân cư. Tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng, dân số đô thị cũng tăng lên với tốc độ chóng mặt, điều này sẽ đồng nghĩa với sự gia tăng các nhu cầu. Một trong những nhu cầu đó là nhu cầu tiêu thụ nước sạch ở đô thị. Để giải quyết vấn đề trên thì yêu cầu đặt ra là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước. Do vậy, vấn đề về vốn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là rất lớn, cần phải đa dạng hóa các nguồn vốn cho việc đầu tư phát triển. Nhưng khi mà các nguồn vốn Ngân sách nhà nước, nguồn vốn ưu đãi quốc tế như ODA có xu hướng giảm thì việc đẩy mạnh thu hút đầu tư tư nhân đang ngày càng trở nên có vai trò quan trọng hơn.Cũng là lý do vì sao em chọn đề tài : “ Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: thực trạng và giải pháp” Đề tài được trình bày trong 2 chương : Chương 1: Thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội Chương 2: Một số giải pháp tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội

doc70 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2266 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: thực trạng và giải pháp Lời nói đầu Trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay, đặc biệt là khi Việt Nam đã ra nhập WTO thì việc phát triển cơ sở hạ tầng nói chung và cơ sở hạ tầng đô thị nói riêng một cách đồng bộ, đạt trình độ tiên tiến, tiêu chuẩn hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, vừa là điều kiện vừa là một nội dung cơ bản của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và tạo cơ sở quan trọng cho sự nghiệp đổi mới và phát triển bền vững nền kinh tế đất nước. Nó là động lực để phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế và rút ngắn khoảng cách với bên ngoài. Hệ thống cơ sở hạ tầng tiên tiến và đồng bộ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, làm giảm sự chênh lệch về mức sống và dân trí giữa các khu vực dân cư. Tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng, dân số đô thị cũng tăng lên với tốc độ chóng mặt, điều này sẽ đồng nghĩa với sự gia tăng các nhu cầu. Một trong những nhu cầu đó là nhu cầu tiêu thụ nước sạch ở đô thị. Để giải quyết vấn đề trên thì yêu cầu đặt ra là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước. Do vậy, vấn đề về vốn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là rất lớn, cần phải đa dạng hóa các nguồn vốn cho việc đầu tư phát triển. Nhưng khi mà các nguồn vốn Ngân sách nhà nước, nguồn vốn ưu đãi quốc tế như ODA có xu hướng giảm thì việc đẩy mạnh thu hút đầu tư tư nhân đang ngày càng trở nên có vai trò quan trọng hơn.Cũng là lý do vì sao em chọn đề tài : “ Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: thực trạng và giải pháp” Đề tài được trình bày trong 2 chương : Chương 1: Thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội Chương 2: Một số giải pháp tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU . Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của một quốc gia là một trong những vấn đề hàng đầu mà nhà đầu tư quan từm khi quyết định thực hiện đầu tư. Trong những năm qua, cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam đú cỳ những bước phỏt triển, đỏp ứng phần nào yờu cầu phỏt triển kinh tế xú hội nỳi chung và khẳng định được vai trũ của lĩnh vực này đối với quỏ trỡnh thu hỳt vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài núi riờng Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển đó, cơ sở hạ tầng kỹ thuật của chúng ta đã và đang bộc lộ hạn chế về nhiều mặt, chẳng hạn sự xuống cấp của hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, phí bưu điện khá cao... Dẫn đến vai trò của lĩnh vực cơ sở hạ tầng kỹ thuật bị suy giảm, xuất hiện nguy cơ về sự giảm sút của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xuất phát từ thực tiễn trên, với sự tìm hiểu và nghiên cứu của mình, hơn nữa được hướng dẫn, giúp đỡ của em đã nhận thức được rõ vai trò và tầm quan trọng của lĩnh vực cơ sở hạ tầng kỹ thuật với quá trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài . Đây là lý do em chọn đề tài: "Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: thực trạng và giải pháp " Nhưng vì cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một khái niệm riêng bao gồm một hệ thống các công trình như cấp điện, cấp nước, giao thông, nhà ở, thông tin liên lạc...mà thời gian nghiên cứu hạn chế, nên em chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu một số bộ phận như cấp điện, giao thông, thông tin liên lạc. Chương 1: Thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội 1.1. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, vai trò và mô hình cung cấp nước đô thị điển hình: 1.1.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: 1.1.1.1. Cơ sở hạ tầng: Khái niệm: Cơ sở hạ tầng là tổ hợp các công trình vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp dịch vụ sản xuất đã sống của dân cư, được bố trí trên một phạm vi lãnh thổ nhất định. Chúng ta có thể thấy có hai loại ý kiến khác nhau xuất phát từ hai quan niệm theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp về cơ sở hạ tầng. Theo nghĩa hẹp, cơ sở hạ tầng được hiểu là tập hợp các ngành phi sản xuất vật chất thuộc lĩnh vực lưu thông bao gồm các công trình vật chất kỹ thuật phi sản xuất và các tổ chức dịch vụ có chức năng bảo đảm những điều kiện chung cho sản xuất, phục vụ những yêu cầu phổ biến của sản xuất và đời sống xã hội, theo cách hiểu này cơ sở hạ tầng chỉ bao gồm các công trình giao thông, cấp thoát nước, cung ứng điện, hệ thống thông tin liên lạc…và các đơn vị bảo đảm duy trì các công trình này. Tuy nhiên, quan niệm cơ sở hạ tầng theo nghĩa hẹp không cho chúng ta thấy mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận vốn không cùng tính chất nhưng lại có mối liên quan mật thiết với nhau trong một hệ thống thống nhất. Theo nghĩa rộng, cơ sở hạ tầng là tổng thể các công trình và nội dung hoạt động có chức năng đảm bảo những điều kiện “ bên ngoài” cho việc sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Cơ sở hạ tầng là một phạm trù gần nghĩa với “môi trường kinh tế” bao gồm các phân hệ : Phân hệ kỹ thuật: đường, giao thông, cầu cảng, sân bay, năng lượng, bưu chính viễn thông…, phân hệ tài chính: hệ thống tài chính, tín dụng…, phân hệ thiết chế: pháp luật…, phân hệ xã hội: giáo dục, y tế…. Theo cách hiểu này thì cơ sở hạ tầng rất rộng, nó bao gồm toàn bộ khu vực dịch vụ. Theo nghĩa rộng thì cơ sở hạ tầng không có sự đồng nghĩa và lẫn lộn giữa phạm trù “ khu vực dịch vụ” hoặc là “ môi trường kinh tế” bởi cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các khu vực kinh tế khác nhau phát triển. Như vậy, cơ sở hạ tầng là tổng hợp các công trình vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp cho sản xuất và đời sống của nhân dân, được bố trí trên phạm vi lãnh thổ nhất định. Các công trình vật chất kỹ thuật ở đây rất đa dạng như các công trình giao thông vận tải: đường xá, cầu cống, sân bay…; các công trình của ngành bưu chính - viễn thông: hệ thống đường cáp quang, các trạm, vệ tinh…hay các công trình của ngành điện:đường dây, nhà máy phát điện… Các công trình này có vị trí hết sức quan trọng, nó phục vụ trực tiếp và gián tiếp cho các hoạt động của xã hội. Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển quá trình tiến hành các hoạt động chỉ là sự kết hợp giản đơn giữa 3 yếu tố đó là lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động chưa có sự tham gia của cơ sở hạ tầng. Nhưng khi lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ cao thì để sản xuất có hiệu quả cần có sự tham gia của cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật được phát triển mạnh mẽ gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Bên cạnh đó, chính vì sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng kỹ thuật mà nó thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành phát triển cơ sở hạ tầng ở giai đoạn 3. Giai đoạn vừa phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật vừa phát triển cơ sở hạ tầng xã hội. Như vậy, khi khoa học kỹ thuật ngày càng được nâng cao thì cơ sở hạ tầng càng phát triển. Phân loại cơ sở hạ tầng Để có thể nhận biết và có biện pháp tạo lập vốn phù hợp đối với từng loại sơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển cơ sở hạ tầng, có thể phân chia cơ sở hạ tầng theo nhiều tiêu thức khác nhau: Theo tiêu thức ngành kinh tế quốc dân: Dựa vào tiêu thức phân loại này, cơ sở hạ tầng được chia thành : Cơ sở hạ tầng kinh tế : bao gồm cơ sở hạ tầng công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông…; Cơ sở hạ tầng xã hội: bao gồm cơ sở hạ tầng giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao… Theo đó, Cơ sở hạ tầng kinh tế là cơ sở hạ tầng phục vụ lĩnh vực kinh tế, đó là hệ thống vật chất kỹ thuật cho sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực kinh tế như cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp, nông nghiệp, hệ thống giao thông vận tải; mạng lưới chuyên tải và phân phối năng lượng điện; hệ thống công trình và phương tiện thông tin liên lạc, bưu điện, viễn thông, cấp thoát nước… Cơ sở hạ tầng phục vụ lĩnh vực xã hội ( Cơ sở hạ tầng xã hội) : Đó là toàn bộ hệ thống vật chất kỹ thuật phục vụ cho các hoạt động văn hoá, xã hội đảm bảo cho việc thoả mãn và nâng cao trình độ dân trí, văn hoá tinh thần cho dân cư, cho quá trình tái sản xuất sức lao động của xã hội như các cơ sở, thiết bị và công trình phục vụ giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, các cơ sỏ y tế phục vụ chăm sóc sức khỏe…nó thường gắn với đời sống của các điểm dân cư, góp phần ổn định nâng cao đời sống dân cư trên lãnh thổ Sự phân chia này chỉ là tương đối vì trên thực tế, ít loại cơ sở hạ tầng nào hoàn toàn chỉ phục vụ kinh tế mà không phục vụ hoạt động xã hội và ngược lại. Chẳng hạn như hệ thống mạng lưới điện mở rộng đến nông thôn, đến vùng sâu, vùng xa giúp cho việc phát triển sản xuất nhưng đồng thời nó còn phục vụ cho đời sống, ở những nơi có điện, người dân có thể sử dụng các phương tiện hiện đại như đài, ti vi… để tiếp cận với những thông tin văn hóa xã hôi, nâng cao trình độ dân trí. Sự phân chia này cho phép chúng ta xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng ngành cụ thể, đồng thời xác lập mối quan hệ liên kết và phối hợp đồng bộ giữa các ngành trong quá trình xây dựng kế hoạch huy động vốn đầu tư một cách cân đối và hợp lý. Theo khu vực lãnh thổ: Cơ sở hạ tầng ở mỗi ngành , mỗi lĩnh vực hoặc liên ngành, liên lĩnh vực hợp thành một tổng thể hoạt động, phối hợp hài hòa nhằm phục vụ sự phát triển của tổng thế kinh tế - xã hội-an ninh - quốc phòng trên từng vùng và cả nước. Sự phát triển kinh tế - xã hội và cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội trên một vùng lãnh thổ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mà mỗi vùng lãnh thổ riêng biệt lại có cơ sở hạ tầng riêng biệt, do đó phải có cơ sở hạ tầng phù hợp. Theo tiêu thức phân loại này, Cơ sở hạ tầng được phân chia thành: Cơ sở hạ tầng đô thị và Cơ sở hạ tầng nông thôn. Theo cấp quản lý và đối tượng quản lý Căn cứ vào tiêu chí này, Cơ sở hạ tầng được chia thành : Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội do trung ương quản lý, hệ thống cơ sở hạ tầng do địa phương quản lý Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội do trung ương quản lý bao gồm những tài sản quan trọng, có giá trị lớn, có chiến lược quốc gia gồm : hệ thống đường quốc lộ, đường sắt, sân bay, bưu chính viễn thông, điện, các trung tâm y tế, giáo dục lớn … Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội do địa phương quản lý, đó là những tài sản được nhà nước giao cho địa phương quản lý như : đường giao thông liên tỉnh, các trạm bơm tưới tiêu, hệ thống cơ sở vật chất các ngành giáo dục, y tế, văn hoá xã hội của địa phương. Cách phân loại này cho phép chúng ta xác định rõ trách nhiệm của từng cấp chính quyền trong việc quản lý, khai thác và sử dụng các công trình cơ sở hạ tầng. Trên cơ sở đó để xây dựng kế hoạch huy động các nguồn vốn đầu tư theo quy hoạch, kế hoach đã đề ra. Xét ở góc độ nào thì cơ sở hạ tầng cũng là một yếu tố, một chỉ số của sự phát triển. Hiện nay, xu thế hội nhập đang diễn ta mạnh mẽ thì tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng ngày càng tăng lên, cơ sở hạ tầng là nền tảng trong đó diễn ra các quá trình phát triển mà thiếu nó ( ví dụ như: hệ thống thông tin viễn thông hiện đại, hệ thống giao thông vận tải, văn hóa, xã hội…) thì sự phát triển khó có thể diễn ra trôi chảy. Chính vì điều đó mà việc xây dựng cơ sở hạ tầng trở thành một nội dung quyết định của sự phát triển, nó đem lại sự thay đổi lớn về điều kiện vật chất của toàn bộ sinh hoạt trong kinh tế xã hội. 1.1.1.2. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: Cơ sở hạ tầng cấp nước là một bộ phận cấu thành cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm một hệ thống các công trình kiến trúc và các phương tiện vật chất kỹ thuật mang tính nền móng cho sự phát triển của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, có chức năng phục vụ nhu cầu nước cho sản xuất và sinh hoạt của xã hội bao gồm hệ thống ống dẫn, các trạm bơm, các nhà máy nước…cùng với các cơ sở vật chất khác phục vụ cho người dân. Xét về phạm vi lãnh thổ, nó gồm có cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị và cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là một bộ phận cấu thành nên cơ sở hạ tầng cấp nước. Nó bao gồm một hệ thống các công trình, nhà máy, đường ống, hệ thống ống dẫn, các trạm bơm…cùng những cơ sở vật chất khác ( hệ thống máy đếm nước…) phục vụ cho các đối tượng dân cư đô thị và đảm bảo cho họ được tham gia vào hệ thống cấp nước đô thị hoạt động một cách an toàn, thông suốt và liên tục. 1.1.2. Vai trò của việc đầu tư phát triển cơ sở hạ cấp nước đô thị: Nhu cầu nước sạch là một trong những nhu cầu cơ bản của con người, trong quá trình phát triển nhu cầu của con người như nhu cầu ăn, mặc, nhu cầu uống… Nước là một nhu cầu thiết yếu của con người. Cơ thể con người chiếm tới 70% là nước. Con người có thể sống một tuần mà không ăn nhưng không thể sống quá ba ngày nếu không có nước uống. Vì vậy nước có thể coi là yếu tố không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của con người. Chỉ tiêu người dân được cung cấp nước sạch là một trong các chỉ tiêu phản ánh mức độ cải thiện chất lượng cuộc sống con người trong quá trình phát triển. Việt Nam hiện nay có 708 đô thị với dân số 21,59 triệu người ( chiếm 26,3% dân số toàn quốc). Cơ sở hạ tầng cấp nước sạch sinh hoạt có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của thành phố Hà Nội. Trước hết để biết được vai trò của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, ta tìm hiểu thế nào là nước sạch cũng như vai trò của nước sạch trong đời sống và trong sản xuất. Nước sạch là nước phải trong, không có màu, không có mùi vị, không chứa các mầm bệnh và các chất độc hại. Chất lượng nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt phải đảm bảo theo quy chuẩn vệ sinh nước ăn uống do Bộ trưởng Bộ Y Tế ban hành( Theo quyết định số 1329/2002/BYT/QĐ ngày 18/04/2002 của Bộ trưởng Bộ Y Tế). Nước sạch phải đảm bảo chất lượng theo quy định trên toàn hệ thống từ sau công trình xử lý đến người trực tiếp sử dụng a/ Trong đời sống sinh hoạt cũng như trong sản xuất, nước sạch có vai trò vô cùng quan trọng, nó đáp ứng nhu cầu số lượng và chất lượng cho sinh họat và sản xuất Nhu cầu nước sạch trong đời sống sinh hoạt: Nước là tài nguyên, là tư liệu thiết yếu cho cuộc sống con người. Không có nước thì không có sự sống. Chúng ta cần nước cho sinh hoạt, bảo vệ sức khoẻ và vệ sinh. Nước sạch có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống của con người. Nó đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người : ăn, uống. Trong cơ thể con người chiếm tới 70% là nước, chúng ta có thể không ăn trong một tuần nhưng không thể sống không quá ba ngày mà không có nước. Hàng ngày mỗi người cần tối thiểu 60 – 80 lít, tối đa tới 150 – 200 lít nước dùng cho sinh hoạt ; riêng lượng nước ăn uống vào cơ thể ít nhất cũng tới 1,5-2 lít mỗi ngày. Ngoài ra, nước dưới đất còn chứa 60 nguyên tố đa lượng, vi lượng rất cần thiết cho sự sống. Nhu cầu nước sạch trong sản xuất: Nước sạch không chỉ dùng trong ăn uống, sinh hoạt cho con người mà nó càn rất cần cho sản xuất nông nghiệp (đảm bảo tưới tiêu nước đi đôi với cải tạo đất lầy thụt, chua phèn, nhiễm mặn, bạc mầu, phục vụ thâm canh, tăng vụ), thuỷ sản, công nghiệp (góp phần quan trọng, bảo đảm các điều kiện để phát triển ngành công nghiệp với nhịp độ cao, mở rộng quy mô và phân bố lại các lĩnh vực sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại), du lịch và các ngành kinh tế khác. Nước còn cần cho phát triển thuỷ điện và giao thông thuỷ. Xu hướng sử dụng nước sạch trong quá trình CNH – HĐH: Tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng nhanh, theo cùng tốc độ đó thì dân cư đô thị ngày một tăng lên. Mặc dù tốc độ tăng dân số tự nhiên ở các vùng đô thị thấp hơn so với ở nông thôn nhưng tốc độ tăng dân số cơ học của các vùng đô thị lại cao hơn, do một bộ phận dân số chuyển từ các vùng nông thôn ra thành thị tìm việc làm. Do đó đòi hỏi nhu cầu về hệ thống cấp nước ngày càng cấp thiết. Thực tế cho chúng ta thấy, dân cư đô thị có nhu cầu chất lượng cao hơn những vùng khác. Sở dĩ có những điều đó là do dân cư đô thị có mức sống cao hơn so với dân cư khu vực nông thôn, do đó đòi hỏi về nước sạch cũng như mức độ sẵn sàng chi trả cho dịch vụ nước sạch của dân cư đô thị so với dân cư nông thôn cũng cao hơn. Cơ sơ hạ tầng phát triển sẽ đảm bảo đáp ứng đủ và trên quy mô rộng cho các nhu cầu khác: Việc phát triển cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ dựa trên cơ sở quy hoạch tổng thể, quy hoạch đô thị và cơ sở hạ tầng đô thị sẽ góp phần giảm thiểu chi phí cho người tiêu dùng cũng như chi phí cho nhà kinh doanh nước sạch. b/ Cơ sở hạ tầng nói chung và cơ sở hạ tầng cấp nước nói riêng phát triển là yếu tố cần thiết tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư phát triển: Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là điều kiện cho quá trình hình thành và phát triển đô thị. Nó là một trong những yếu tố cấu thành cơ sở hạ tầng đô thị , cung cấp những dịch vụ cơ bản, thiết yếu nhất cho các đô thị và phản ánh trình độ phát triển của từng đô thị, trình độ văn minh của đô thị Có thể nói, đối với các đô thị thì cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị còn được coi là bộ mặt của đô thị, hơn thế nữa nó còn là bộ mặt của đất nước. Do vậy chúng ta không thể không quan tâm đến cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là một trong những cơ sở hạ tầng rất quan trọng, đáp ứng nhu cầu cần thiết của đời sống hàng ngày, quyết định việc đảm bảo chất lượng vệ sinh môi trường sống cho người dân và góp phần tích cực phát triển và hiện đại hoá đô thị. 1.1.3. Các mô hình cung cấp đô thị điển hình: Hiện nay, tổng công suất thiết kế của các nhà máy xử lý nước trog toàn công ty là 68.900 m³/ng.đ bao gồm: - Địa bàn thành phố Hải Dương, công suất thiết kế 49.000 m³/ng.đ. + XNSX nước Cẩm Thượng (nước mặt): 35.000m³/ng.đ + XNSX nước Việt Hà (nước ngầm):14.000m³/ng.đ - Địa bàn thị trấn, thị tứ các huyện, công suất thiết kế : 19.000m³/ng.đ\ Hiện nay, công ty đang triển khai các dự án cấp nước cho 5 thị trấn còn lại của tỉnh, công suất thiết kế ³³²² 1.2. Thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: 1.2.1. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: Nhu cầu tiêu thụ nước sạch trên địa bàn Hà Nội phục vụ được dự báo trên cơ sở các nhân tố dự báo về dân số, các mục tiêu như định mức tiêu thụ nước, nhu cầu nước sinh hoạt, thất thoát cơ học và các nhân tố khác. Dự báo dân số Hà Nội đến năm 2020 là khoảng 4,8 triệu người (bảng 1.1), trong đó số dân trong phạm vi cấp nước đô thị là 4,044 triệu người. Trong khi đó, dự báo dân số đô thị trong Điều chỉnh Quy hoạch chung năm 1998 là 2,5 triệu người và con số này cũng đã được lấy làm cơ sở cho dự báo của Quyết định số 50. Nhu cầu nước đến năm 2020 được dự báo vào khoảng 1,690 triệu m3/ngđ, cao hơn 19% so với dự báo của Quyết định số 50 là 1,419 triệu m3/ngđ. Bảng 1.1 : Dự báo dân số Hà Nội đến năm 2020 Đơn vị: Nghìn tỷ 2003 Dự báo đến năm 2020 Dân số Xu hướng QHTT 1998 Đề xuất TP Hà Nội 3,008 4,899 3,579 4,800 Nội thành cũ 1,053 1,390 785 950 Ba Đình 221 340 130 250 Hoàn Kiếm 175 193 130 140 Hai Bà Trưng 301 399 270 280 Đống Đa 358 458 255 280 Nội thành mới 827 1,750 1,001 1,250 Tây Hồ 102 316 120 150 Thanh Xuân 185 322 180 250 Cầu Giấy 158 335 203 250 Hoàng Mai 209 499 203 300 Long Biên 172 278 295 300 Ngoại thành 1127 1759 1793 2600 Từ Liêm 239 619 207 800 Thanh Trì 154 220 189 250 Sóc Sơn 259 309 258 350 Đông Anh 276 333 826 900 Gia Lâm 201 278 313 300 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Nhu cầu tiêu thụ : Dự báo tổng nhu cầu nước sạch năm 2010 ước tính khoảng 1,13 triệu m3/ngđ và năm 2020 là khoảng 1,69 triệu m3/ngđ. Nhu cầu tiêu thụ nước được tính toán cho ba khu vực chính là Tây Nam Hà Nội (hữu ngạn sông Hồng), Đông Nam Hà Nội (tả ngạn sông Hồng và Gia Lâm) và Bắc Hà Nội (tả ngạn sông Hồng, Đông Anh, Sóc Sơn). Trong tổng nhu cầu nước năm 2020, 67% nhu cầu nước tập trung tại Tây Nam Hà Nội, 16% tại Đông Nam Hà Nội và 17% sẽ tập trung tại Bắc Hà Nội. Bảng 1.2 : Nhu cầu nước đô thị phân theo khu vực địa lý đơn vị : 1000 m3/ngđ Khu vực 2003 2020 Nam Hà Nội 631 1.402,7 Bắc Hà Nội 137 287,3 Tổng số 768 1.690 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Tỷ lệ nhu cầu người dân phía Nam Hà Nội là 80% trong năm 2003, phía bắc Hà Nội nhu cầu sử dụng nước chỉ chiếm 20%, theo địh hướng phát triên vùng và dân cư dự tính năm 2020 nhu cầu sử dụng nước phía Nam Hà Nội cao là 83% và ở phía Bắc Hà Nội có 17%. Chứng tỏ rằng trong tươn